Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

BỆNH VIÊM TẮC ĐỘNG MẠCH (Kỳ 2) pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.5 KB, 7 trang )

BỆNH VIÊM TẮC ĐỘNG MẠCH
(Kỳ 2)
5. Chụp động mạch cản quang:
+ Xác định được hình dạng và mức độ co thắt của các động mạch bị
viêm tắc, hình các cục nghẽn trong động mạch, mức độ lưu thông của dòng máu
trong động mạch
+ Xác định được tình trạng hệ tuần hoàn bên của chi có động mạch
chính bị viêm tắc.
6. Chụp CT, chụp MRI động mạch:
Ngoài việc xác định được các biến đổi về hình thái của động mạch bị
viêm tắc, chụp CT và MRI còn xác định được cả tương quan giải phẫu cũng như
các thay đổi về hình thái của các tổ chức và cơ quan xung quanh.
V. Chẩn đoán phân biệt:
Một số bệnh cần chẩn đoán phân biệt với bệnh Viêm tắc động mạch:
1. Hoại tử đầu chi trong bệnh đái tháo đường:
+ Tiền sử thường không có dấu hiệu “đi lặc cách hồi”.
+ Vị trí bị hoại tử thường ở gan bàn chân, gót chân
+ Xét nghiệm thấy Glucoza máu tăng, có Glucoza trong nước tiểu
2. Bệnh xơ vữa động mạch:
+ Thường bị tổn thương hệ thống động mạch toàn thân chứ không
thường xuyên bị ở chi dưới như bệnh Viêm tắc tĩnh mạch, do đó có thể thấy dấu
hiệu các động mạch căng như sợi thừng ở động mạch thái dương, động mạch cánh
tay, động mạch quay
+ Đau ở vùng chi có động mạch bị xơ vữa nhưng thường không dữ
dội, vận động nhiều có đau hơn nhưng bắt mạch ngoại vi vẫn thấy đập rõ.
+ Có thể có hoại tử vùng chi có xơ vữa động mạch nhưng thường
xuất hiện ở người già, có cao huyết áp, tăng Cholesterol máu
3. Bệnh Raynaud:
+ Thường gặp ở Nữ giới, tuổi trẻ.
+ Bệnh tiến triển thành từng đợt, tổn thương chủ yếu là ở đầu chi và
đối xứng cả hai bên.


VI. Tiến triển và biến chứng:
Bệnh tiến triển có tính chất chu kỳ: các cơn đau cấp tính giảm đi khi
được điều trị và nghỉ ngơi, nhưng sau đó lại tái phát kịch phát mỗi khi có những
kích thích như lạnh, ẩm, hút thuốc, căng thẳng về tâm lý
Dần dần thời gian các đợt giảm bệnh bị rút ngày càng ngắn lại và thời
gian bệnh diễn biến kịch phát ngày càng kéo dài ra làm cho bệnh nhân đau đớn
thường xuyên, toàn trạng suy sụp, hoại tử chi và phải chỉ định mổ cắt cụt chi bị
bệnh.
Sau khi đã cắt cụt chi bị bệnh, quá trình bệnh lý có thể tiếp tục phát
triển ở chi đối diện hoặc các chi trên.
VII. Điều trị:
1. Điều trị nội khoa:
a) Loại bỏ các yếu tố kích thích gây có thắt mạch máu:
Tránh các điều kiện môi trường lạnh, ẩm. Không hút thuốc. Tránh
các căng thẳng về tâm lý và sinh lý. Chế độ ăn uống đầy đủ các chất và Vitamin
b) Dùng các thuốc chống co thắt mạch máu:
+ Dùng các thuốc giãn cơ trơn như: Achetylcholine, Papaverin,
Nospa
+ Tiêm Novocain động mạch: có thể dùng Novocain 1% tiêm động
mạch mỗi lần 10 ml, ngày tiêm 1-2 lần. Sau 15-20 lần tiêm bệnh có thể đỡ hẳn.
c) Lý liệu pháp:
Chiếu sóng ngắn, liệu pháp Ion ganvanic với Novocain, xoa bóp
2. Điều trị ngoại khoa:
a) Các phương pháp tác động lên hệ thần kinh giao cảm:
+ Mổ cắt bỏ mạng lưới thần kinh giao cảm quanh động mạch:
- Mạng lưới thần kinh giao cảm nằm ở lớp vỏ bao quanh thành động
mạch. Trong cơ chế bệnh sinh của bệnh Viêm tắc động mạch, hệ thần kinh giao
cảm này đóng một vai trò không nhỏ trong vòng phản xạ bệnh lý của bệnh. Việc
mổ cắt bỏ mạng lưới này là cắt bỏ được một khâu trong vòng phản xạ bệnh lý đó.
- Thường tiến hành bộc lộ đoạn động mạch ở phía trung tâm của

động mạch bị viêm tắc. Bóc tách và cắt bỏ lớp vỏ ngoài của động mạch trên một
đoạn khoảng 2-3 cm. Có thể tiêm thêm khoảng 20 ml Novocain 0,25-0,5% vào
động mạch khi đóng lại vết mổ.
+ Cắt đôi động mạch rồi lại khâu nối lại:
Phương pháp này có tác dụng như mổ cắt bỏ mạng lưới giao cảm
quanh động mạch.
+ Mổ cắt bỏ các hạch thần kinh giao cảm thắt lưng 2,3 và 4:
Các hạch giao cảm thắt lưng 2,3,4 là các hạch giao cảm chi phối cho
các động mạch chi dưới. Cắt bỏ các hạch này cũng có tác dụng cắt bỏ được một
khâu trong vòng phản xạ bệnh lý của bệnh Viêm tắc động mạch ở các động mạch
chi dưới.
+ Mổ cắt bỏ Tuyến thượng thận:
Phương pháp này được tiến hành dựa trên cơ chế là cắt bỏ Tuyến
thượng thận sẽ làm giảm được các Adrenalin do tuỷ Tuyến thượng thận tiết ra,
nhờ đó giảm được tình trạng co thắt động mạch.
b) Các phẫu thuật phục hồi tuần hoàn vùng chi bị viêm tắc động mạch:
+ Mổ cắt bỏ lớp nội mạc và lấy bỏ các cục nghẽn động mạch:
Tiến hành mở thành động mạch ra. Cắt bỏ lớp nội mạc động mạch bị
viêm dày, lấy bỏ các cục nghẽn trong lòng động mạch. Khâu lại thành động mạch.
+ Mổ ghép mạch máu:
- Tiến hành bộc lộ và cắt bỏ đoạn động mạch bị Viêm tắc.
- Dùng một đoạn mạch máu để ghép thay vào đoạn động mạch đã bị
cắt bỏ. Đoạn mạch ghép có thể là một đoạn Tĩnh mạch hiển trong của chính bệnh
nhân (ghép tự thân), đoạn động mạch lấy từ người đã chết (ghép đồng loại) hay
đoạn mạch máu nhân tạo.
+ Làm thông mạch máu bằng kỹ thuật can thiệp nội mạch máu:
Hiện nay phương pháp này đang được nghiên cứu và áp dụng ngày
càng rộng rãi. Có thể dùng các biện pháp sau:
- Nong rộng đoạn động mạch bị hẹp do viêm tắc: đưa bóng nong vào
lòng động mạch đến đoạn động mạch hẹp, bơm bóng cho căng ra để nong rộng

lòng động mạch.
- Đặt Sten vào đoạn động mạch hẹp: Sten là một khung có độ cứng
nhất định, được đặt trên một bóng nong động mạch. Tiến hành đưa bóng nong đó
vào động mạch đến chỗ động mạch hẹp và bơm lên để làm giãn thành động mạch
ra đồng thời gài Sten đó nằm lại chỗ động mạch vừa được nong ra. Phương pháp
này giúp tránh được tình trạng động mạch bị xẹp lại sau khi nong.
- Cắt bỏ nội mạc động mạch và các cục nghẽn bằng một dụng cụ đặc
biệt: dụng cụ này gồm một lưỡi khoan nhỏ kèm theo ống hút, đưa dụng cụ này vào
đến chỗ động mạch bị viêm tắc và cho máy chạy. Lưỡi khoan sẽ cắt vụn tất cả lớp
nội mạc bị viêm dày và các cục nghẽn trong lòng động mạch, các mảnh vụn sẽ
được hút ngay ra ngoài theo ống hút. Nhờ đó lòng động mạch sẽ được thông trở
lại.
c) Phẫu thuật cắt cụt chi bị viêm tắc động mạch:
Đây là biện pháp điều trị cuối cùng phải dùng đến, khi tình trạng hoại
tử chi phát triển làm cho bệnh nhân đau đớn và suy sụp nặng.

×