Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tinh hoa văn hóa dân tộc - Tư Tưởng Hồ Chí Minh ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.21 KB, 17 trang )

Trước khi nhắc tới vai trò của tinh hoa văn hoá nhân loại đến việc hình
thành tư tưởng ta không thể quên nhắc đến tiểu sử của Người :
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng trước đây lấy tên là
Nguyễn ái Quốc), sinh ngày 19-5-1890 ở làng Kim Liên, xã Nam Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2-9-1969 tại Hà Nội.
Người sinh ra trong một gia đình: Bố là một nhà nho yêu nước, nguồn gốc
nông dân; mẹ là nông dân; chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày.
Ngày 3-6-1911, Người ra nước ngoài, làm nhiều nghề, tham gia cuộc vận động
cách mạng của nhân dân nhiều nước, đồng thời không ngừng đấu tranh cho độc
lập, tự do của dân tộc mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh là người Việt Nam đầu tiên
ủng hộ Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại và tìm thấy ở chủ nghĩa Mác-Lênin
con đường giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân các nước thuộc địa.
Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp tại Đại hội Tua. Năm
1921, người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa Pháp; xuất bản
tờ báo Người cùng khổ ở Pháp (1922). Năm 1923, Người được bầu vào Ban Chấp
hành Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Người tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế
Cộng sản và được chỉ định là Uỷ viên thường trực Bộ Phương Đông, trực tiếp phụ
trách Cục Phương Nam. Năm 1925, Người tham gia thành lập Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức châu á, Xuất bản hai cuốn sách nổi tiếng: Bản án chế độ thực
dân Pháp (1925) và Đường cách mệnh (1927).
Năm 1925, Người thành lập Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí Hội ở
Quảng Châu (Trung Quốc) và tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt cho Hội đó,
đào tạo cán bộ Cộng sản để lãnh đạo Hội và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào
Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, Người chủ tọa Hội nghị thành lập Đảng họp tại Cửu Long
(gần Hương Cảng). Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Điều lệ Đảng do chính Người soạn thảo. Người ra lời kêu gọi nhân dịp thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam (sau đổi là Đảng Cộng sản Đông Dương, rồi Đảng Lao
động Việt Nam và nay là Đảng Cộng sản Việt Nam ).
Từ năm 1930 đến 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động cho sự


nghiệp giải phóng của dân tộc Việt Nam của các dân tộc bị áp bức khác trong
những điều kiện vô cùng gian khổ và khó khăn.
Năm 1941, Người về nước, triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, quyết định đường lối cứu nước, thành
lập Việt Nam độc lập đồng minh Hội (Việt Minh), tổ chức lực lượng vũ trang giải
phóng, chính sách căn cứ địa, lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa từng phần và chuẩn bị
tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Sau Cách mạng Tháng Tám (1945) thắng lợi, ngày 2-9-1945, tại Quảng
trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố
thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; tổ chức Tổng tuyển cử tự do trong cả
nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Quốc
hội khóa I đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1946).
Cùng với Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo toàn Đảng, toàn
quân, toàn dân Việt Nam phá tan âm mưu của đế quốc, giữ vững và củng cố chính
quyền cách mạng.
Ngày 19-12-1946, người kêu gọi cả nước kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc, bảo vệ và phát triển những thành quả
của Cách mạng Tháng Tám.
Tại Đại hội lần thứ II của Đảng (1951), Người được bầu làm Chủ tịch Ban
Chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực
dân Pháp xâm lược đã giành được thắng lợi to lớn, kết thúc bằng chiến thắng vĩ
đại Điện Biên Phủ (1954).
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng (1955) Trung ương Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc,
đồng thời đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn
thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Đại hội lần thứ III của Đảng (1960) đã nhất trí bầu lại Chủ tịch Hồ Chí Minh
làm Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Quốc hội

khóa II, khóa III đã bầu Người làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc
kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ; lãnh đạo sự nghiệp cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều
kiện cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn đưa cách mạng Việt Nam đi
từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Người sáng lập ra Đảng Mácxít-Lêninnít ở
Việt Nam, sáng lập ra Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam, sáng lập ra các lực
lượng vũ trang nhân dân Việt Nam và sáng lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, góp phần tăng cường đoàn kết quốc tế. Người là tấm gương sáng của tinh
thần tập thể, ý thức tổ chức và đạo đức cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, lãnh tụ
kính yêu của giai cấp công nhân và của cả dân tộc Việt Nam, một chiến sĩ xuất
sắc, một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào cộng sản quốc tế và phong trào giải
phóng dân tộc
** Vai trò tinh hoa v ăn ho á trong hình thành tư tưởng
Hồ Chí Minh
Đại hội IX của Đảng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh
là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề
cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Ở đây, xin
làm rõ phần nào nhận định đúng đắn của Đảng ta về tư tưởng vĩ
đại của Người.
Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Nói đến văn hóa nhân loại có tầm cỡ vĩ đại nhất và ảnh hưởng
lớn nhất đối với Hồ Chí Minh là phải nói đến chủ nghĩa Mác-Lênin.
Có thể nói, Hồ Chí Minh đã tiếp thu phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin

và ứng dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, đưa cách
mạng Việt Nam giành nhiều thắng lợi vĩ đại và cống hiến nhiều vào
kho tàng lý luận mác-xít cũng như phương pháp hoạt động sáng tạo
của cuộc cách mạng vô sản.
Xuất thân trong một gia đình khoa bảng, với tư chất thông minh
tuyệt vời, từ nhỏ, Hồ Chí Minh đã được giáo dục Hán học và đã tiếp
thu nền văn hóa phương Tây tại trường Quốc học Huế. Khi bôn ba
khắp năm châu, bốn bể, Người vừa hoạt động cách mạng, vừa học
hỏi không ngừng. Người đã thông thạo các ngôn ngữ tiêu biểu cho
nền văn minh của nhân loại, am tường các nền văn hóa Đông, Tây,
kim, cổ. Khi tiếp thu các nền văn hóa, Người bao giờ cũng phân tích
các yếu tố giá trị toàn nhân loại và vĩnh cửu. Người đã làm giàu trí
tuệ của mình bằng tinh thần văn hóa nhân loại. Người là tượng trưng
cho sự kết hợp hài hòa giữa các nền văn hóa và tỏa ra một nền văn
hóa của tương lai.
Tiếp thu văn hóa phương Đông, trước hết là Nho giáo, Hồ Chí
Minh đã đánh giá đúng đắn vai trò của Nho giáo và người sáng lập
ra nó là Khổng Tử và đã đặc biệt khai thác những mặt tích cực của
tư tưởng Nho giáo.
Hơn ai hết, Hồ Chí Minh hiểu rõ những mặt bất cập, hạn chế
của Nho giáo. Đó là trong Nho giáo có những yếu tố duy tâm, lạc
hậu, phản động như tư tưởng đẳng cấp, khinh lao động chân tay,
khinh phụ nữ, khinh thường thực nghiệm, doanh lợi…Tuy nhiên, Hồ
Chí Minh cũng thấy được những mặt tích cực của nó và khuyên
chúng ta “nên học”. Theo Người, mặt tích cực của Nho giáo là nó đề
cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học với châm ngôn
“Học không biết chán, dạy không biết mỏi”. Về điểm này, Nho giáo
hơn hẳn các học thuyết cổ đại, bởi vì nhiều học thuyết cổ đại chủ
trương ngu dân để dễ cai trị.
Hồ Chí Minh đã khai thác Nho giáo, lựa chọn những yếu tố tich

cực, phù hợp để phục vụ cho nhiệm vụ cách mạng.
Tiếp thu tư tưởng vị tha ở Phật giáo, Hồ Chí Minh là hiện thân của
lòng nhân ái, độ lượng, khoan dung - những nét đặc trưng của giáo
lý đạo Phật.
Thứ nhất là, tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn,
thương người như thể thương thân - một tình yêu bao la không chỉ
dành cho con người mà dành cho cả chim muông, cây cỏ.
Thứ hai là, nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo
làm điều thiện.
Thứ ba là, tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ chất phác
chống lại mọi phân biệt đẳng cấp.
Thứ tư là, Phật giáo Thiền tông đề ra luật “chấp tác”: “nhất
nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày không làm, một ngày
không ăn), đề cao lao động, chống lười biếng. Cuối cùng, Phật giáo
vào Việt Nam, gặp chủ nghĩa yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất
chống ngoại xâm của dân tộc ta, đã hình thành nên Thiền phái Trúc
lâm Việt Nam, chủ trương sống không xa rời, lẩn tránh mà gắn bó
với đời sống của nhân dân, với đất nước, tham gia vào cộng đồng,
vào cuộc đấu tranh của nhân dân, chống kẻ thù dân tộc.
Như thế, có thể nói, những mặt tích cực của Phật Việt Nam đã
đi vào đời sống tinh thần dân tộc và nhân dân lao động. Gia đình
Bác Hồ là gia đình nhà nho nghèo, gần gũi với nông dân, cũng thấm
nhuần tinh thần đó và để lại dấu ấn trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, còn có thể tìm thấy nhiều trích dẫn khác nữa về các
nhà tư tưởng phương Đông như Lão Tử, Mặc Tử, Quản Tử…trong
các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh. Cũng như sau này, khi đã trở
thành người mác-xít, Nguyễn Ái Quốc vẫn tìm hiểu thêm về Chủ
nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn và tìm thấy trong đó “những điều
thích hợp với điều kiện nước ta”. Các tiêu chí của chủ nghĩa Tam
dân là dân tộc - độc lập; dân quyền - tự do; dân sinh - hạnh phúc đã

được Hồ Chí Minh rút gọn trong quốc hiệu của Việt Nam “Độc lập -
Tự do - Hạnh phúc”. Là người mác-xít tỉnh táo và sáng suốt, Hồ Chí
Minh đã biết khai thác những yếu tố tích cực của tư tưởng và văn
hóa phương Đông để phục vụ cho sự nghiệp cách mạng nước ta.
Lĩnh hội tư tưởng văn hóa phương Tây: Trong ba mươi năm
hoạt động cách mạng ở nước ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở
châu Âu nên cũng chịu ảnh hưởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân
chủ và cách mạng của phương Tây
Khi xuất dương, Người đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc,
làm thuê và thường đến thăm khu ở của người da đen. Trong các bài
viết sau này, Người thường nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc
lập, cho quyền sống của con người được ghi lại trong Tuyên ngôn
độc lập 1776 của nước Mỹ. Người đã tiếp thu giá trị của tư tưởng
nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong
bản tuyên ngôn này. Sau này Người đã phát triển nó thành quyền
sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc của tất
cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền được Người nâng lên một tầm
cỡ mới trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945.
Cuối năm 1917, Người từ Anh sang Pháp và quyết định sống
và hoạt động ở thủ đô nước Pháp có ý nghĩa lịch sử rất lớn, mở ra
một thời kỳ mới trong cuộc đời mình.
Là thủ đô của nước Pháp, Pa-ri cũng đồng thời là trung tâm văn
hóa - nghệ thuật của châu Âu. Các trào lưu triết học và các trường
phái nghệ thuật nổi tiếng thế giới phần lớn đều được hình thành và
ra mắt tại đây. Sống ở giữa nơi hợp lưu của các dòng văn hóa thế
giới, Người đã có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng chiếm lĩnh vốn
tri thức của thời đại, đặc biệt là truyền thống văn hóa dân chủ và tiến
bộ của nước Pháp.
Đến với quê hương của lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, Hồ
Chí Minh được tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm của các nhà tư tưởng

khai sáng: Von-te, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…những lý luận gia của
đại cách mạng Pháp 1789, như Tinh thần pháp luật của Mông-tét-
xki-ơ, Khế ước xã hội của Rút-xô, v.v…tư tưởng dân chủ của các
nhà khai sáng đã có ảnh hưởng tới tư tưởng của Người. Ngoài ra,
Người còn hấp thụ được tư tưởng dân chủ và hình thành được phong
cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Rõ ràng là, ở
Pháp, Người đã có thể hoạt động và đấu tranh cách mạng một cách
tương đối tự do, thuận lợi hơn ở trên đất nước mình, dưới chế độ
thuộc địa.
Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ
vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ
Pháp như M. Ca-sanh, P.V. Cu-tuya-ri-ê, G. Mông-mút-xô…mà Hồ
Chí Minh đã từng bước trưởng thành. Con người ấy, trên hành trình
cứu nước, đã làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại,
Đông và Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri
thức nhân loại mà suy nghĩ và lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận
dụng và phát triển.
Kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh của Thiên chúa giáo: Nói đến
việc kết hợp văn hóa Đông, Tây trong con người Hồ Chí Minh,
không thể không đề cập đến sự kế thừa lòng nhân ái, đức hy sinh,
những giá trị cơ bản của Thiên chúa giáo. Người đã cống hiến cả
cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân lao
động khỏi ách áp bức, bóc lột; đã là hiện thân của lòng nhân ái và
đức hy sinh cao cả. Sau này, Người luôn luôn giáo dục cán bộ, đảng
viên về lòng thương người, thương dân, thương các chiến sỹ ngoài
mặt trận - đó là những tư tưởng thấm đậm những giá trị cao cả mang
tính nhân loại mà Thiên chúa giáo đã khởi xướng và răn dạy.
Người lên án gay gắt những kẻ “giả danh Chúa” để thực hiện
những “hành vi ác quỷ”: dẫn đường cho đội quân viễn chinh; cướp
của cải, đánh đập, bắt giết người (đặc biệt là trẻ em); chiếm ruộng

đất canh tác, v.v…Người coi những hành động đó là sự đi ngược lại
và phản bội lòng nhân ái cao cả của Chúa, làm hoen ố tư tưởng lớn
của Ngài là muốn mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Người viết: “Nếu
Chúa bất hạnh đã chịu đóng đanh trên cây thánh giá trở về cõi thế
này, thì chắc Ngài sẽ vô cùng ngao ngán khi thấy “các môn đồ trung
thành” của mình thực hiện đức khổ hạnh như thế nào”.
Người lên án những giáo sĩ đại diện cho chủ nghĩa tư bản phương
Tây, những kẻ nhân danh Chúa để quan hệ mật thiết với thế lực thực
dân, tham gia vào guồng máy của chủ nghĩa thực dân, xâm nhập về
kinh tế và quân sự, áp đặt nền văn hóa thực dân, làm xuất hiện nguy
cơ bá quyền văn hóa, v.v…
Tóm lại, Hồ Chí Minh tiếp thu các tinh hoa văn hóa nhân loại một
cách có chọn lọc rồi vận dụng tinh hoa đó một cách sát hợp vào những
điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc vì mục đích không chỉ cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc mình mà còn góp phần tích cực nhất vào sự
nghiệp của các dân tộc khác trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một chỉnh thể.
Chỉnh thể tư tưởng Hồ Chí Minh tạo ra một hệ giá trị với một
hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của
cách mạng Việt Nam. Nói theo tinh thần nhiều nhà khoa học và
chính khách trên thế giới thì tư tưởng Hồ Chí Minh được hiểu như
một học thuyết, bao gồm một hệ thống những luận điểm được xây
dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí,
nguyện vọng của giai cấp công nhân, dân tộc Việt Nam và hiện thân
cho khát vọng của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ
và tiến bộ xã hội.
Những quan điểm, quan niệm của Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh
vực phản ánh sự nhất quán, xuyên suốt từ cách mạng giải phóng dân
tộc đến cách mạng XHCN, với nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát
triển chủ nghĩa Marx - Lenin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Từ những năm hai mươi đến tận cuối đời, Hồ Chí Minh đã
nhiều lần nhấn mạnh chủ nghĩa Marx - Lenin là chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mạng nhất; là cái cẩm nang thần kỳ; là mặt trời
soi sáng con đường cách mạng của các dân tộc; là vũ khí tư tưởng
không thể gì thay thế được Người khẳng định chúng ta giành được
thắng lợi là do nhiều nhân tố, trong đó cần phải nhấn mạnh là "do cố
gắng vận dụng những lời dạy của Lê-nin, nhưng vận dụng một cách
sáng tạo phù hợp với thực tế Việt Nam" (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb
CTQG, H.1996, T12, Tr 476).
Dân tộc Việt Nam ta có một lòng nồng nàn yêu nước, chủ
nghĩa yêu nước là một động lực lớn; là tinh thần đoàn kết, tự tôn dân
tộc, lòng nhân ái khoan dung, đức tính cần cù, sáng tạo Việt Nam
dưới thời Pháp thống trị là một thuộc địa nửa phong kiến, trong đó
mâu thuẫn dân tộc nổi lên hàng đầu. Hồ Chí Minh chỉ rõ, thuộc địa
không phải như nhiều người tưởng, đó chẳng qua "chỉ là một xứ
dưới đầy cát và trên là mặt trời, vài cây dừa xanh và mấy người khác
mầu da". Ngược lại, "đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Ðông
Dương giấu một cái gì đang sục sôi, đang gào thét và sẽ bùng nổ một
cách ghê gớm, khi thời cơ đến". Theo Người, "nọc độc và sức sống
của con rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung ở thuộc địa hơn là ở
chính quốc" (Sđd, t1, tr 274). Do:
+Nhận thức về vấn đề thuộc địa như vậy là một sáng tạo lớn
của Hồ Chí Minh. Trong điều kiện đó, Hồ Chí Minh đã phát triển hủ
nghĩa Marx - Lenin, không phải đặt nhiệm vụ giải phóng giai cấp lên
trước, mà là giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Người đã phát triển
nhận thức từ chỗ làm cách mạng tư sản dân quyền (1930), cuộc cách
mạng phải giải quyết hai vấn đề: Phản đế và điền địa, đến chỗ cuộc
cách mạng tập trung giải quyết một vấn đề cần kíp "dân tộc giải

phóng" (1941). Nghị quyết Trung ương VIII (5-1941) do Người chủ
trì khẳng định: "Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền
mà chủ trương làm cách mạng giải phóng dân tộc" (Văn kiện Ðảng
toàn tập, t7, Nxb CTQG, 2000, tr119).
+Xuất phát từ thực tế Việt Nam, Hồ Chí Minh khẳng định cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa có khả năng chủ động giành
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc và tác động trở lại
cách mạng chính quốc. Như vậy, nhận thức và cách giải quyết của
Hồ Chí Minh góp phần bổ sung làm phong phú lý luận Marx - Lenin
về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Hồ Chí Minh còn có nhiều vận dụng sáng tạo khác như việc
thành lập Ðảng Cộng sản ở nước thuộc địa; đại đoàn kết tất cả mọi
công dân nước Việt trên cơ sở lực lượng nền tảng là công, nông; dần
dần xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện các nước vốn là thuộc
địa, kinh tế nông nghiệp lạc hậu, khoa học-kỹ thuật kém phát triển,
tiến thẳng lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh xác định rõ phải phát huy nội lực, "đem sức ta mà tự
giải phóng cho ta" (cả trong sự nghiệp giành độc lập và xây dựng
CNXH), đồng thời tranh thủ ngoại lực và kết hợp cả hai loại sức
mạnh đó.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh truyền thống văn hóa
hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, chắt lọc tinh hoa văn hóa
nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt rễ sâu xa từ truyền thống lịch
sử, văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, một dân tộc đầy
những sự tích kỳ diệu trong cuộc trường kỳ chống thiên tai, địch
họa. Trên nền tảng của chủ nghĩa yêu nước, dân tộc Việt Nam lấy
nhân nghĩa làm gốc để thắng hung tàn, đề cao bổn phận đối với Tổ
quốc; trọng dân, đề cao dân, khoan dung, hòa hợp. Ðó cũng là triết
lý phương Ðông mà Hồ Chí Minh đã từng nhắc tới: "Dân vi quý, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh". Tư tưởng "cầu đồng tồn dị" (tìm nét

chung để hạn chế cái khác biệt) là một nét đẹp của văn hóa phương
Ðông mà có lúc Hồ Chí Minh đã nhắc nhở đồng bào theo tinh thần
đó:
"Dân ta xin nhớ chữ đồng
Ðồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh"
Hồ Chí Minh đã chắt lọc từ văn hóa dân tộc, phương Ðông và
phương Tây khát vọng hòa bình của con người, xây đắp một nền văn
hóa hòa bình: Người hiện thân cho lý tưởng chung của nhân loại:
Ðộc lập, tự do, bình đẳng, bác ái, hạnh phúc.
Phương pháp Hồ Chí Minh. Với tư cách là chủ thể, Hồ Chí
Minh không những là một nhà tư tưởng lớn, nhà chiến lược thiên tài,
nhà tổ chức vĩ đại mà ở Người còn nhuần nhuyễn về phương pháp,
đặc biệt là phương pháp cách mạng. Về lĩnh vực này, thế giới coi
Người là bậc thầy. Phương pháp Hồ Chí Minh không chỉ là một
khoa học, mà còn là một nghệ thuật. Ở Hồ Chí Minh, tư tưởng và
phương pháp hòa quyện vào nhau. Từ phương pháp luận, Hồ Chí
Minh có những phương pháp hành động cụ thể đạt hiệu quả cao
trong mọi tình huống. Phương pháp Hồ Chí Minh xuất phát từ
truyền thống và thực tiễn Việt Nam dưới ánh sáng chủ nghĩa Marx -
Lenin; từ cái tâm, cái đức, trí tuệ, bản lĩnh và niềm tin vào nhân dân,
vào thắng lợi của cách mạng không gì lay chuyển được của Người.
Hồ Chí Minh là bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, luôn kết hợp một
cách tài tình lý luận với thực tiễn trên tinh thần "Dĩ bất biến ứng vạn
biến". Do đó Người có khả năng lôi cuốn, quy tụ mọi người Việt
Nam, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Người giải
quyết thành công mối quan hệ thời - thế - lực; thiên thời - địa lợi -
nhân hòa
Hồ Chí Minh nổi bật là một anh hùng giải phóng dân tộc, danh
nhân văn hóa thế giới. Chất "anh hùng" và chất "văn hóa" luôn hòa
quyện, thống nhất với nhau.

Tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với đường lối đúng đắn của Ðảng
là ngọn cờ thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong hơn 70 năm qua,
là tài sản tinh thần vô giá tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Mi-ghen Ðê-xtê-pha-
nô, giáo sư, cố vấn Viện nghiên cứu Á châu (Cuba) đã viết: "Người
không phải là một kỷ niệm của quá khứ. Người là một con người kỳ
diệu cho tất cả mọi thời đại. Tất cả những người Cuba, tất cả những
người có lương tri trên thế giới nhìn thấy ở Nguyễn Ái Quốc -Người
yêu nước", ở Hồ Chí Minh - "Người chiếu sáng", ở Bác Hồ "Vị Chủ
tịch kính yêu".
Trong công cuộc đổi mới, vận dụng sáng tạo và phát triển tư
tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta cần phát huy trí tuệ, bản lĩnh, tinh thần
sáng tạo, đổi mới, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp chặt chẽ
lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm theo nguyên tắc "Dĩ bất biến
ứng vạn biến" với ý thức phục vụ nhân dân cao nhất. Triết lý phát
triển Hồ Chí Minh cũng chính là triết lý phát triển Việt Nam trên
đường hội nhập và phát triển.
Với kết quả nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, Ðại hội
IX của Ðảng đã nói rõ hơn những nội dung cơ bản của tư tưởng
Hồ Chí Minh để định hướng cho toàn Ðảng, toàn dân học tập và
vận dụng thực hiện trong giai đoạn mới.
Trong những năm đầu thế kỷ 21, đất nước ta có cơ hội lớn và
cả thách thức không nhỏ. Tình hình thế giới đang diễn biến phức tạp,
nhanh chóng, khó lường. Ðể thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng Việt Nam trong thời kỳ phát triển mới, cần thấm nhuần sâu
sắc, vận dụng sáng tạo những nguyên lý và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết những
vấn đề nóng bỏng mà thực tiễn đang đặt ra; nghiên cứu, tuyên
truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh phải trở thành một nhiệm vụ

mấu chốt của công tác tư tưởng của Ðảng, cần được toàn Ðảng thực
hiện chặt chẽ, có chất lượng và hiệu quả.
Với tinh thần và ý nghĩa đó, ngày 27-3-2003, Ban Bí thư đã ra
Chỉ thị số 23-CT/TW về đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn mới và nhân dịp kỷ niệm
113 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã phát động tổ chức
đợt tuyên truyền, giáo dục sâu rộng tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðây là
một sinh hoạt chính trị rộng lớn, rất quan trọng cần được tổ chức
chặt chẽ, khoa học, có hệ thống và sau này phải trở thành nền nếp
thường xuyên trong hoạt động của Ðảng và trong đời sống xã hội ta.
Chỉ thị của Ban Bí thư đã được toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân
ta đón nhận và tổ chức thực hiện với tinh thần tin tưởng, phấn khởi,
hào hứng. Hơn một năm qua, các cấp, các ngành, các địa phương,
đơn vị đã quán triệt nghiêm túc Chỉ thị 23-CT/TW, tổ chức đợt giáo
dục, tuyên truyền sâu rộng, có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh trong
Ðảng và toàn xã hội. Hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục,
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh đã được tổ chức với nhiều hình thức
phong phú, đa dạng, sáng tạo và rộng khắp 64 tỉnh, thành trong cả
nước, trong mọi tổ chức, đoàn thể, thu hút đông đảo mọi lứa tuổi,
mọi đối tượng tham gia. Nhiều công trình, đề tài khoa học, hàng
chục cuốn sách và tài liệu nghiên cứu, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí
Minh đã được thực hiện và phổ biến rộng rãi. Hàng trăm nghìn lớp
học được tổ chức, thu hút hàng chục triệu người tham gia học tập,
nghiên cứu 10 chuyên đề về tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên các
phương tiện thông tin đại chúng và trên lĩnh vực văn học, nghệ
thuật, nhiều tác phẩm văn học, báo chí, tuyên truyền về cuộc đời, sự
nghiệp, tư tưởng, đạo đức, tác phong Hồ Chí Minh đã được giới
thiệu rộng rãi ở trong nước và nước ngoài.
Ðây là lần đầu Ðảng ta phát động và tổ chức đợt nghiên cứu,
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh với quy mô rộng lớn

và được chỉ đạo thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, khoa học. Ðặc biệt
là, cùng với việc nghiên cứu, tuyên truyền giáo dục tư tưởng Hồ Chí
Minh trong các tổ chức, đoàn thể và học tập qua trường, lớp, qua
sách, báo, trên các phương tiện thông tin đại chúng, Ban Tư tưởng -
Văn hóa Trung ương đã chỉ đạo hướng dẫn và tổ chức các cuộc thi
báo cáo viên giỏi về tư tưởng Hồ Chí Minh từ cấp cơ sở đến toàn
quốc; làm cho hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh thêm sinh động hấp dẫn, hiệu quả, ấn tượng và
lan tỏa. Các hội thi từ cơ sở đã thu hút sự tham gia của hàng vạn báo
cáo viên ở mọi đối tượng, mọi lứa tuổi, là cán bộ, đảng viên, công
nhân, viên chức, nông dân, bộ đội, công an, học sinh, sinh viên
Đỉnh cao của các hội thi là cuộc thi chung khảo toàn quốc được
tổ chức rất trang trọng, hoành tráng, ấn tượng, cảm động và đầy ý
nghĩa tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, thủ đô Hà Nội vào đúng dịp kỷ
niệm lần thứ 114 Ngày sinh của Bác (19-5-1890 - 19-5-2004).
Sau hơn một năm thực hiện Chỉ thị 23-CT/TW của Ban Bí thư, hoạt
động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân đã đạt được những kết quả
bước đầu rất quan trọng, tạo cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu
tuyên truyền, giáo dục và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng
sâu sắc hơn. Hoạt động nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng
Hồ Chí Minh đã trở thành sinh hoạt chính trị rộng lớn, góp phần
nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận của cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Qua nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, những băn
khoăn, vướng mắc, hoài nghi dao động trong nhận thức về mục tiêu
lý tưởng và nền tảng tư tưởng của Ðảng, về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, về bản sắc dân tộc và hội
nhập quốc tế v.v của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân
đã được giải đáp sáng tỏ hơn.
Trên cơ sở nâng cao nhận thức tư tưởng, lý luận, đợt sinh hoạt

chính trị lần này đã góp phần củng cố, nâng cao niềm tin và sự kiên
định đối với nền tảng tư tưởng của Ðảng ta là chủ nghĩa Mác - Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng và
tương lai, tiền đồ của dân tộc, tin tưởng vào thắng lợi của sự nghiệp
đổi mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã từng bước tỏa sáng trong trái
tim, khối óc của mỗi người Việt Nam, hướng về cội nguồn dân tộc,
trân trọng, tự hào và giữ gìn các giá trị văn hóa, đạo đức truyền
thống mà Bác Hồ là biểu tượng và mẫu mực của sự kết tinh các giá
trị phương Ðông và giá trị nhân loại. Học tập, nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh là dịp để mỗi người Việt Nam tự nhìn nhận lại chính
mình, theo tinh thần Bác Hồ đã dặn: Học để hành, để làm người, để
phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân, phụng sự giai cấp và nhân
loại. Với ý nghĩa đó, tư tưởng Hồ Chí Minh đã tiếp tục khơi gợi tinh
thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo để nhìn nhận các vấn đề của
dân tộc và thời đại sâu sắc hơn, tỉnh táo hơn, bản lĩnh hơn, trong mỗi
chúng ta. Học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là thêm một
lần khẩu hiệu "sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương Bác
Hồ vĩ đại" lại được khắc sâu vào tâm trí mỗi cán bộ, đảng viên và
nhân dân ta, tạo động lực tinh thần cho chúng ta tự tin, vững bước đi
lên trên con đường mà Ðảng và Bác đã lựa chọn.
Tuy nhiên, trong năm qua, giữa bộn bề khó khăn, thách thức, lo
toan, việc nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh
trong toàn Ðảng, toàn quân, toàn dân ta tất nhiên khó tránh khỏi
những hạn chế, thiếu sót. Ðiều dễ nhận thấy là còn ít các công trình
nghiên cứu khoa học, các tác phẩm văn học, nghệ thuật, báo chí
ngang tầm với tư tưởng và sự nghiệp của Bác và đòi hỏi của thực
tiễn hiện nay. Tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Hồ
Chí Minh chưa được nghiên cứu đầy đủ sâu sắc. Tư tưởng của
Người chưa được vận dụng một cách toàn diện và gắn chặt với
những lĩnh vực cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng tổ chức, đơn

vị. Việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng của Người được tổ chức
trên diện rộng nhưng chưa thật sâu; lan tỏa song chưa tạo được sự
chuyển biến thật sự trong hành động của cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Phải chăng vì nội dung nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục chưa
được chuẩn bị thật công phu từ cơ sở; hình thức và phương pháp
tuyên truyền, giáo dục ở nhiều nơi còn đơn giản, xuôi chiều. Tính
khoa học, tính chiến đấu trong tuyên truyền, giáo dục chưa thật sâu
sắc. Một bộ phận cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền, giáo
dục tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là ở cơ sở, chất lượng còn hạn chế,
chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
Ðể đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới và nguyện vọng của
đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, để xứng đáng với công lao
to lớn của Bác Hồ và tầm tư tưởng vĩ đại của Người, nghiên cứu
công tác tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải được
tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa, tiến xa hơn nữa trong thời gian tới.

×