Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.85 KB, 5 trang )
LÁC CƠ NĂNG VÀ LIỆT VẬN NHÃN
(Kỳ 4)
Liệt động tác nhìn ngang
a. Tổn thương cấu tạo lưới của cầu não (PPRF) gây ra liệt nhìn ngang cùng
bên, nhưng phản xạ tiền đình – mắt không ảnh hưởng.
b. Tổn thương bó dọc giữa (MLF) gây ra hội chứng liệt mắt gian nhân: mắt
bên tổn thương bị hạn chế đưa vào, mắt bên kia đưa ra thì xuất hiện rung giật nhãn
cầu đặc trưng, quy tụ bình thường.
c. Tổn thương kết hợp cả PPRF và MLF gây ra “Hội chứng một và một
nửa“: Liệt nhìn ngang cùng bên và liệt mắt gian nhân cùng bên.
Liệt động tác nhìn đứng
Tổn thương trung tâm nhìn đứng (nhân kẽ của bó dọc giữa) gây ra:
a. Hội chứng Parinaud: Gồm tam chứng (1)liệt động tác nhìn đứng, (2) mất
phản xạ đồng tử với ánh sáng nhưng còn phản xạ đồng tử nhìn gần (light – near
dissociation) và (3) mắt rung giật kèm theo nhãn cầu co rút vào hốc mắt
(convergence – retraction nystagmus).
b. Hội chứng Steel – Rechardson – Olszewski: Liệt trên nhân tuần tiến (liệt
nhìn xuống, sau đó liệt nhìn lên, cuối cùng liệt cả động tác nhìn ngang) kèm theo
co cứng ngoại tháp, giả liệt hành tủy, nói khó, sa sút trí tuệ.
III. ĐIỀU TRỊ LÁC
Việc điều trị lác cần được tiến hành sớm, trước tuổi đi học thì mới hy vọng
phục hồi cả được thị giác 2 mắt và thẩm mỹ. Nếu để quá muộn thì chỉ có thể đạt
được yêu cầu thẩm mỹ.
Quá trình điều trị lác gồm 3 giai đoạn: (1) Điều chỉnh bằng kính, (2) điều trị
nhược thị và (3) phẫu thuật để phục hồi sự cân bằng 2 mắt.
3.1. Chỉnh kính.
Chỉnh kính là một khâu quan trọng trong điều trị lác, đặc biệt là đối với lác
do điều tiết thuần tuý. Điều chỉnh kính làm cho ảnh rõ nét và tạo thuận lợi cho việc
phối hợp thị giác 2 mắt.
- Viễn thị: Mức độ viễn thị cần điều chỉnh phụ thuộc vào tuổi bệnh nhân và
bệnh lác nếu có. Một đứa trẻ dưới 2 tuổi không lác thì viễn thị 4D mới cần chỉnh