Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-tô ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.59 KB, 48 trang )










Chế tạo "ống xả sạch" xử lý
ô nhiễm trên ô-tô










Chế tạo "ống xả sạch" xử lý ô nhiễm trên ô-tô
Vừa qua, Bộ môn Cơ khí ô-tô, Trường đại học Kỹ thuật thuộc Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh đã bảo vệ xuất sắc đề tài "Nghiên cứu giải quyết vấn đề ô
nhiễm môi trường trên các phương tiện giao thông đường bộ". Đề tài đã đưa ra
giải pháp sử dụng một bộ lọc khí xả - "ố
ng xả sạch" - để xử lý và loại bỏ các
thành phần gây ô nhiễm trong khí xả của động cơ trước khi xả ra ngoài môi
trường.
Sau gần 5 năm nghiên cứu và thử nghiệm, đề tài đã đưa ra một cơ chế lọc và
làm sạch muội than hoàn toàn mới. Với cơ chế này, diện tích thông qua của phần


tử lọc lớn gấp 30 đến 50 lần tiết diện đường ống xả. Trong quá trình làm việ
c,
muội than được làm sạch khỏi phần tử lọc một cách liên tục theo nguyên lý đẩy
và quét bằng chính động năng của dòng khí xả. Muội than được thu hồi về đáy
của bộ lọc dưới dạng bột. Các thử nghiệm trên bộ lọc khí xả mẫu cho thấy mức
độ giảm độ mờ khói đạt được từ 17% đến 26% (trung bình đạt 22,4%). Phần tử
lọc được làm sạch g
ần như hoàn toàn trong suốt quá trình thử nghiệm. Với nhiệt
độ khí xả ở cuối đường ống xả khoảng 210
0
C, bộ lọc khí xả hoạt động bình
thường, có kích thước nhỏ gọn (đường kính 250 x 300 mm) lắp đặt thuận lợi với
cả các xe tải nhỏ và xe khách 12 chỗ ngồi. Thành công của đề tài làm "ống xả
sạch" của Trường đại học Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh đã mở ra một giải pháp hữu
hiệu, công nghệ đơn giản, ít tốn kém trong việc xử lý ô nhiễm môi trường trên
các phương tiệ
n giao thông đường bộ.
Nếu được hoàn thiện và triển khai áp dụng rộng rãi, thì"ống xả sạch" sẽ đưa
chất lượng khí xả của động cơ theo Tiêu chuẩn Việt Nam 6438-1998 từ mức 1
(85% lượng muội than) xuống mức 2 (còn 72% lượng muội than).
Nguồn: Quân đội Nhân dân, ngày 5/1/2000



Xây dựng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện Cần Đước
Bệnh viện Đa khoa Cần Đước thuộc tỉnh Long An vừa xây dựng hệ thống
xử lý nước thải bệnh viện với kinh phí 110 triệu đồng. Thiết bị do Viện Công
nghệ hóa học TP. Hồ Chí Minh cung cấp. Hệ thống xử lý nước thải điều khiển tự
động hoàn toàn với công su
ất 25 m

3
/ngày, bảo đảm xử lý toàn bộ khối lượng
nước thải của bệnh viện trước khi thải ra ngoài. Đây là một trong những hệ thống
xử lý nước thải đầu tiên được lắp đặt tại các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của
Long An nhằm bảo vệ môi trường khỏi bị ô nhiễm.
Nguồn: Nhân dân, ngày 2/1/2000

Cần Thơ đưa vào sử dụng hệ thống xử lý nước thải bệnh viện theo
phương pháp vi sinh hiếu khí
Bệnh viện quân y 121, tỉnh Cần Thơ, vừa đưa vào sử dụng hệ thống xử lý
nước thải bệnh viện theo phương pháp vi sinh hiếu khí kết hợp đông tụ hóa học
theo công nghệ tiên tiến của Italia, do Bộ Quốc phòng đầu tư với tổng vốn 1,6 t

đồng. Đây là công trình xử lý nước thải bệnh viện có quy mô lớn nhất ở đồng
bằng sông Cửu Long, với công suất lọc 200 m
3
nước thải/ngày đêm. Công trình
bao gồm bể chứa nước thải bệnh viện, các bồn vi sinh, bể lọc, hệ thống thải nước
sau khi xử lý. Nước thải sau khi được xử lý sẽ được sử dụng cho trồng trọt và
nuôi trồng thủy sản.
Nguồn: TTXVN, ngày 8/12/1999

Các biện pháp sinh học làm sạch môi trường đất và nước
Hiện nay, các phương pháp xử lý các loại nước thải đang rất được quan
tâm. Một trong những giải pháp có nhiều triển vọng để xử lý nước thải là ứng
dụng công nghệ sinh học về tảo trong xử lý nước thải để nuôi cá, làm phân
bón,v.v Xuất phát từ thực tiễn đó, Viện Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ thuộc
Bộ KH,CN & MT, đ
ã tiến hành ngiên cứu đề tài : “Sử dụng một số biện pháp
sinh học để làm sạch môi trường đất và nước”.

Trên cơ sở nghiên cưú đặc điểm hóa, ký, sinh học của nước như : Nhiệt độ,
độ pH, tổng lượng chất rắn lơ lửng, độ đục, COD, BOD
2
, N-NH
4
+
, N-NOx
-
,
PO
4
3-
, CL
-
, H
2
S, Cu, Fe tổng, Zn, số vi sinh vật hiếu khí và kỵ khí, E.Coli,
Coliform, v.v trong nguồn nước thải ở Hà Nội, Viện đã thử nghiệm nuôi trồng
một số loài tảo, như Cholellapyrenoidosa, bèo hoa dâu Azollapinata, vi khuẩn
lam cố định đạm Nostoc-N
3
và Glocotrichia-Cl, các chế phẩm sinh học là một số
vi sinh vật có khả năng cố định đạm như: Klebsiella, Extrasol và Agrofil. Các kết
quả nghiên cứu cho thấy:
-Nước thải đổ vào hồ của Hà Nội tại một số điểm nghiên cứu khá bẩn: BOD
cao gấp 2-5 lần, COD cao gấp 2-7 lần, N-NH
4
+
cao gấp 4-14 lần so với tiêu
chuẩn nước mặt của Việt Nam (TCVN), vi sinh vật Clostridium Welchi có nhiều

(3,7x10
3
tb/100ml).
-Nước thải bệnh viện và sinh hoạt chưa được xử lý đổ thẳng ra các kênh,
mương hòa với nước thải công nghiệp, tạo thành dòng thải ô nhiễm nặng, với
hàm lượng lớn các chất hữu cơ và vi sinh vật gây bệnh: COD cao gấp 10-20 lần,
BOD cao gấp 4-12 lần, Coliform cao gấp 10-10
4
lần, N-NH
4
+
cao gấp 25-50 lần
so với TCVN 5942-1995).
Qua nghiên cứu, đề tài đã đi đến kết luận như sau:
1, Tảo Chlorella sinh trưởng tốt trong các nguồn nước thải nghiên cứu với
giải trị số COD dao động từ 200-700 mg/l. Tảo này phát triển tốt nhất trong nước
thải sinh hoạt với giải trị số COD từ 200-400 mg/l, sinh khối đạt 400-1000mg tảo
khô/l sau 5-6 ngày;
2, Tảo Chlorella có khả năng phân hủy COD và BOD rất cao đối với nướ
c
thải sinh hoạt trong điều kiện nuôi phòng thí nghiệm: COD giảm 84%, BOD
giảm 90%;
3, Tảo Chlorella

có khả năng loại bỏ N-NH
4
+
, P0
4
3-

rất cao trong nước thải
sinh hoạt. Giá trị các chỉ số này trong nước thải sau khi xử lý phòng thí nghiệm
đạt TCVN 5942-1995 : N-NH
4
+
giảm 99%, PO
4
3-
giảm 98%;
4, Tảo Chlorella có khả năng hấp thụ Cu và Zn trong nước thải hỗn hợp với
hiệu suất loại bỏ Cu đạt 94-95% sau 20 ngày và hiệu suất loại bỏ Zn đạt 97% sau
16 ngày;
5, Bèo hoa dâu Azollapinata có khả năng hấp thụ Co và Eu ở nông độ từ 5-
20 ppm và khả năng hấp thụ cao nhất khoảng 24 giờ sau khi nuôi bèo. Hầu như
toàn bộ lượng Co và Eu được hấp thụ đều nằm ở phần lá bèo;
6, Vi khuẩn lam cố định đạm Nostc và Glocotrichia bón cho rau có tác dụng
làm tăng sinh khối rau muống trong khi hàm lượng đạm tổng số ở mẫu thí
nghiệm tương tự đối chứng, các tảo này còn làm tăng năng suấ
t rau cải trồng
trong dung dịch lên 10%;
7, Các chế phẩm vi sinh vật cố định đạm Klebsiella, Extrasol và Agrofil có
thể đem sử dụng thay thế đạm urê vô cơ, để bón cho rau diếp và rau cải mà vẫn
bảo đảm chỉ tiêu năng suất, hàm lượng đạm tổng số và không làm tăng hàm
lượng N-NO
3
-
trong rau;
8, Nghiên cứu đề ra được mô hình vừa đơn giản, vừa gọn nhẹ trong phòng
thí nghiệm sử dụng tảo để xử lý nước thải sinh hoạt, nhưng có hiệu quả làm giảm
BOD tới 90%, COD tơi 84%, N-NH

4
+
tới 99%, PO
4
3-
tới 98% và E.Coli tới 50%.
Nguồn: Trungtâm Thông tin KH-CN Quốc gia, 17/1/2000

Nước uống lấy từ biển
Các nhà khoa học tại Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Bhabha (BARC), ấn Độ
đã triển khai một công nghệ hạt nhân, có thể tách nước biển thành nước uống. Công
nghệ này là kết quả của hơn 10 năm nghiên cứu và triển khai công nghệ nội sinh của
BARC và có thể chiết tách lượng muối dư thừa trong nước lợ. Công nghệ có thể tạo
ra một giải pháp lâu dài đối với vấn
đề khan hiếm nước quanh năm ở các bang, như
Tamil Nadu và Gujarat, một số vùng nội địa ở Andhra Pradesh và các sa mạc của
Rajastthan.
Trên cơ sở kết hợp giữa các trạm khử muối với các nhà máy điện hạt nhân ven
biển, công nghệ sẽ không cần dùng nhiên liệu hoá thạch khan hiếm hay các kênh dẫn
hoặc đập. Công nghệ sử dụng quy trình đốt nhiều giai đoạn (MSF) kết hợp với quy
trình màng lọc ngược để
khử muối, đảm bảo thu được nước ngọt với độ tinh khiết
cao, như khai thác từ các nguồn nước truyền thống.
Với hàng loạt thực nghiệm tiến hành ở các vùng nông thôn, công nghệ đã chứng
minh ý tưởng cấp nước uống an toàn từ các nguồn nước lợ. Các thực nghiệm đã được
tiến hành tại các trạm trình diễn cũng chứng minh được khả năng thực thị
về kỹ thuật-
kinh tế của công nghệ nội sinh này đối với các nhà máy quy mô lớn, vừa và nhỏ. Hiện
nay, BARC có thể cung cấp know-how để lắp đặt các trạm khử nước mặn và nước lợ
thương mại. Hiện nay một trạm khử nước mặn trình diễn đốt năng lược hạt nhân

nhiều giai đoạn có màng lọc ngược, công suất 6300m
3
/ ngày đang được xây dựng tại
nhà máy điện nguyên tử Madras ở Kalpakkam.
Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999

Xử lý dòng thải công nghiệp phức hợp
Ngành nghiệp hoá chất tạo ra nhiều dòng thải có các nồng độ cao các loại chất
vô cơ giá trị (các axit, các bazơ, các muối kim loại), nhưng bị nhiễm bẩn với các mức
thấp các phân tử hữu cơ độc tính cao. Phương thức xử lý hiện tại các dòng thải này
chủ yếu là phương thức xử lý và chôn lấp tại bãi thải rất tốn kém.
Nhiều phân tử hữu cơ trong các dòng thải có thể được phân huỷ nhờ các vi sinh
vật, song các vi sinh vật đó không thể hoạt động trong các dòng thải có nồng độ
kiềm/axit cao.
Công ty công nghệ chiết lọc màng (MET)-một chi nhánh của khoa Hoá Kỹ
thuật,
đại học tổng hợp London, Vương quốc Anh đã phát triển hệ thống bể phản ứng
sinh học, chiết kiểu màng lọc (EMB), dựa theo phương pháp tách chất hữu cơ từ các
loại chất vô cơ, cho phép các phân tử hữu cơ được phân huỷ một cách có kiểm soát và
xử lý riêng dòng thải vô cơ.
Công ty hoá chất ICI thử nghiệm công nghệ này đầu tiên, và sau các đợt thử
nghiệm, ICI đã lắp đặt một tr
ạm thực nghiệm. Từ các thực nghiệm, MET không chỉ
thu được kinh nghiệm thực tế về công nghệ, hiệu quả xử lý và chi phí của công nghệ
dưới các điều kiện hiện trường, mà còn nhận được các yêu cầu hợp đồng của một
công ty hoá chất lớn.
Sau thành công tại công ty ICI, Công ty MET còn thắng thầu một dự án nữa với
EIf Atochem. Công ty MET đang phải giải quyết một vấn đề xử lý c
ủa Eif Atochem,
là xử lý các dòng thải chứa các chất hữu cơ có khả năng phân huỷ sinh học và các

dung dịch axit aluminium chloride (AlCl
3
).
Loại dòng thải này thường thấy trong quy trình sản xuất của ngành công nghiệp
hoá chất. Công ty MET đã thành công trong việc tách và phân huỷ sinh học các chất
hữu cơ, cho phép EIf Atochem tái chế được AlCl
3
tinh khiết và bán lại làm sản phẩm
xử lý nước.
Như vậy, việc sử dụng công nghệ sinh học này đã giúp Eif Atochem có khả
năng thay đổi những gì mà EIf phải chi phí tốn kém thành nguồn thu cho công ty, cho
phép cải thiện đáng kể mặt kinh tế cho nhà máy.
Nguồn: Techmonitor, vol16, No6, Nov-Dec 1999
Quy trình mới tiền xử lý bùn
Các chuyên gia khử nước bùn của công ty Simon-Hartley và các kỹ sư nhiệt
Cambi, Na Uy đã triển khai một quy trình mới xử lý bùn tại Anh. Hiện quy trình đang
được lắp đặt tại các công trình xử lý nước của công ty Thames Water's Chartsey, ở
Surey, dùng phương pháp nhiệt thuỷ phân để tiệt trùng bùn trước khi đem đổ ra đất
nông nghiệp. Quy trình xử lý nhiệt thuỷ phân Cambi được coi là hiệu quả hơn phương
pháp thuỷ phân sinh học để phân huỷ dưới điều kiện bình th
ường.
Thuỷ phân sẽ tiệt trùng bùn và nhờ đó các vi khuẩn tạo ra khí mê tan hoạt động
trong các chất thối rữa, sẽ không bị xáo trộn do lượng bùn mới đưa vào có hàm lượng
khuẩn khác nhau. Kỹ thuật mới được cấp patent này sử dụng biện pháp phun dòng hơi
nóng trực tiếp để đốt nóng bùn tới 130
0
C trong thời gian lưu nhiệt là 30 phút.
Bằng việc tạo ra các nhiệt độ và áp suất không đổi trong quy trình xử lý, hệ
thống này được coi đã tạo ra bùn cấp lý tưởng cho quá trình phân huỷ kỵ khí. Kết quả
là có thể tăng được sản lượng sinh khí của các hệ thống phân huỷ tới mức quy trình

xử lý Cambi có thể hoạt động hoàn toàn bằng năng lượng tái tạo từ hệ thống xử lý
nhiệt thuỷ phân Cambi (CHP) đượ
c cấp điện bằng khí sinh học. Quy trình xử lý
Cambi đang được lắp đặt tại Chertsey, là trung tâm xử lý tập trung bùn cặn từ 6 trạm
xử lý nước.
Nguồn:Techmonitor vol16, No6, Nov-Dec 1999

Xử lý đất bị ô nhiễm bằng thực vật
Một cơ quan trực thuộc Chính phủ Anh có tên là "National Urban Forestry
Unit" đã bắt đầu thực hiện một dự án trồng thử nghiệm một số loại cây có tác
dụng ăn kim loại nặng tại vùng có nhiều nhà máy công nghiệp nặng ở xung
quanh Birmingham của nước Anh. Cuộc thử nghiệm này nhằm tìm ra loại cây có
khả năng lọc chất độc cao nhấ
t trong số các loại cây: Cây liễu (willow), cây
dương (poplar), cây cơm cháy (elder). Các loại cây này đã được các nhà nông
học Anh dùng để làm sạch đất nhiễm bẩn vì sử dụng cho mục đích công nghiệp.
Chúng được dùng tái tạo lại đất bị nhiễm các kim loại nặng như chì (lead),
cađimi (cadmium), thủy ngân (mercury), đồng (copper), kẽm (zinc) và bo
(boron). Sau khi hút các "chất độc" đối với đất và cây trồng trên, những loại cây
đó sẽ bị biến dạng, và người ta sẽ chặ
t chúng hạ chúng - trả lại đất đã được làm
sạch cho việc trồng trọt bình thường.
Nguồn : Lao động , ngày 17/7/1999
Chương trình EC-ASEAN về Công nghệ thân thiện về sinh thái
Chương trình cộng tác giữa Cộng đồng châu Âu (EC) và ASEAN đã xác
định tiềm năng đáng kể -trong việc chuyển giao các công nghệ năng lượng sinh
khối đã được kiểm chứng. EC đã tài trợ một phần cho một số dự án trình diễn
quy mô đầy đủ tiến hành ở Đông Nam á trong khuôn khổ của chương trình hợp
tác EC-ASEAN. Một số chức năng quan trọng c
ủa chương trình này là:

• Cung cấp cho các công ty ASEAN và châu Âu các thông tin cập nhật
liên quan đến thị trường năng lượng đang thay đổi rất nhanh ở các nước
ASEAN;
• Giám sát hiệu quả thực hiện về mặt kỹ thuật, kinh tế và môi trường
của các dự án phát sinh khối đồng hành hiện có và các dự án mới;
• Triển khai các dự án trình diễn quy mô đầy đủ để khuyến khích các
công nghệ năng lượng sinh khối đ
ã kiểm chứng trong các cơ sở công nghiệp
gỗ và nông nghiệp ở ĐNA; và
• Hỗ trợ các dịch vụ tư vấn kỹ thuật và kinh doanh trong khuôn khổ
chương trình cho các công ty để lựa chọn những công nghệ thích hợp.
Kết quả đạt được của chương trình thông qua các dự án đã được EU phê
duyệt giai đoạn tiếp theo của chương trình. Trong giai đoạn này, ngoài việc chất
thải của công nghi
ệp gỗ và nông nghiệp được sử dụng làm nhiên liệu, chương
trình còn triển khai các dự án phát năng lượng đồng hành đốt bằng than và khí.

Nguồn: VAT S UPDATE: Waste Technology, Nov-Dec 1999 I
Các mức tiết kiệm do công nghệ sạch mang lại

Công ty Bangkok Springs Industrial, Thái Lan đã chứng minh các mức tiết
kiệm có thể đạt được thông qua việc áp dụng các công nghệ sạch. Công ty này
sản xuất mỗi tháng 1500 tấn lá nhíp ô tô -sử dụng chủ yếu cho xe tải con và lớn.
Trước đây công ty sử dụng phương pháp sơn phun truyền thống cho nên thải ra
một lượng sơn thải lớn. Bằng cách áp dụng kỹ thuật sơn "kết tủa điện" (Electro
deposit paint - EDP) do Viện Công nghệ Môi trường Khu vực (RIET) cung cấp,
công ty đã có khả năng hạ thấp lượng sơn thải phát sinh. Với phương pháp s
ơn
EDP, sơn được làm nhiễm từ tính và do vậy, các lá nhíp kim loại hút trực tiếp
sơn từ tính. Theo Công ty Bangkok Springs Industrial, quy trình sơn mới này rẻ

tiền hơn và an toàn hơn cho công nhân. Thời hạn hoàn trả vốn đầu tư của công ty
khoảng 2 năm.
Nguồn: ASIA INVEST News, VATIS UPDATE: Waste Technology,
Nov-Dec 1999

Xử lý nước ngầm nhiễm phèn
Đây là giải pháp lọc nước áp dụng nguyên tắc phản ứng tạo tủa và lọc tinh
mà không dùng hóa chất. Vật liệu lọc là viên bi và hạt nhỏ có tác dụng điều chỉnh
độ pH trong nguồn nước, tạo thế oxy hóa khử cao để loại bỏ ion kim loại. Vật
liệu có dạng viên bi nén đảm bảo độ bền cơ học, bền trong nước, không nhiễm
bẩn, không gây
độc hại khi cho nước đi qua. Tỷ lệ hao mòn về trọng lượng hàng
năm của vật liệu dạng viên bi từ 5% đén 7%. Thiết bị có tên gọi là “Công nghệ
4M”, quy trình xử lý gồm 3 công đoạn chính sau đây:
1, Cấp oxy và khử khí: Đối với những hệ thống xử lý trực tiếp nguồn
nước ngầm vừa khai thác, một trong các biện pháp cần thiết để khử sắt tan trong
nước là cung c
ấp oxy dưới dạng giàn phun mưa hoặc bơm không khí vào hệ
thống. Ngoài tác dụng cung cấp oxy, hệ thống này còn phải loại trừ các khí như
CO
2
, CH
4
, H
2
S tan trong nước.
2, Phản ứng tạo tủa: Nước ngầm sau khi được bơm lên tiếp xúc với không
khí qua giàn phun mưa (hoặc bằng cách bơm không khí vào), sẽ chuyển sang
công đoạn phản ứng tạo tủa, độ pH của nước thay đổi và ổn định ở môi trường
kiềm thích hợp nhờ tác dụng của vật liệu lọc. Thế oxy hóa khử trên bề mặt vật

liệu tăng lên do sự
hấp thu của các ion làm tăng nồng độ của chúng. Trong môi
trường đó, cộng với tác dụng của các chất xúc tác chọn trong vật liệu lọc, quá
trình chuyển hóa các ion Fe
+2
tan trong nước thành các ion Fe
+3
kết tủa theo các
phản ứng hóa học trên xảy ra dễ dàng và nhanh chóng. Phần lớn các kết tủa bám
trên bề mặt hạt lọc và được loại bỏ bằng xả rửa sau mỗi chu kỳ làm việc.
3, Lọc tinh: Vật liệu dùng để lọc tinh trong công đoạn này là cát chọn lọc
chuyên dùng. Cơ chế lọc tinh bao gồm lọc hấp thu, hút tĩnh điện trên bề mặt vật
liệu, lọc c
ơ học và lắng trong. Quá trình loại sắt còn có thể thực hiện ở công đoạn
này, nếu nguồn nước có hàm lượng sắt cao, các hạt keo mịn lơ lửng, vẩn đục,
mang màu, mùi sẽ được giữ lại nhờ cơ chế trên.
Công nghệ này do TS. sinh học Võ Quang Tuyến, TS. công nghệ Nguyễn
Quang Thắng và TS. hóa học Nguyễn Thạc Sửu phối hợp nghiên cứu sáng chế.
Thiết bị xử lý nước ngầm nhi
ễm phèn 4M đáp ứng được nhu cầu nước sạch cho
dân cư vùng ven TP. Hồ Chí Minh, vùng duyên hải miền Trung và vùng đồng
bằng sông Cửu Long, nơi có nguồn nước nhiễm phèn khá lớn. Đây là giải pháp
công nghệ lọc nước đã được kiểm nghiệm trong thực tế phù hợp với khả năng
đầu tư, điều kiện và trình độ sử dụng của cộng đồng dân cư. Giải pháp này có ưu
điểm là không sử dụng hóa chất trực tiếp, đa dạng hóa về công suất và đối tượng
phục vụ, dùng trong hộ gia đình hoặc sản xuất công nghiệp.
Hiện tại ở Việt Nam có sẵn nguồn nguyên liệu chế tạo hạt lọc, nhờ vậy mà
giá thiết b
ị thấp, phù hợp với khả năng đầu tư của người dân vùng sâu, vùng xa.
Bộ lọc 4M có nhiều loại với công suất khác nhau từ 300 lít/ngày đến 4000

lít/ngày, giá từ 600.000 đ/bộ đến 2.500.000 đ/bộ.
Nguồn: Phụ san

Khoa học và Đời sống

, số 136/2000

Dùng trấu để sấy thóc và phát điện ở Long An
Tổng Công ty Lương thực Miền Nam đang tiến hành lắp đặt dây chuyền
đốt trấu để sấy thóc và phát điện tại Long An. Trung bình khi đốt 4 kg trấu, dây
chuyền này sẽ tạo ra 1 kW điện. Hiện dây chuyền đã đạt được công suất 100
KWh điện và trung bình một giờ sấy được 10 tấn lúa. Dây chuyền này giúp các
nhà máy xay xát gạo giải quyết lượng trấ
u thải ra đồng thời tiết kiệm được chi
phí sấy thóc.
Nguồn: Nhân dân, ngày 27/1/2000
Chuyển giao kỹ thuật túi ủ khí sinh học phục vụ đời sống nông dân
Để giải quyết chất thải trong chăn nuôi gây ô nhiễm nguồn nước, không khí
và đất đai, trường Đại học Nông lâm Thành phố Hồ Chí Minh (TP HCM) đã
nghiên cứu và chuyển giao kỹ thuật túi ủ khí sinh học (Biogas) cho các trung tâm
khuyến nông và các hộ nông dân.
Điểm đáng chú ý của túi ủ bằng polyethylene là có thể lắp đặt nổi trên mặt
nước, thuận tiệ
n cho những vùng ngập nước hay vùng thường bị lụt với giá thành
chỉ khoảng 800.000 đ/túi, thời gian hoàn vốn nhanh làm cho các nông hộ vừa và
nhỏ có khả năng chi trả và chấp nhận kỹ thuật túi ủ bằng chất dẻo này. Ngoài ra,
kỹ thuật lại đơn giản, dễ lắp đặt, dễ vận hành nên một số nông dân có thể tự mua
vật liệu và lắp đặt cho mình và cho nhiều người khác. Kỹ thuật túi
ủ này có khả
năng xử lý chất thải của 3-4 con heo thịt hoặc 100 con gia cầm và chất thải của 5-

6 người trong gia đình, tạo đủ khí đốt cho sinh hoạt.
Cho đến nay, trường Đại học Nông lâm TP. HCM đã lắp đặt và chuyển giao
trên 8.500 túi ủ khí nói trên cho hơn 20 tỉnh, thành và chuyển giao cho một số
nước láng giềng như Lào, Campuchia, Philippin và Bangladesh. Kỹ thuật túi ủ
khí sinh học này vừa cải thiện môi trường, vừa tạo ra các sản phẩ
m có thể tái sử
dụng trong chu trình khép kín VAC: nguồn chất đốt cho gia đình, nguồn phân
hữu cơ bón cho cây trồng và nước thải của túi ủ dùng để nuôi tảo, các sinh vật
sống trong nước tạo nguồn thức ăn cho cá. Kỹ thuật túi ủ biogas là một giải pháp
nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội của mô hình VAC, góp phần thực hiện chương
trình phát triển nông thôn mới và chương trình xoá đói giảm nghèo.
Nguồn: Báo Kinh doanh & tiếp thị; số 186, ngày 17/1/2000
Tập đoàn Marubeni hợp tác với vinaplast để xử lý chất thải nhựa
Tập đoàn Marubeni (Nhật Bản) vừa làm việc với Tổng Công ty (TCT)
nhựa Việt Nam (Vinaplast) về việc hỗ trợ các dự án xử lý chất thải nhựa, bảo vệ
môi trường. Theo đó hai nhà máy xử lý chất thải nhựa sẽ được xây dựng ở miền
Bắc và miền Nam. Vốn xây dựng hai nhà máy này có thể lấy từ Quỹ Hỗ trợ Bảo
vệ Môi trường của Nhật Bản. Theo ước tính, để xây dựng mỗi nhà máy như vậy,
vốn đầu tư sẽ cần từ 5 đến 10 triệu USD.
Theo kinh nghiệm của các nước, các nhà máy xử lý chất thải nhựa này sau
khi xử lý các chất thải độc hại bám trên các sản phẩm nhựa đã qua sử dụng sẽ ép
các loại nhựa tái chế này thành các thanh nhựa dùng làm ghế ngồi nơi công cộng
hay rào chắn ở vườn hoa và công viên.
Hiện tại, Việt Nam chưa có một nhà máy nào xử lý các phế thải nhựa đã qua
sử dụng và nhiều cơ sở tư nhân đã mua phế liệu nhựa về rửa qua rồi tiếp tục ép
lại thành các loại đồ dùng bằng nhựa để sử dụng trong gia đình và nhất là các bao
túi xốp đựng thực phẩm và hàng hóa hàng ngày. Đây là những vật dụng có thể
gây bệnh tật và tác hại tới sức khỏe người sử dụng.
Nguồn: TBKTVN, ngày 17/1/2000
Phát triển công nghệ năng lượng tái tạo

Ngày 21/1/2000, tại Hà Nội, Viện Công nghệ Châu á (AIT) đã phối hợp với
Viện Năng lượng và Phòng thí nghiệm mặt trời Solarlab, thuộc Viện Vật lý tổ chức
Hội thảo về chính sách phát triển công nghệ năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Hội thảo
do Quỹ SIDA (Thuỵ Điển) tài trợ.
Tại Hội thảo, các đại biểu đã nghe các đạ
i diện của AIT, Viện Năng lượng và
Solarlab trình bày về việc thực hiện chương trình công nghệ năng lượng tái tạo tại
Châu á, trong đó có Việt Nam do SIDA tài trợ. Mục tiêu của chương trình này là thúc
đẩy việc ứng dụng một số công nghệ năng lượng tái tạo hoàn thiện hoặc tương đối
hoàn thiện ở các nước Châu á. Chương trình tập trung nghiên cứu 3 dạng công nghệ
chính là pin mặt trời, sấy bằng năng l
ượng mặt trời, đóng bánh sinh khối và bếp đun
viên ép.
Nằm trong khuôn khổ của chương trình công nghệ năng lượng tái tạo, Việt Nam
đã có 2 dự án là đóng bánh sinh khối và pin mặt trời đã được nghiên cứu ứng dụng vào
thực tế tại Đồng Tháp và Hà Tây. Giai đoạn II của các dự án sẽ tiếp tục được thực hiện
với mục tiêu hoàn thiện và phổ cập hơn nữa các ứ
ng dụng trên cho các vùng nông thôn
Việt Nam.
Nguồn: TBKTVN, ngày 24/1/2000

Sản xuất phân sinh học từ than bùn và chất thải hữu cơ
Tiến sĩ Nguyễn Đức Lương, thuộc Khoa Công nghệ thực phẩm, Đại học Kỹ
thuật TP. Hồ Chí minh, đã nghiên cứu thành công quy trình sản xuất phân sinh học từ
than bùn và chất thải hữu cơ. Qua quy trình xử lý nghiền, phối trộn, lên men,v.v 5
tấn than bùn sẽ cho ra 7,5 tấn phân sinh học có chứa chất kích thích tăng trưởng thực
vật và tăng lượ
ng vi sinh vật cho đất. Hiệu quả của 1 kg phân sinh học có tác dụng
tương đương với 1,4 kg phân NPK nhưng giá rẻ hơn, chỉ từ 800-1.200 đồng/kg. Đây là
đề tài đoạt giải ba hội thi sáng tạo kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh 1999.

Nguồn: Nhân dân, ngày 18/1/2000
Thiết bị lọc bụi tĩnh điện bảo vệ môi trường cho doanh nghiệp
Viện Máy và Dụng cụ công nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp đã thiết kế, chế tạo và đưa
vào sử dụng thử thiết bị lọc bụi tĩnh điện tại xưởng thu hồi kiềm của Công ty Giấy Đồng
Nai với hiệu quả kinh tế - kỹ thuật cao. Thiết bị
này hoạt động với lưu lượng khí thải 35.000
m
3
/giờ và đã làm giảm nồng độ bụi từ 50 g/m
3
trước xử lý xuống chỉ còn 390 mg/m
3
sau
khi xử lý, đạt tiêu chuẩn môi trường về khí thải công nghiệp ở Việt Nam. Mỗi ngày thiết bị
này còn thu hồi được từ 10-14 m
3
dịch xút trị giá hàng trục triệu đồng. Giá thành chế tạo
thiết bị này chỉ bằng 20% - 25% giá mua của nước ngoài và hằng năm việc sử dụng thiết bị
lọc bụi tĩnh điện này đã tiết kiệm được hàng tỷ đồng do thu hồi lượng bụi kiềm.
Nguồn: Nh n dân, 15/2/2000 â
Vât liệu DS3 dùng để khử nước mặt bị chua phèn ở vùng sâu, vùng xa của
Đồng bằng sông Cửu Long
Để góp phần giải quyết một phần khó khăn về nước sinh hoạt cho đồng bào vùng
sâu, vùng xa ở đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), mới đây các chuyên gia ở Viện
Hóa học đã triển khai đề tài "Xử lý nước phèn dùng cho sinh hoạt ở ĐBSCL". Mục
đích là tìm ra phương pháp xử lý nước phèn đơn giản, dễ áp dụng cho các hộ gia đình
sống ở các vùng có nước bị phèn, mặn ở ĐBSCL
ĐBSCL có nhiều vùng mà nước bị phèn, mặn. Đại bộ phận dân cư ở những vùng
này còn thiếu nước sạch dùng trong sinh hoạt hàng ngày. Nước sinh hoạt ở đây chủ
yếu được lấy từ kênh, thậm chí rửa rau, vo gạo cũng dùng trực tiếp nước kênh mà

không qua mộ
t khâu xử lý nước nào. Nước để uống và nấu ăn được giải quyết tùy
hoàn cảnh từng gia đình và điều kiện giao thông. Một số hộ dự trữ được nước mưa, có
thể dùng qua nhiều tháng; còn đa số hộ phải mua nước từ nơi khác chở tới với gía
1.000 đồng/gánh (dung tích một gánh khoảng 40 lít), tương đương 25.000 đồng/m
3
.
Rất nhiều hộ khác ở vùng sâu, vùng xa mặc dù có tiền nhưng cũng không mua được
nước, bởi thuyền không thể chở nước vào được. Tại những nơi đó, mọi người phải để
nước đục lắng trong các lu chứa thì mới có nước dùng cho ăn, uống và sinh hoạt. Theo
kết quả phân tích thì nước chứa trong các lu được lấy từ các con kênh, thường rất chua
vì độ pH nhỏ hơn 5 (pH<5) và có chứa nhiều chấ
t độc hại cho sức khỏe con người như
các ion nhôm, sắt, các ion sulfat,v.v Mặc dù nhiều gia đình đã phải dùng tro, vôi để
xử lý nước, nhưng chất lượng nước sau khi xử lý vẫn không đạt tiêu chuẩn cho phép
dùng trong ăn, uống. Sau khi ăn, uống, người ta thường vẫn bị đau bụng.
Trước thực tế đó, nhiều năm qua các chuyên gia của Viện Hóa học đã tập trung
nghiên cứu làm sao có thể sử dụ
ng các loại vật liệu dễ kiếm trong tự nhiên ở địa
phương, hoặc một số loại hóa chất được dùng trong thực phẩm, để xử lý nước phèn,
mặn nhằm đưa được độ pH của nó về gần 7, đồng thời tách được các ion sắt, nhôm ra
khỏi nước bị chua phèn này.
Trong thực tế, hiện nay có nhiều phương pháp xử lý nước phèn, mặn như:
phương pháp trao đổi ion, thẩm thấ
u ngược, siêu lọc, điện thẩm để tách các loại ion tan
trong nước, phương pháp cung cấp nhanh không khí vào nước để tách và loại bỏ sắt,
chuyển sắt ở dạng Fe
2+
về dạng Fe
3+

(hay người ta thường nói tắt là chuyển sắt 2 về sắt
3),v.v Tuy nhiên, các phương pháp này đều rất đắt tiền, khó áp dụng cho việc xử lý
nước phèn ở các vùng sâu, vùng xa. Để khắc phục nhược điểm này, các chuyên gia đã
xây dựng phương pháp mới dựa trên nguyên tắc tích số tan. Dùng một vật liệu rắn để
cố định sắt 2 theo cơ chế tích số tan, mà không cần chuyển sắt 2 thành sắt 3 và dùng
các vật liệu có khả
năng hấp thụ một phần sulfat hoặc có khả năng liên kết với sulfat
nhằm tạo ra một muối kép kém tan để tách và loại bỏ sulfat.
Dụng cụ để xử lý nước phèn cũng rất đơn giản, đó là một thùng ống hình trụ,
bằng nhựa cỡ 70-100 lít có khóa vòi nước phía dưới. Trong ống có các lớp (theo thứ tự
từ dưới lên) là: sỏi to, trên là lớp cát dày 15-20 cm, tiếp theo là lớp vật liệu DS3 (dạng
hạt, cỡ 2-4 mm) dày 20-30 cm, và trên cùng là lớp cát. Nước phèn được đổ vào thùng,
sau đó cho chảy từ từ với lưu lượng cỡ 30-40 lít/giờ. Chất lượng nước sau khi xử lý
được đánh gía là tốt, dùng được cho sinh hoạt gia đình. Công nghệ này đã được khảo
sát thực nghiệm từ năm 1989 tại một số hộ gia đình tại tỉnh Long An thuộc ĐBSCL.
Năm 1999 UBND huyện Thủ Thừa đã quyết đị
nh cho triển khai ứng dụng trên toàn
huyện.
Theo TS. Nguyễn Bá Trinh - chuyên gia của Viện Hóa học, thì vật liệu DS3 có
tính năng tổng hợp, có khả năng loại trừ được các ion nhôm, sắt, sulfat và các chất hữu
cơ độc hại khác. Khi nước phèn tiếp xúc với vật liệu DS3, độ pH của nước nhiễm phèn
được chuyển về trung tính. Đó là điều kiện tiên quyết để chuyển nhôm về dạng
hydroxit khó tan. Trong môi trường trung tính, sắt 2 dễ
bị ôxy hóa thành sắt 3 và kết
tủa dưới dạng hydroxit sắt 3. Một phần sắt 2 còn lại bị hấp thụ lên hydroxit, một phần
bị cố định lên vật liệu DS3 theo cơ chế tích số tan. Trong điều kiện độ pH của nước
không cao, sulfat bị hấp thụ lên DS3 hoặc lên hydroxit.
Vật liệu DS3 là một loại vật liệu có chứa carbon nên nó có khả năng hấp thụ một
ít các chất hữu cơ, đặc biệt là các ch
ất có tính hydropholic cao, nhờ đó mà nó có thể

hấp thụ các vết xăng dầu, hoặc thuốc trừ sâu có thể có trong nước phèn. Một đặc tính
nữa của vật liệu DS3 là khả năng cố định chì - một kim loại nặng rất độc và thường có
nhiều trong nước phèn.
Điểm quan trọng là vật liệu này rất rẻ tiền và dễ kiếm. Công nghệ sản xuất DS3
và lắp ráp thùng lọc có thể tiế
n hành ở ngay địa phương. Vật liệu DS3 có thể sử dụng
lâu dài và tái sinh. Thực tế đã chứng minh rằng một thùng lọc chứa 15 kg vật liệu DS3,
có thể lọc mỗi ngày 100 lít nước phèn, thời gian sử dụng kéo dài trên 3 năm. Giá thành
mỗi thùng lọc, nếu sản xuất nhiều, có thể chỉ dưới 300.000 đ/thùng, trong đó chi phí
mua vật liệu chiếm khoảng 50%. Chi phí xử lý ước tính ở mức 2.000-3.000 đ/m
3
nước,
tức là chỉ vào khoảng 150 đồng/gánh nước.
Nguồn: TBKTVN, ngày 18/2/2000
Phương pháp kiểm tra đơn giản chất lượng nước giếng khoan nông thôn
Để đảm bảo an toàn cho sức khỏe trong sinh hoạt hàng ngày của con người, cần
phải kiểm nghiệm và xử lý thích hợp nước giếng khoan. Việc đánh giá chất lượng
nguồn nước thường dựa vào các chỉ tiêu cơ bản sau đây:
- Các chỉ tiêu về vật lý: độ đục, độ màu, độ cứng, nhiệt độ, mùi vị, hàm lượng
ch
ất rắn,v.v
- Các chỉ tiêu về hóa học: độ pH, độ ôxy hóa, hàm lượng sắt, mangan, clorua
sulfat, các hợp chất của nitơ, iốt, fluo, v.v
- Các chỉ tiêu vi sinh vật: số vi trùng E.Coli gây bệnh, các loại rong tảo, vi
rút,v.v
Nếu muốn có thông tin đầy đủ và chính xác về chất lượng nguồn nước mà bạn
đang sử dụng, bạn nên mamg mẫu nước đến các cơ sở kiểm nghiệm chất lượng nước
của Trung ương hoặc đị
a phương để kiểm tra.
Tuy nhiên, một vài phương pháp kiểm tra đơn giản dưới đây sẽ phần nào giúp

bạn nhận biết, đánh giá sơ bộ một số chỉ tiêu về chất lượng nguồn nước mà bạn đang
sử dụng.
V màu sắc:ề
Nếu nguồn nước có màu vàng là nước có nhiều chất mùn humic, có
màu đen là nước có hàm lượng mangan cao, có màu đỏ là nước bị nhiễm sắt và thường
làm vàng quần áo trắng khi giặt, còn các loài thủy sinh vật làm cho nước có màu xanh
lá cây, v.v
V mùi:ề
nước thiên nhiên có thể có mùi đất, mùi tanh do có muối đồng, sắt, nước
có mùi clo do nước có CL
2,
, CLO
2
, nước có mùi amôniac do có NH
4
, nước có mùi
trứng thối do có H
2
S, v.v hoặc có mùi đặc trưng do chất có nguồn gốc hữu cơ tồn tại
trong nước.
V vị:ề
Nước có thể có vị mặn, ngọt, chát, v.v tuỳ theo thành phần và hàm lượng
các muối hoà tan trong nước.
Xác định độ trong
của nước bằng độ sâu cột nước tối đa mà qua nó từ trên nhìn
xuống, người ta đọc được chữ ở dạng tiêu chuẩn hay thấy rõ chữ thập. Tương ứng với
nó là hàm lượng cặn trong nước thông qua thang đục silic.
Độ cứng của nước
được biểu thị bằng hàm lượng các iôn Canxi, Magiê có trong
nước. Nước có độ cứng cao thường giặt tốn xà phòng và tốn các chất tẩy rửa, hại quần

áo, nấu thức ăn lâu chín, dụng cụ đun nước thường có lớp cặn bám ở đáy và ở thành.
Hàm lượng chất rắn
trong nước bao gồm các chất hữu cơ, vô cơ trong nước
thông qua chỉ tiêu lượng cặn toàn phần được xác định bằng cách cho bay hơi 1 lít mẫu
nước, sấy ở nhiệt độ 105
0
C - 110
0
C cho đến khi khối lượng không đổi.
Kiểm tra độ pH của nước
có thể sử dụng chất chỉ thị màu là quỳ tím.
Theo qui trình trên, bạn có thể tự kiểm tra chất lượng nguồn nước của bạn so với
một số tiêu chuẩn vệ sinh đối với chất lượng nước cấp cho sinh hoạt ở vùng nông thôn
(
TCVN 5500-91) như sau:
-Độ trong: lớn hơn 25 cm
-Màu (Thang màu coban): 10
0
-Mùi, vị (đậy kín sau khi đun 50-60
0
C): 0
-Độ cứng (tính theo mg CaCO
3
/l) : 500
-Hàm lượng cặn sấy khô (mg/l) : 1000
-Hàm lượng sắt (mg) : 0,5
-Hàm lượng Mangan (mg/l) : 0,1
-pH= 6,5-8,5 (Nếu đạt chỉ số này, quỳ tím gần như không đổi màu).
Nguồn: Khoa học & Đời sống, số 10/2000


Nghiên cứu tận dụng cặn bùn dầu thô làm nhiên liệu lỏng
Trong những năm gần đây, ở Viêt Nam cùng với sự nâng cao sản lượng dầu thô
khai thác, sự gia tăng lượng cặn bùn dầu lắng đọng dưới đáy các tàu chứa dầu trung
gian ngày càng lớn. Trước đây, định kỳ tàu chứa cặn bùn được đưa sang nước ngoài để
súc rửa và xử lý với chi phí rất cao. Hiện nay, chúng ta đã tự túc việc súc rử
a các tàu
chứa dầu thô. Để giải quyết lượng cặn bùn thải ra từ quá trình súc rửa này, vấn đề được
đặt ra là chọn phương án xử lý và sử dụng như thế nào để vừa giải quyết được vấn đề ô
nhiễm môi trường (không thải bỏ) và vừa sử dụng được chất thải một cách có ích.
Dựa vào đặc tính cặn bùn dầu thô Việt Nam là "sạch", nhiêù parafin, nhiệt trị cao,
các tác giả c
ủa đề tài nghiên cứu ở Trường Đại học Kỹ thuật thuộc ĐHQG Tp. Hồ Chí
Minh đã chọn phương án sử dụng cặn bùn làm nhiên liệu lỏng, có công nghệ đơn giản
phù hợp với tình hình nước ta hiện nay. Đối với các phương án khác như hướng sản
phẩm, làm bitum hay các sản phẩm làm chất độn trong xây dựng không phù hợp vì cặn
bùn dầu của Việt Nam rất ít asphalt và nhiều parafin. Để tái chế ra parafin thì chi phí
để
thực hiện khá cao, còn đối với hướng tiêu hủy như thiêu đốt hay dùng phương pháp
vi sinh thì chi phí đầu tư và vận hành lớn mà không sử dụng được chất thải một cách có
ích.
Trong nghiên cứu này, mẫu khảo sát là mẫu cặn bùn thải ra từ quá trình súc rửa
tàu chứa dầu thô của mỏ Bạch Hổ do Viện Kỹ thuật Nhiệt đới và Bảo vệ Môi trường
Tp. Hồ Chí Minh cung cấp.
Sơ đồ qui trình:
Phương án xử lý và sử dụng cặn bùn làm nhiên liệu lỏng được tiến hành theo sơ
đồ dưới đây: Cặn bùn dầu thô  Lọc nóng (loại bỏ: rác, hạt rắn lớn)  Sa lắng nhiệt
(loại bỏ: nước, tạp chất cơ học)  Cặn "sạch"  Pha trộn (cùng nhiên liệu nền) 
Nhiên liệu lỏng
Kết quả xử lý cặn sau quá trình lọc và sa lắng đối với mẫu cặn bùn nói trên cho
thấy r

ằng sau khi xử lý cặn bùn rất "sạch". Hàm lượng nước và tạp chất cơ học còn lại
gần như không đáng kể. Ngoài ra, hàm lượng lưu huỳnh, nhựa và asphalt đều giảm
xuống rõ rệt. Nếu so với tiêu chuẩn chất lượng về dầu FO của Petrolimex Sài Gòn thì
hầu hết các thông số chỉ tiêu của cặn sạch và mẫu FO đều đạt mức quy định. Duy chỉ
có nhiệt độ đông đặ
c của cặn dầu sạch là vượt quá chỉ tiêu quy định cho dầu FO. Như
vậy, đây chính là thông số quyết định đến tỷ lệ pha trộn tối đa giữa cặn và dầu FO.
Kết quả xác định nhiệt độ đông đặc của các hỗn hợp khảo sát cho thấy với tỷ lệ
cặn bùn trong hỗn hợp dưới 22% khối lượng thì hỗn hợp khảo sát mới đạ
t chỉ tiêu về
điểm đông đặc. Đây là thông số chính giới hạn tỷ lệ đưa cặn bùn vào dầu FO và chứng
minh cho hàm lượng parafin cao trong cặn bùn dầu thô Việt Nam.Tuy nhiên, cần lưu ý
rằng điểm đông đặc (nhiệt độ đông đặc) Max+21
0
C cho dầu FO là chỉ tiêu sử dụng cho
miền Nam, còn tại một số vùng khác như ở miền Bắc hay trên cao nguyên thì điểm
đông đặc cho phép là thấp hơn nên tỷ lệ cặn bùn đưa vào dầu FO cũng sẽ phải thấp
hơn.
Tóm lại, phương pháp xử lý bằng quá trình kết hợp lọc-sa lắng cho phép tách các
loại nước và các tạp chất vô cơ với hiệu quả cao. Quy trình này có thể áp dụng với thiết
bị đơn giản và thực hiện được ở trong nước. Cặn sạch đi từ bùn dầu thô Việt Nam do
rất sạch và nhiệt trị cao nên đáp ứng khả năng sử dụng để pha trộn với dầu FO làm
nhiên liệu lỏng. Tỷ lệ pha trộn cho phép là max 22% mẫu cặn sạch khả
o sát (ứng với
chỉ tiêu điểm đông đặc là +22
0
C). Phương pháp xử lý này dễ áp dụng để sử dụng cặn
bùn làm nhiên liệu lỏng là phù hợp với đặc tính của cặn bùn dầu thô Việt Nam và hoàn
toàn khả thi trong điều kiện hiện nay của nước ta.
Nguồn: T/C Hóa học, T.37,số 2/1999


Chế tạo máy ép trấu thành thanh nhiên liệu
Viện Năng lượng thuộc Bộ Công nghiệp đã nghiên cứu và chế tạo thành công
máy ép trấu trục vít có bộ phận gia nhiệt khuôn ép dùng để ép các phế thải - phụ phẩm
nông nghiệp thành nhiên liệu ở dạng thanh với nhiệt năng cao, tiện lợi trong vận
chuyển.
Máy có các chỉ tiêu kỹ thuật tương đương với máy cùng loại của Thái Lan và
Bangladesh sản xuất nhưng giá thành chế t
ạo rẻ hơn nhiều lần. Máy ép trấu này hoạt
động theo nguyên lý: Trấu sau khi xay xát được rót thẳng vào hệ thống cấp liệu. Máy
ép hoạt động nhờ một động cơ điện công suất 11 kW, trục vít quay trong khuôn ép với
tốc độ thích hợp. Xung quanh khuôn ép được gia nhiệt bằng ba vòng điện trở có công
suất từ 6-8 kW nhằm làm mềm trấu, giảm ma sát và lực ép, đồng thời làm chảy li-nhin
có sẵn trong nguyên liệu thô để t
ạo độ kết dính. Nhờ đó, sản phẩm sau khi ép thành
thanh nhiên liệu chắc, bóng và có thể thay đổi chiều dài.
Hiện nay, máy này đang được ứng dụng thử nghiệm tại thị trấn Trôi thuộc tỉnh Hà
Tây. Giá thành sản xuất 1kg thanh nhiên liệu trấu tương đương với giá củi trên thị
trường (khoảng 400-450đ/kg). Sau khi công nghệ này được hoàn thiện, ước tính có thể
phát triển gần 10.000 máy ép trấu này ở khắp trong cả nước. M
ỗi năm, ước tính có
khoảng gần 2 triệu tấn trấu được thải ra từ các cơ sở xay xát trong cả nước.
Nguồn: Lao động, ngày 2/3/2000


Xử lý chất thải hữu cơ nguy hại
Công ty Hutsman Corporation, Mỹ, đang ứng dụng công nghệ oxi hoá nước
siêu tới hạn (Supercritical water oxidation - SCWO ) thay thế việc thiêu đốt các chất
thải lỏng ở nhà máy hoá dầu của công ty tại Texas. Lò phản ứng tại nhà máy chứa
khoảng 4.500 kg hợp kim Nikel, có thể phá huỷ khoảng 99,7% chất thải hữu cơ hiện

diện trong quy trình hoá dầu và nước rửa xả đáy của nhà máy. Trong quy trình xử lý
này, chấ
t thải hữu cơ thể lỏng được đốt nóng vượt các giới hạn nhiệt độ và áp suất
tới hạn (374
oC
và 22,1 MPa), làm cho các hoá chất hữu cơ có thể hoà tan tại nhiệt độ
và áp suất đó, rồi bị oxy hoá.
Công nghệ ô xi hoá nước siêu tới hạn này có thể xử lý bất kỳ chất thải hữu cơ
nào quá đặc xử lý bằng các quy trình ôxy hoá sinh học, hay quy trình oxy hoá tiên
tiến, cũng như quá loãng để thiêu đốt, không kinh tế.
Nguồn: Waste techology, Jan- Feb 2000
Polyme lọc trong nước đục, lắng tách tạp chất
Một trong các biện pháp có hiệu quả cao của hóa học xử lý nước được các
nước Châu Âu và Mỹ, Nhật sử dụng là dùng polime kết lắng (flocculant). Gọi là
chất kết lắng vì khi cho một lượng rất nhỏ polime (chỉ vài phần triệu, ít hơn rất
nhiều lần so với phèn) vào nước đục, nó kết các hạt không tan lơ lửng thành khối
nặng lắng xuố
ng, nước trở nên trong.
Nếu tạp chất là chất tan trong nước, người ta tiến hành làm đục hóa nó bằng
một phản ứng kết tủa thích hợp và sau đó tách nó ra khỏi nước bằng polyme kết
lắng.
Gặp một loại bùn lỏng, polyme kết lắng được đưa vào để tách kiệt nước làm
cho nó trở thành khối sệt lỏng để chuyển thành dạng khô và có thể tiếp tục xử lý
dưới dạng th
ể rắn.
Polyme kết lắng còn đóng vai trò quan trọng trong khâu rửa, phân tách các
chất trong quá trình tinh luyện các sản phẩm, nhất là tinh luyện các oxyt kim loại và
tuyển khoáng.
Bản chất hóa học của polyme kết lắng tổng hợp là polyacrylamit và copolyme
của nó. Cơ chế của quá trình kết lắng là sự trung hòa điện tích các hạt lơ lửng nhờ

điện tích trái dấu của polyme kết lắng. Polyme ở dạng bột có tính ổn định trong bảo
quản tối thiểu một năm, dung dịch loãng của nó nên dùng càng nhanh càng tốt nhằm
hạn chế tối đa sự thủy phân nhóm chứa amit thành amoni. Nó không ăn mòn các vật
liệu sắt thép, chất dẻo, gỗ, sành sứ, thủy tinh.
Nước ta, có nhà máy nước Lào Cai hiện đang sử dụng trong sản xuất nước sinh
hoạt, các nhà máy đường dùng làm trong dịch mía, một số xí nghiệp tuyển quặng
dùng cho nước tuyển khoáng và quay vòng nước rửa than, các xí nghiệp th
ực phẩm
dùng trong việc lên men bia, rượu (xử lý 1 triệu lít bia chỉ mất 60.000đ).
Sản phẩm hiện đang bán trên thị trường Hà Nội là polyacrylamit của Công ty
Aron Nhật Bản, đã được thử tại Công ty cấp thoát nước Thái Bình cho kết quả tốt
về chất lượng nước thành phẩm lẫn giá thành.
Do chi phí thấp, cách làm đơn giản, chất lượng nước thành phẩm cao, phương
pháp xử lý nước dùng polyme kết lắng có vị trí hàng đầ
u trong công nghệ làm sạch
và làm trong nước, đáp ứng tiêu chuẩn chất lượng nước cho các mục đích khác
nhau.
Nguồn: Kinh doanh và tiếp thị, Ngày 9/8/1999

Công nghệ xử lý bao kín chất thải độc hại bằng nhựa PE
Trung tâm thí nghiệm quốc gia Brookhaven (BNL), Mỹ đã triển khai quy trình
xử lý bao kín bằng nhựa polyetylen (PE) có tỷ trọng thấp, để xử lý an toàn các chất thải
hỗn hợp có mức phóng xạ thấp và nguy hiểm. Phương pháp này đảm bảo tính ổn định
trong thời gian dài hơn so với các công nghệ rắn hoá truyền thống. Phương pháp xử lý
này sử dụng một thiết bị đùn ép đơn xoắn để khuấy trộn, đốt nóng và ép đùn chất thải
vào các vật đựng thích hợp, r
ồi sau đó hạ nhiệt độ và làm cứng chất thải thành dạng
chất thải rắn. Một thiết bị trộn động lực, dùng năng lượng ma sát để làm nóng chẩy
polyme, cũng có thể dùng thay cho thiết bị đùn ép.
Nhựa PE là một chất trơ, chịu nhiệt và thẩm thấu thấp, có khả năng chống chịu

cao vói hoạt tính hoá chất, phân huỷ vi sinh và phá huỷ do bức xạ.
Một số
ứng dụng bao kín bằng polymer gồm:
•  Bao kín vi mô: Nhựa PE được đốt nóng trên điểm nóng chảy và kết
hợp với chất thải khô, tạo ra một hỗn hợp đồng nhất. Sau đó khối này được làm
mát, trở thành dạng chất thải rắn nguyên khối, trong đó chất thải dạng hạt nhỏ, nằm
xen trong mạng polyme. Các muối Nitrat, bùn cặn, tro lò đốt, nhựa trao đổi ion, và
các axit boric, sulphat kali có thể được xử lý bằng ph
ương pháp này.
• Bao kín vĩ mô: Nhựa PE nóng chảy được rót vào thùng chứa chất thải, có
chất thải kích cỡ lớn, được sắp xếp có khe hở. Sau khi làm mát, nhựa PE sẽ tạo lớp
rắn bao quanh chất thải. Phương pháp này rất lý tưởng đối với các chất rắn chì
phóng xạ và chất thải vụn hỗn hợp.
• Chất dính kết polyme sulfur là chất chịu nhiệt, có thể dễ bị nóng chảy, tạo
ra chất lỏng có độ nhớt ở 120
0
C. Công nghệ bao kín của trung tâm BNL có thể sử
dụng chất dính kết polyme để rắn hoá tro bay từ lò thiêu đốt rác nhiều hơn 2,5 lần
công nghệ sử dụng chất dính kết thuỷ lực và có các thuộc tính nén, sức căng và độ
bền hơn hẳn.
Ngoài ra, Trung tâm BNL còn triển khai và đặc trưng hoá các loại nhựa hoặc
polyme cố định bằng nhiệt, sử dụng cho quá trình bao kín chất thải hỗn hợp nguy hiểm
và chất thả
i phóng xạ, cũng như làm chất liệu các thùng đựng chất thải. Các chất liệu
này có tính bền hoá học và vật lý, sử dụng tốt, có độ nhờn, nhưng đắt. Các chất liệu
này có các thuộc tính phù hợp dưới dạng chất lỏng và rắn. Trung tâm BNL còn đưa ra
các loại thuỷ tinh mới và các chất gốm-thuỷ tinh, tính toán theo các công thức phốphát
tiên tiến, để xử lý chất thải và chất thải hỗn hợp có mức th
ấp. Một nhược điểm chính
của thuỷ tinh silic-bo là phải có nhiệt độ cao (1200-1500

0
C) mới nấu chảy thuỷ tinh.
Các thành phần thuỷ tinh thay thế nóng chảy được ở các nhiệt độ từ 450 đến 900
0
C.
Nguồn: Non-convention Energy, Mar/Apr 2000

Dự án xử lý chất thải công nghiệp vùng
Bộ Công nghiệp vừa đề xuất dự án xây dựng cơ sở xử lý chất thải nguy hại tập trung,
quy mô vùng cho cụm công nghiệp Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu, với tổng số vốn đầu tư
23 triệu USD. Viện Hoá học Công nghiệp là cơ quan thực hiện dự án với sự phối hợp của
Công ty Phát triển cơ sở hạ tầng (SONADEZ1), C
ục Môi trường, các Sở Công nghiệp,
Khoa học-Công nghệ - Môi trường ở 2 tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa - Vũng Tàu. Thời gian thực
hiện dự án là 1 năm, với tổng chi phí khảo sát và lập luận chứng kinh tế - kỹ thuật khoảng
150.000 USD.
Mục tiêu của dự án là quản lý các chất thải rắn và lỏng của các khu công nghiệp thuộc
hai tỉnh, bao gồm các khâu: thu gom, lưu giữ, vận chuyển, chôn lấp chất thải đặc biệt nguy
hại. Dự án này dự kiến, sẽ sử dụng nguồn vốn ODA từ Quỹ DANlDA của Đan M
ạch để đầu
tư phát triển dự án.
Nguồn: TBKTVN, ngày 6/3/2000

Nhà máy xử lý rác thải y tế được đưa vào hoạt động
Sáng 5/4/2000, Nhà máy xử lý rác thải y tế của Tp.Hồ Chí Minh đã chính thức được
khánh thành tại Bình Hưng Hòa, Bình Chánh, Tp.HCM.
Nhà máy này có tổng vốn đầu tư là 22,05 tỷ đồng, trong đó vốn vay từ nguồn tín dụng
ưu đãi của Chính phủ Bỉ là 17,8 tỷ đồng dùng để mua thiết bị lò đốt, vốn đối ứng của ngân
sách Tp.HCM là 4,25 tỷ đồng dùng để xây dựng nhà xưởng, các công trình ph
ụ trợ và 4 xe

chuyên dùng để chở rác thải y tế. Nhà máy này dùng thiết bị do Công ty Basse Sambre-EIR
cung cấp, có công suất 7 tấn rác y tế/ngày, đốt bằng nhiên liệu gas hoá lỏng, có hệ thống xử
lý khói thải theo công nghệ hàng đầu của châu Âu. Rác thải y tế sẽ được đốt qua hai giai
đoạn: giai đoạn đầu, rác thải y tế được đốt trong nhiệt độ 700
0
C, tiếp theo đó chúng được
chuyển sang đốt ở giai đoạn sau để đốt phần còn lại với nhiệt độ là 1000
0
C và sau đó phần
thải còn lại được xử lý để đưa ra ngoài mà không gây ô nhiễm môi trường.
Nhà máy này sẽ phục vụ cho việc xử lý rác thải y tế thải ra từ 51 bệnh viện, 33 phòng
khám khu vực, 282 trạm y tế phường, xã và gần 4.000 phòng mạch tư nhân với tổng số
khoảng 12.420 giừơng bệnh. Hiện nay, Công ty Môi trường Đô thị Tp.HCM thu gom được
lượng rác thải y tế bình quân khoảng 4 tấn/ngày.
Hiện nay, các cơ sở y t
ế trong cả nước, kể cả y tế tư nhân mỗi ngày thải ra ước khoảng
150 tấn rác thải y tế, trong đó có 24,5 tấn chất thải y tế nguy hại. Cả nước mới có 2 nhà máy
xử lý rác thải y tế, đó là nhà máy xử lý rác thải bệnh viện của Hà Nội đã được xây dựng
xong cuối năm 1998 với công suất 4,8 tấn rác/ngày, phục vụ được cho 22 bệnh viện và nhà
máy xử lý rác thải y tế
của Thành phố Hồ Chí Minh nói trên. Ngoài ra mới có 9 bệnh viện
được lắp đặt lò đốt rác y tế bằng thiết bị trong hoặc ngoài nước. Cả nước có tất cả 830 bệnh
viện.
Nguồn: TBKTVN, ngày 7/4/2000
Hệ thống xử lý nước thải Ngành dệt nhuộm
Nước thải dệt nhuộm- nguồn ô nhiễm nguy hi m ể
Mức độ ô nhiễm của ngành dệt nhuộm phụ thuộc rất lớn vào các yếu tố như liều
lượng hóa chất sử dụng, công nghệ dệt nhuộm và tình trạng thiết bị trong dây chuyền sản
xuất. Có thể nêu một số tác nhân gây ô nhiễm chính như các chất tẩy rửa, H
2

SO
4
, NaCl,
NaOCl, Na
2
SO
4
, Na
2
S, Na
2
S
2
O
4
, hợp chất vòng thơm, tạp chất dầu thải ra từ khâu giặt.
Còn ở khâu nấu thì các nguồn ô nhiễm bao gồm: formaldehyde, K
2
Cr
2
O
7
, kim loại nặng,
halogen hữu cơ, thuốc nhuộm, Na
2
S
2
O
4
và CH

3
COOH. Đối với các khâu hoàn tất thì
nguồn gây ô nhiễm là từ các chất nhũ hoá, chất làm mềm, chất tạo phức và dầu thải,v.v
Các nguồn ô nhiễm này sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình phân hủy của các vi sinh vật làm
sạch nước, đồng thời cũng ảnh hưởng đến cả quá trình quang hợp của thực vật thủy sinh
gây ra tình trạng thiếu oxy hoà tan trong nước. Ngoài ra, các ion kim loại còn kết hợp với
các gốc hữu cơ tạo thành các phức ch
ất gây ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống thủy sinh và
nhất là sức khỏe con người. Điều đặc biệt nguy hiểm là sự có mặt của clo hoạt tính trong
nước thải, sẽ kết hợp với các chất hữu cơ vòng thơm tạo nên những hợp chất gây ung thư.
Giải pháp xử lý: Công nghệ SBR.
Thạc sỹ Lê Thượng Mãn, Giám đốc Trung tâm Công nghệ mới ALFA, cho biết sau
một thời gian nghiên cứu, Trung tâm đã thiết kế và chế tạo thành công hệ thống xử lý
nước thải của ngành dệt nhuộm. Theo đó hệ thống này được vận hành theo chế độ hoàn
toàn tự động và hoạt động theo công nghệ SBR (Sequencing Batch Reactor).
Nguyên lý hoạt động của hệ thống xử lý này bao gồm 4 giai đoạn
. Đầu tiên nước
thải nhuộm được chảy vào bể điều hoà (có tác dụng ổn định nồng độ của nước thải và
trữ đủ lượng nước thải để phục vụ cho quá trình lắng). Tiếp theo, từ bể điều hoà, nước thải
được bơm vào thiết bị lắng có thể tích 5 m
3
. Tại đây, quá trình lắng được thực hiện với sự
có mặt của các hoá chất keo tụ và tạo bông. Các hoá chất này dược bơm vào thiết bị lắng
từ bồn chứa hoá chất bằng các máy bơm hoá chất chuyên dùng. Cũng trong giai đoạn này
quá trình khuấy được áp dụng để tăng cường sự tiếp xúc giữa nước thải và hoá chất. Quá
trình lắng được thực hiện khoảng từ 1 – 2 giờ. N
ước thải trong sau khi lắng được tách
riêng ra khỏi bùn lắng bằng cơ cấu gạn, sau đó nó được bơm qua thiết bị lọc áp lực trước
khi thải vào hệ thống cống chung của thành phố. Sau cùng, phần bùn lắng sẽ được xả định
kỳ vào các túi vải để lọc tách bỏ bùn và nước thải. Đến đây, nước thải lại được đưa trở

lại bể điề
u hoà, riêng phần bùn lắng được mang đi đổ chung với rác thải sinh hoạt của đơn
vị.
Theo Ban giám đốc Trung tâm ALFA thì tính đến nay đã có 9 cơ sở dệt nhuộm gồm:
cơ sở Ngọc Hải, Hưng Thịnh, Đức Hùng, Hiệp Phong, Xuân Hiệp, Xuân Thành, Đức
Thịnh, Công Thành, Tài ở Phường 19, Quận Tân Bình, TP.HCM lắp đặt hệ thống xử lý
nước thải với công nghệ SBR này. Điều đáng mừng là nước thả
i từ các doanh nghiệp này
sau khi xử lý đã đạt tiêu chuẩn thải vào môi trường. Kết quả xét nghiệm lý hóa mẫu nước
của Viện Vệ sinh Y tế công cộng cho thấy: Trước khi xử lý: pH = 6,15; COD = 1955
mg/l, BOD
5
= 100 mg/l, SS = 117 mg/l; Sau khi xử lý: pH = 5,88, COD = 150 mg/l,
BOD
5
= 65 mg/l, SS = 6 mg/l.
Vài điều lưu ý t ong vận hành và bảo trì r
Quá trình vận hành nên lưu ý là cần phải luôn đảm bảo có đủ hóa chất ( ít nhất cho
2 mẻ = 200 lít dung dịch) trong hai bồn chứa hóa chất keo tụ và trợ keo tụ. Do hệ thống
vận hành theo chế độ tự động nên việc bảo trì cần được thực hiện thường xuyên để đảm
bảo cho hệ thống hoạt động tốt và ngăn ngừa các sự cố. Đối với hệ thống đường ố
ng, cần
thường xuyên kiểm tra để ngăn ngừa tình trạng rò rỉ, hoặc nghẽn cống. Trong trường hợp
các máy bơm đang hoạt động nhưng không bơm được nước thải thì cần kiểm tra lại nguồn
điện, hay động cơ bơm,v.v Định kỳ 3 tháng phải kiểm tra và bôi trơn các vòng bi của mô
tơ khuấy hóa chất (ở bồn hóa chất) và mô tơ khuấy bể phản ứng và lắ
ng kết hợp. Thiết bị
phản ứng và lắng kết hợp và bồn chứa hóa chất cũng cần súc rửa định kỳ 3 tháng/lần bằng
nước sạch có áp lực lớn hơn 2kg/cm
2

. Trong thời gian 30 phút, cần phải mở van xả đáy để
xả hết nước rửa. Về thiết bị lọc, do lượng cặn bùn phát sinh khá nhiều nên hai ngày/lần
phải tiến hành rửa lọc bằng cách vận hành bơm rửa lọc với nước sạch, đóng và mở các van
để xả bùn trên bề mặt lớp vật liệu lọc trong khoảng 20 phút.
Nguồn: Bản tin KH-KT-KT Tp.Hồ Chí Minh, Số 23/1999


Lò đốt rác thải y tế LĐ-45 được chế tạo tại Việt Nam
Công ty Cổ phần Thiết bị Thương mại (COMECO) đã chế tạo thành công lò đốt rác
thải y tế LĐ-45. Đây là loại lò nhiệt độ cao dùng nhiên liệu dầu diesel DO , ứng dụng kỹ
thuật đốt 2 lần tại buồng đốt sơ cấp và thứ cấp. Hệ thống quạt ly tâm và các đường ống có
van kiểm soát cung cấp không khí cho quá trình
đốt.
Thành phần khí thải của lò đốt này đạt tiêu chuẩn môi trường Việt Nam. Lò đốt rác
thải y tế LĐ-45 này dễ vận chuyển, lắp đặt, vận hành đơn giản. Giá thành chỉ bằng một phần
tư giá thành của thiết bị cùng loại do nước ngoài sản xuất.
Nguồn: Thị trường-giá cả-vật tư, Số 49/2000

Hệ thống tự động ghi và cảnh báo độ nhiễm độc
của nước thải công nghiệp
Tác giả là PGS-TS Phạm Thượng Hàn cùng tập thể cán bộ khoa học Trường Đại học
Bách Khoa Hà Nội, Viện Kỹ thuật thiết bị điện và Công ty thoát nước Hà Nội. Trên cơ sở
nghiên cứu về ô nhiễm môi trường nước, các tác giả đã xác định được các thông số cơ bản
cần phải đo và cảnh báo, từ đó đã đề xuất phương pháp
đo, giới hạn đo,v.v đảm bảo độ
chính xác.
Có các phương pháp: Đo điện dẫn (phần lớn các chất độc hại do các ngành công
nghiệp thải ra đều hòa tan trong nước dưới dạng các ion, kim loại, axít, bazơ hoặc muối;
nồng độ các chất này càng lớn thì độ dẫn điện trong nước càng lớn); đo bằng siêu âm; đo độ
hấp thụ tia cực tím, ánh sáng tán xạ; đo độ pH,v.v Hệ th

ống có các mạch đo, các đầu đo
(sensor) phù hợp và đấu nối với máy tính. Những thông tin nhận được từ các đầu đo sẽ được
xử lý trên máy tính và hiển thị trên màn hình hoặc qua hệ thống báo hiệu bằng còi, bằng đèn
giúp cho việc giám sát được dễ dàng. Các giá trị đo có thể được in ra giấy hay ghi trong ổ
đĩa cứng của máy tính để tiện cho việc theo dõi, thống kê.
Nguồn: Lao động, 8/5/2000

Chế tạo sợi hoạt tính hấp thụ khói xe có động cơ

Kết quả quan trắc môi trường tại một số thành phố lớn như Tp. Hồ Chí Minh cho thấy
mức ô nhiễm không khí đã vượt quá giới hạn cho phép. Một trong những nguồn ô nhiễm
khó khắc phục là khói thải từ các phương tiện giao thông có động cơ.
Tại Tp. Hồ Chí Minh, số lượng xe gắn máy có đăng ký đã lên đến con số gầ
n 1,5 triệu
chiếc, chưa kể số xe lưu thông không đăng ký và hơn 130.000 ô tô các loại.
Để giải quyết vấn đề ô nhiễm, các cơ quan chức năng đã có một số biện pháp hành
chính nhưng kết quả vẫn thấp, mức ô nhiễm vẫn không ngừng tăng lên.
Theo các chuyên gia môi trường, ngoài các biện pháp quản lý như hạn chế giờ giấc,
phân luồng lưu thông, kiểm tra phương tiện chỉ cho phép các phương tiệ
n đảm bảo tiêu
chuẩn lưu thông, cấm các loại xe cơ giới tự tạo,v.v cần có các giải pháp công nghệ để khắc
phục. Hiện tại, trên thế giới đã có một số giải pháp như sử dụng xe hơi chạy bằng điện,
năng lượng mặt trời hoặc gas, nhưng chi phí tương đối cao. Tại Việt Nam, trước mắt cần
phải giải quyết v
ấn đề này bằng phương pháp đơn giản, rẻ tiền.
Viện Công nghệ Hóa học thuộc Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia
đã tiến hành đề tài nghiên cứu : ”Chế tạo vật liệu hấp thu khói thải ô tô, xe máy” là một
nghiên cứu mới của Viện. Thành phần trong khói thải của xe có động cơ chủ yếu là xăng,
dầu, nhớt không kịp cháy phụt ra, xăng dầu cháy dở dang phân hủy thành các chất hữu c
ơ

phân tử có dạng khí, các khí cháy do ôxy kết hợp với nhiên liệu. Ngoài ra, có khi do thiếu
ôxy, một lượng than chưa kịp cháy thoát ra thành bụi than, và cuối cùng là một số chất vô cơ
như chì, khí từ lưu huỳnh trong dầu mỏ và ôxit nitơ trong không khí.
Việc chế tạo vật liệu hấp thu các chất thải độc hại này dựa theo nguyên lý hấp thu của
than hoạt tính, nhưng sử dụng than hoạt tính không tiện lợi vì than hoạt tính tồn tại dạng hạt,
bột trong quá trình sử dụng sẽ bị vỡ ra thành bụi. Vì thế, tác giả đề tài đã nghiên cứu tìm ra
một loại sợi hấp thu đặc biệt có khả năng hoạt tính thay cho than. Đó là loại sợ
i từ thiên
nhiên hoặc sợi tổng hợp, có cấu trúc ái dầu, vì ở đây chủ yếu là hút dạng dầu, sau đó tạo độ
xốp cao như độ xốp của than hoạt tính, tiếp theo là hoạt hóa bề mặt của lỗ xốp bằng hóa chất
để có được bề mặt gồ ghề, xơ xốp, tăng diện tích hấp thụ.
Công nghệ chế tạo sợi hoạt tính qua các công đ
oạn: làm trương nở tối đa sợi có sẵn
kích thước với dung môi thích hợp, ly tâm cho lượng dung môi thừa loại ra, chỉ giữ lại
lượng dung môi giữa các đại phân tử. Tiếp theo là sấy chân không ở nhiệt độ cao trong thời
gian vừa phải để dung môi bay ra và làm cho các đại phân tử không kết lại được, từ đó độ
xốp của mỗi sợi tăng lên tối đa. Công đoạn tiếp theo là để ngu
ội, làm rỗ bề mặt của các lỗ
xốp bằng hóa chất rồi làm khô trở lại. Khi đã có vật liệu hấp thu khói thải, vấn đề còn lại là
chế tạo ra các sản phẩm phù hợp từ vật liệu này để gắn vào xe gắn máy, xe du lịch hoặc xe
tải cho phù hợp và tiện sử dụng.
Từng miếng sợi hoạt tính được gắn vào ống pô của xe, chúng sẽ hút hết khói thả
i do
động cơ xả ra. Để giữ lại phần lớn khói thải của 100 CC xi lanh ô tô, xe máy cần lượng sợi
hấp thu 25-30 g. Như vậy, một chiếc xe du lịch 4 chỗ ngồi có dung tích 1000 CC, cần 250-
300 g sợi hoạt tính, sử dụng trong khoảng 1 tháng (lưu thông hơn 1000 km). Tương tự, một
chiếc xe gắn máy có dung tích 50 CC, chỉ cần 1 miếng sợi hoạt tính khoảng 13-15g, sử
dụng trong 1 tháng.
Miếng sợi hoạt tính được gắn vào ố
ng pô sẽ không làm ảnh hưởng đến động cơ và tốc

độ, nhất là chỉ lưu thông trong thành phố với tốc độ dưới 60 km/giờ. Về hiệu quả, giải pháp
này đã được kiểm nghiệm tại Viện Nghiên cứu Khoa học Bảo hộ Lao động , ngoài khả năng
hấp thu gần hết khói thải, sợi hoạt tính còn giữ lại 60-85% chì có trong xăng. Theo tính toán
chi phí sản xuất, một miếng sợi hoạ
t tính gắn vào xe 100 phân khối, sử dụng trong 1 tháng
chỉ mất khoảng 3.000 đồng, việc thay thế dễ dàng.Nếu hơn 1 triệu xe gắn máy và đa số ô tô
ở Tp. Hồ Chí Minh sử dụng vật liệu mới này, có lẽ bầu không khí của thành phố sẽ được
cải thiện đáng kể.
Nguồn: Phụ san Khoa học và Đời sống, số 132/1999
Sản phẩm ván ép từ bã mía không đủ cung cấp cho thị trường
Thời gian gần đây, người tiêu dùng trong nước ưa chuộng và sử dụng ngày càng nhiều
sản phẩm ván ép từ bã mía của Công ty đường Hiệp Hòa (Long An) sản xuất để làm nội thất
nhà ở gia đình và công sở Nhà nước. Qua sử dụng, người tiêu dùng có kết luận cho rằng sản
phẩm ván ép từ bã mía của Công ty đường Hiệp Hòa đạt chất lượng không thua kém ván ép
từ
gỗ dăm của các nước như Thailand, Malaysia, Indonesia về độ kết dính và các tiêu chuẩn
khác. Do vậy, lượng ván ép từ bã mía của Công ty sản xuất từ năm 1998 và 1999 đều không
đủ cung cấp cho thị trường trong nước.
Hiện tại ,TP. Hồ Chí Minh có một tổng đại lý nhận bao tiêu dài hạn toàn bộ sản
phẩm ván ép từ bã mía của Công ty đường Hiệp Hòa (Long An) cho biết, số lượng ván ép
thường xuyên không đủ bán.
Nhờ khép kín dây chuyền sản xuất nên hiệ
n nay toàn bộ 125.000 tấn bã mía của nhà
máy đường Hiệp Hòa chẳng những không đủ để dùng, mà nhà máy còn phải thành lập một
đội 50 người chuyên đi thu mua thêm bã mía của các nhà máy khác về phục vụ cho việc sản
xuất ván ép và phấn đấu trong năm 2000 sẽ sản xuất từ 8.000 đến 8.500 m
3
ván ép.
Nguồn: Nhân dân, 22/5/2000
Trồng nấm và sản xuất phân vi sinh bằng bã mía

ở Việt Nam, sản lượng mía cây những năm gần đây đạt khoảng 10 triệu tấn/năm.
Nếu lượng mía này dùng sản xuất đường sẽ thải ra khoảng 2,5 triệu tấn bã mía,
300.000 tấn bùn lọc, 30.000 tấn tro mía cùng hàng triệu lít nước thải. Trong chiến lược
phát triển nông nghiệp đến năm 2000, ngành mía đường dự kiến nâng mức sản xuất lên
20 triệu tấn/n
ăm, đồng nghĩa với việc chất thải tăng lên tương ứng. Với một lượng chất
thải mía đường lớn như vậy, việc đưa ra hướng giải quyết các chất thải này như một
nguồn nguyên liệu mới và đặt vấn đề tái sử dụng cho các mục đích khác nhau như: tạo
nguồn năng lượng mới, làm thức ăn gia súc, sản xuất phân bón hữu c
ơ, sản xuất hóa
chất,v.v để phục vụ đời sống con người là một thành công lớn của các nhà khoa học
Việt Nam.
Nguyên lý của phương pháp trồng nấm này là sử dụng các vi sinh vật có sẵn
trong tự nhiên, có khả năng phân hủy cellulose và một vài chất có hại trong việc trồng
nấm. Tuy nhiên, trồng nấm trên bã mía khác nhiều so với kỹ thuật trồng nấm trên rơm
rạ, bông phế thải vì thành phần chính của bã mía chủ
yếu là cellulose, hemicellulose và
được lignin bao bọc làm cho bã mía khó phân giải. Việc trồng nấm trên nguyên liệu bã
mía không đòi hỏi kỹ thuật cao và phương tiện đắt tiền, vốn lại thấp nên với một hộ
nông dân bình thường cũng có thể sản xuất được. Bằng những kết quả thực nghiệm,
các nhà khoa học đã chứng minh rằng: đầu tư cho một tấn bã mía để sản xuất nấm mất
1,4 triệu
đồng, sau một tháng có thể thu về 650 kg nấm tươi và cho lãi hơn ba triệu
đồng. Như vậy, không những giải quyết được vấn đề môi trường mà còn đem lại lợi ích
kinh tế cũng như giải quyết việc làm cho xã hội.
Để tận dụng triệt để nguyên liệu, tạo thành chu trình sử dụng tài nguyên khép
kín, bên cạnh việc sử dụng bã mía trồng nấm thì bã thải của nó được dùng làm phân vi
sinh bón trở lại cho cây mía và mộ
t số cây rau khác. Vì thành phần bã thải có chứa hàm
lượng N, P, K nhất định nên sau khi thu hoạch nấm, bã thải được bổ sung thêm một số

vi lượng rồi cho lên men bảy ngày. Kết quả nghiên cứu này đã được áp dụng thử
nghiệm tại Nông trường 1A - Đại học Quốc gia Hà Nội và có những tín hiệu đáng
mừng.
Đây là đề tài bảo vệ luận án thạc sĩ của học viên Trần Thị Phương, Bộ
môn Sinh
thái Tài nguyên, khoa Môi trường, Đại học Khoa học tự nhiên. Luận văn của chị đã
được hội đồng chấm thi đánh giá xuất sắc. Thành công này có ý nghĩa rất lớn trong
việc giải quyết vấn đề ô nhiễm của ngành mía đường cũng như tạo việc làm, góp phần
nâng cao đời sống của bà con vùng nguyên liệu mía.
Nguồn: Nhân dân, 24/5/2000

Thành Phố Hồ Chí Minh lắp đặt hệ thống giám sát không khí tự động đầu
tiên ở Việt Nam
Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường TP. Hồ Chí Minh đang tiến hành lắp đặt hệ
thống giám sát tự động chất lượng không khí đạt tiêu chuẩn quốc tế đầu tiên tại Việt Nam.
Hệ thống bao gồm một mạng lưới bốn trạm giám sát không khí cố định với 1,6 tấn thiết bị
trị giá 409.000 USD nhập từ Đan Mạch như máy giám sát bụi, hệ thống không khí, thiết b

phân tích, máy ghi dữ liệu, dụng cụ lọc, đầu dò gió, đầu dò nhiệt độ, áp suất, độ ẩm, bức
xạ,v.v được đặt ở quận 3, quận 5, quận Thủ Đức và quận Tân Bình. Các trạm này hoạt
động liên tục, tự động báo các thông số NO/NO
2
, SO
2
, CO, O
3
và bụi về trung tâm điều
hành, giúp cơ quan chức năng theo dõi, quản lý chất lượng không khí, góp phần báo động ô
nhiễm, nghiên cứu tác động của ô nhiễm không khí tới sức khỏe, điều tra nguồn phát thải ô
nhiễm kể cả việc đếm mật độ xe, xác định dự án, nghiên cứu quản lý giao thông,v.v

Đây là một phần của dự án về quản lý môi trường nhằm quy hoạch định hướng mạng
lưới giám sát chất lượng không khí tại TP. Hồ Chí Minh do Chính phủ Đan Mạch hỗ trợ. Dự
tính, hệ thống giám sát mới sẽ hoạt động vào khoảng tháng 7/2000.
Nguồn: Nh n dân, 18/5/2000

â
Giải pháp mới trong việc xử lý khí cacbonic

Những cuộc tranh luận về môi trường trên thế giới đang có xu hướng thay đổi.
Người ta không còn bàn cãi về những tác động của con người đối với tự nhiên hay việc
Trái đất đang nóng lên do “Hiệu ứng nhà kính”. Điều mà các nhà khoa học quan tâm
hiện nay là con người sẽ làm gì để bảo vệ môi trường sống của mình.
Khí nhà kính là nguyên nhân gây nên “hiệu ứng nhà kính”, làm tăng nhiệt độ toàn
cầu.
Điều đáng lo ngại là lượng khí cácbonic trong không khí đang tăng nhanh do sử
dụng chất đốt phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt ngày càng tăng. Từ lâu, chính phủ
các nước và các tổ chức môi trường đã cố gắng ngăn chặn sự gia tăng này bằng những
biện pháp tiết kiệm nhiên liệu hay chuyển sang sử dụng các nguồn năng lượng mới.
Tuy nhiên, trên thực tế, nhu cầu về chấ
t đốt trên thế giới không hề giảm, mà ngược lại,
ngày càng tăng theo đà phát triển của khoa học kỹ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực khai
thác và sản xuất dầu mỏ. Trước tình hình đó, các nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu
để đưa ra một giải pháp mới: cô lập lượng khí cacbonic thải ra trong các “bồn chứa”
thiên nhiên sẵn có, cụ thể là trong lòng đất hoặc dưới đáy biển.
Tại một trong nh
ững mỏ khí đốt ở khu khai thác dầu và khí đốt Sleipner ở ngoài
khơi, cách bờ biển Na Ựy 240 km, mỗi tuần 20.000 tấn khí cacbonic được đưa vào các
lỗ trống của một lớp sa thạch ở độ sâu 1000 m dưới mặt nước biển. Một trong các túi
khí tại đây có chứa 9% khí cacbonic, trong khi lượng cho phép là không quá 2,5%.
Thay vì tách lượng khí cacbonic thừa khỏi khí đốt rồi giải phóng chúng ra ngoài không

khí, những người điều hành ở đây quyết định nén lượ
ng khí đó lại rồi bơm chúng
xuống 1 cái giếng trên lớp sa thạch dày 200 m sau khi đã hút hết nước mặn trong giếng
đi. Mối lợi đối với môi trường của Na Ựy là quá rõ: gần 1 triệu tấn cacbonic được cô
lập ở Sleipner chiếm tới 3% lượng khí nhà kính thải ra ở nước này. Tuy nhiên, thành
công lớn nhất của chủ nhân các mỏ dầu ở đây lại không nằm ở khía cạnh đó. Vào năm
1996, chính phủ Na Ựy quy định mức thuế đánh trên lượng khí cacbonic thải ra là 50
ỰSD/tấn. Như vậy, sau 3 năm, số tiền thuế có thể lên đến 50 triệu ỰSD. Thay vì trả số
tiền này, họ đã đầu tư 80 triệu ỰSD vào thiết bị nén khí và chuẩn bị các giếng chứa khí
cacbonic. Vì thế, chỉ sau một năm rưỡi, các nhà sản xuất sẽ hoàn toàn thu lại vốn.
Tại một mỏ khí khác trong vùng biển Barents ở phía bắc Na Ựy, khí cacbonic lại
được bơm vào lòng đất. Đây là quá trình ngược lại của việc khai thác dầu và khí đốt ra
khỏi lòng đất. Trên thực tế, thao tác này ngày nay khá phổ biến ở nhiều khu vực khai
thác trên thế giới. Khí cacbonic được bơm xuống các túi dầu làm tăng độ hoạt động của
d
ầu, từ đó giúp tăng năng suất của giếng. Trong năm 1998, có 43 triệu tấn khí cacbonic
đã được bơm xuống 65 mỏ dầu trên khắp nước Mỹ cũng với mục đích trên. Thế nhưng
con số 43 triệu tấn vẫn là quá nhỏ bé nếu so với tiềm năng dự trữ khí cacbonic của các
thành hệ địa lý như: các tầng đá ngậm nước mặn (như trường hợp mỏ
khí tại Sleipner),
những vỉa than không khai thác được, túi dầu hoặc túi khí đã cạn, những hang
động,v.v trên khắp thế giới. Tuy nhiên, “bồn chứa” lớn nhất mà thiên nhiên ban tặng
cho con người vẫn là biển cả. Đại dương hoà tan khoảng khoảng 40.000 tỷ tấn khí
cacbonic, so với 750 tỷ tấn trong không khí, nhưng dung tích của nó còn vượt xa con
số đó. Nếu chỉ dựa vào các chu trình tự nhiên thì sau vài trăm năm nữa, 85% lượng khí
cacbonic trong không khí hôm nay cũng sẽ được hoà tan vào bi
ển cả. Vấn đề của
chúng ta là đẩy nhanh quá trình đó. Các nhà khoa học đang xem xét khả năng bơm trực
tiếp khí cacbonic xuống biển ở độ sâu từ dưới 1000 m, nơi mà nhiệt độ nước biển giảm
đáng kể theo độ sâu. Tầng nước biển lạnh hơn và mặn hơn này rất khó hoà tan với lớp

nước bề mặt và khí cacbonic sẽ được giữ lại một cách có hiệu quả. Khí cacbonic có th

được đưa xuống biển theo hai cách : hoà tan vào nước biển ở độ sâu trung bình 1000-
2000 m hoặc bơm xuống độ sâu 3000 m để tạo nên cái gọi là “hồ cacbonic”, giữ chúng
lại nơi đại dương trong khoảng thời gian tối đa.
Tuy có nhiều giải pháp được đưa ra xem xét, song chúng ta cũng cần quan tâm
đến những tác hại có thể có đối với môi trường khi tiến hành những biện pháp kỹ thuật
này. Các cấu trúc địa lý được dùng làm nơi cô lậ
p khí cacbonic cần phải có sự bền
vững cần thiết để bảo đảm sự an toàn, vì không những khí cacbonic có thể bị rò rỉ ra
ngoài không khí mà còn có thể xảy ra mối nguy hiểm là một khối khí cacbonic khổng
lồ nếu được giải phóng ra bất ngờ sẽ “ thổi” sạch khí oxy ra khỏi một khu vực rộng lớn
(do khí cacbonic nặng hơn khí oxy), làm cho động vật và con người bị chết ngạt. Trong
trường hợp khí cacbonic được đư
a xuống biển, nó có thể làm giảm độ pH của nước
biển từ 8 xuống còn từ 5-7. Một sự thay đổi độ axit như vậy sẽ gây nguy hiểm cho
những sinh vật phù du, vi khuẩn và các loài sinh sống dưới đáy biển nếu chúng không
di chuyển đến được những vùng nước có độ axit yếu hơn. Để khắc phục vấn đề này,
người ta phải phân tán lượng khí cacbonic bơm xuống biển trên một diện r
ộng. Cuối
cùng, tất cả các phương pháp này đều có chung một trở ngại là còn quá mới mẻ và tốn
kém, đặc biệt là trong khâu tách khí cacbonic. Cách làm phổ biến nhất hiện nay là dùng
dung dịch monoethanolamine (MỌA) trong tháp hấp thụ khí nhà kính. Khí cacbonic
trong đó sẽ phản ứng với MỌA ở nhiệt độ trong phòng để tạo thành một hỗn hợp
không bền vững. Hỗn hợp này sẽ được đun nóng tới 120
0
C ở tháp phân tích để giải
phóng khí cacbonic.

×