Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Viêm loét niêm mạc miệng-lưỡi (Kỳ 1) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.75 KB, 6 trang )

Viêm loét niêm mạc miệng-lưỡi
(Kỳ 1)
Niêm mạc là màng che khắp thành trong của những bộ phận thuộc các bộ
máy hô hấp, tiêu hóa, sinh dục…, mặt phủ một chất nhày có chức năng chống vi
trùng hoặc chống tác dụng có hại của những dịch do cơ thể tiết.
Niêm mạc miệng là lớp bao phủ khoang miệng. Khoang miệng được giới
hạn bởi môi (phía trước), má (hai bên), lưỡi (phía dưới) và vòm hầu (phía sau).
Nói chung thì bất cứ phần nào của cơ thể tiếp xúc với môi trường bên ngoài đều
được bao phủ hoặc bởi da hoặc bởi niêm mạc. Da thì lớp tế bào biểu bì hóa sừng
nên không thấm nước còn niêm mạc thì lớp biểu bì không hóa sừng nên có thể
thấm nước. Ở vùng niêm mạc tiếp xúc với da, lớp niêm mạc có thể bị sừng hóa.
Tổn thương ở niêm mạc miệng, đôi khi ở lưỡi, có rất nhiều nguyên nhân
như: răng sâu, viêm quanh răng, viêm tủy răng; do những sang chấn từ bên ngoài;
do nhiễm vi khuẩn, nhiễm siêu vi; nhiễm nấm; do dị ứng thuốc; do bệnh lý tự
miễn; ung thư biểu mô Biểu hiện tại chỗ thường là các triệu chứng viêm nhiễm,
sưng nóng đỏ đau, lở loét rất khó chịu nhất là khi nhai nuốt, ăn uống; có thể là
những áp xe ở dưới lưỡi, dưới niêm mạc; nhẹ hơn là những vết loét ở lưỡi và niêm
mạc miệng, khi viêm cấp thường tấy đỏ và rất đau, thậm chí sốt cao, nổi hạch góc
hàm. Đặc biệt, các vết loét cấp ở niêm mạc miệng-lưỡi thường tái phát, gây đau
đớn và làm giảm chất lượng cuộc sống của người bệnh.
I. LOÉT MIỆNG CẤP TÁI PHÁT
Nguyên nhân
A. Do chấn thương
-Chấn thương là một trong những nguyên nhân gây loét tái phát thường gặp
nhất, thường do: cơ học, hóa học, kích thích về nhiệt độ gây ra loét đau, lành trong
vòng vài tuần không để lại sẹo. Loét sẽ bị tái phát nếu kích thích nếu vẫn tiếp tục.
- Răng giả, các thủ thuật chỉnh răng bằng kim loại, răng quá bén hoặc cắn
vào niêm mạc miệng, cũng gây ra loét. Răng giả gây ra loét do áp lực, biểu hiện là
vết loét nhỏ hơn 1cm trên phần chóp ổ răng. Loại này thường xảy ra ở vùng niêm
mạc lỏng lẻo như má, môi dưới , hoặc lưỡi. Nghiến răng làm lở dọc theo đường
nghiến tương ứng với răng hàm trên và dưới.


- Các chất hóa học như axit hoặc bazơ, những thuốc kháng viêm như
aspirin dạng ngậm cũng có thể gây loét. Có nhiều thuốc bán không theo đơn cũng
gây tỗn thương niêm mạc khi sử dụng kéo dài. Trẻ em hoặc người bị rối loạn tâm
thần xỉa răng bằng móng tay hoặc dụng cụ cứng khác cũng gây loét.
B. Viêm loét miệng-lưỡi do aphthe tái phát (RECURRENT
APHTHOUS STOMATITIS- RAS)
Xảy ra cho khỏang 20% dân số, thường gặp ở phái nữ và ở trẻ em. Đa số
các trường hợp bệnh giới hạn ở niêm mạc miệng-lưỡi và thường do nhiều yếu tố
kết hợp: chấn thương, hút thuốc, stress, ảnh hưởng nội tiết (hành kinh, có thai,
mãn kinh), di truyền, dị ứng thực phẩm, nhiễm trùng, nhiễm nấm, dị ứng thuốc,
thiếu vitamine C, PP, B6, B12, thiếu sắt, bệnh lý tự miễn. Người ta đã quan sát
hàng trăm gia đình và nhận thấy bệnh này dường như cũng có yếu tố di truyền.
Cha mẹ bị loét miệng thì trẻ nhỏ và con gái trong nhà cũng dễ bị bệnh.
RAS chia làm 2 loại dựa vào hình thái hoặc lâm sàng
1. Theo hình thái
- Loét dạng aphthe nhỏ (Canker sores - Minor aphthous ulcerations)
thường gặp nhất, chiếm khoảng 80 % , điển hình là có một vài đến nhiều vết loét
<1 cm, nông, nằm rời rạc hoặc thành đám, lành trong khỏang 7 – 14 ngày không
để lại sẹo.
- Lóet dạng aphthe lớn (Cold sores - Major aphthous ulcerations): còn
gọi là bệnh Sutton hoặc hoại tử niêm mạc miệng tái phát có viêm hạch ngoại biên,
chiếm khoảng 10 %.Vết loét có kích thước lớn hơn, thường >1cm, có một hoặc
nhiều, lành chậm hơn hoặc dai dẳng nhiều tuần, sau cùng để lại sẹo do hoại tử lan
rộng.
Loại loét dạng herpes để chỉ tổn thương kết thành chùm, nhưng không liên
quan đến virus herpes, thường số lượng nhiều từ 10 – 100 , nhiều vết loét nhỏ
nhanh chóng kết hợp lại thành mảng lớn, lành trong khỏang 7 – 30 ngày.
RAS có chung đặc điểm là vết loét có màu đỏ ở xung quanh, trung tâm có
mảng mục màu vàng, có thể có giai đoạn báo trước kéo dài khoảng 24 giờ, kế đến
là đau nhiều 2 - 3 ngày, dần dần giảm đau khi bắt đầu lành

2. Theo lâm sàng
- Lóet đơn giản: số lượng từ vài đến nhiều vết loét, lành trong vòng 1 – 2
tuần, hay tái phát.
.
- Loét phức tạp: biểu hiện lâm sàng nặng, kích thước lớn, số lượng nhiều,
loét sâu, , tồn tại dai dẳng, chậm lành, đau nhiều. Loét mới tạo thành khi loét cũ
vừa lành, bệnh nhân ít khi thấy khỏi bệnh.Đôi khi RAS là triệu chứng của bệnh hệ
thống như:Hội chúng Behcet; sốt, loét miệng-sinh dục dạng aphthe, viêm họng,
viêm hạch.
RAS cũng gặp trong các bệnh viêm ruột mãn tính : bệnh Crohn,viêm loét
đại tràng, bệnh ruột nhạy cảm Gluten, thiếu máu thiếu sắt, folate, vitamin B12, rối
loạn kinh nguyệt, thiếu máu ác tính. Mặc dù vậy, chỉ 40% bệnh nhân bị aphthe vô
căn và có nhiều yếu tố liên quan. Người ta thừa nhận là do phản ứng chéo giữa vi
sinh vật và lớp biểu mô ở miệng, hoạt động như là một kháng nguyên kích thích
tạo kháng thể và đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào, chúng hoạt đông riêng
lẻ hoặc kết hợp nhau gây nên loét .

×