Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

Chính sách công nghiệp và tài chính ở Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (641.86 KB, 44 trang )










Chính sách công nghiệp và tài chính
ở Việt Nam










Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright
Niên khoá 2005-2006
Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?




Dwight H. Perkins 1 Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh


CHÍNH SÁCH CƠNG NGHIỆP VÀ TÀI CHÍNH Ở
TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: MƠ HÌNH MỚI
HAY CHỈ LÀ SỰ LẶP LẠI KINH NGHIỆM CỦA ĐƠNG Á?


Ngay từ khi bắt đầu q trình cải cách kinh tế của mình, Trung Quốc và Việt Nam đã cố
gắng rất nhiều để trở thành một phần trong câu chuyện thành cơng về kinh tế của Đơng Á.
Khủng hoảng tài chính Châu Á thời kỳ 1997-98 đã làm cho một số nhà lãnh đạo tại hai nước
này phải suy đi nghĩ lại, nhưng mục đích cơ bản là đạt được mức tăng trưởng kinh tế nhanh
với cơ chế kinh tế tương tự như cơ chế của các nước láng giềng vẫn thực sự khơng thay đổi.
Tuy nhiên, Trung Quốc và Việt Nam có xuất phát điểm rất khác so với các nước láng giềng
của mình. Trong khoảng thời gian ba thập kỷ, cả hai nước đã theo mơ hình phát triển kinh tế
kế hoạch hóa tập trung. Do đó nỗ lực tiến đến cơ chế kinh tế Đơng Á bao gồm nhiều vấn đề
hơn là chỉ đơn thuần tiến hành một ít thay đổi trong chính sách như chuyển từ cơng nghiệp
hóa thay thế nhập khẩu sang tăng trưởng dựa vào xuất khẩu hay chuyển từ giá cả bị bóp méo
đến giá cả do thị trường xác định. Để giống với các nước khác ở Đơng Á hơn, Trung Quốc
và Việt Nam đã phải cơ bản thay đổi cách tổ chức nền kinh tế của mình một cách tồn diện.
Do đó, các câu chuyện kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam trong một đến hai thập kỷ vừa
qua bao gồm hai nhánh khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Dù có sự chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường nhưng cả hai nước cũng nỗ
lực học hỏi từ những điều đã làm cho các nước láng giềng Đơng Á thành cơng về kinh tế, và
trong chừng mực nào đấy đã sao chép những gì mà họ cảm nhận về những điều đó.

Tuy nhiên, cuối thập kỷ 1990, điều khơng còn rõ ràng nữa là liệu những yếu tố đã khiến
các nền kinh tế Đơng Á khác thành cơng có tương đồng nhiều với những yếu tố sẽ quyết định
sự thành cơng của Trung Quốc và Việt Nam trong tương lai hay khơng. Mơi trường kinh tế

quốc tế trong đó Trung Quốc và Việt Nam hoạt động vào đầu thế kỷ mới rất khác với mơi
trường vào những năm 1950 và 1960 khi Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước Đơng Á phát
triển sớm khác hình thành chính sách cơng nghiệp của mình. Vòng đàm phán Uruguay và
q trình tồn cầu hóa nền kinh tế diễn ra nhanh chóng đã thay đổi các luật chơi. Những gì
có thể diễn ra vào giữa thế kỷ 20 khơng còn có thể chấp nhận được vào đầu thế kỷ 21.
Chẳng hạn như, trong thập kỷ 1950 đến hết thập kỷ 1970, các nhà quản lý kinh tế ở Nhật
Bản, Hàn Quốc và tỉnh Đài Loan (Trung Quốc) có thể sử dụng thuế quan và hạn ngạch một
cách rộng rãi để thúc đẩy ngành cơng nghiệp nào đó. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngồi
(FDI) bị hạn chế nghiêm trọng. Nhật Bản và Hàn Quốc được đón chào làm thành viên của
Hiệp định chung về Thuế quan và Mậu dịch (GATT) mặc dù phần lớn những gì họ đang làm
lúc đó vi phạm những ngun tắc về thương mại tự do của GATT.

Trái lại, những cuộc đàm phán của Trung Quốc để gia nhập GATT và tổ chức thay thế
cho nó, Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), kéo dài cho hết những năm 1990 và năm
2000 Trung Quốc vẫn còn đang đàm phán với Liên minh Châu Âu. Như hiệp định thương
mại giữa Trung Quốc với Mỹ đã thể hiện, để trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc sẽ
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh


2
phải mở cửa đối với thương mại và đầu tư nước ngồi đến mức độ khơng mơ thấy nổi vào
thập kỷ 1950 cho đến hết thập kỷ 1970. Những biện pháp hạn chế định lượng đối với thương
mại, những u cầu về hàm lượng nội địa và các cơng cụ khác giống như thế của chính sách
cơng nghiệp phải được nhanh chóng dỡ bỏ. Các nhà đầu tư nước ngồi phải nhận được sự
“đối xử quốc gia” trong các lĩnh vực trước đây hồn tồn đóng cửa đối với sở hữu nước
ngồi. Thậm chí Việt Nam có thể khơng hưởng được quy chế tối huệ quốc hay quan hệ
thương mại bình thường nếu khơng đồng ý với những điều kiện tương tự. Lúc đầu Việt Nam
từ chối ký hiệp định mà mình đã thương lượng nhưng điều đó khơng phải là giải pháp lâu dài
cho cả Việt Nam lẫn Trung Quốc. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã cho thấy rằng cả hai nền
kinh tế sẽ hưởng lợi rất nhiều, trong trường hợp Việt Nam thì từ quan hệ thương mại bình
thường với Mỹ và từ tư cách thành viên của WTO, còn trường hợp Trung Quốc thì từ tư cách
thành viên của WTO.

Vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc và Việt Nam phải đương đầu là
học hỏi kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước láng giềng Đơng Á. Mơ hình Đơng Á
ban đầu vẫn còn rất hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo, vốn là các nhà lập kế hoạch trước đây
của Trung Quốc và Việt Nam, hiện đang nắm quyền quyết định chính sách kinh tế ở hai
nước. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997-98 đã làm cho nhiều nhà lãnh đạo tại
Trung Quốc và Việt Nam nghi ngờ khả năng áp dụng mơ hình chính sách cơng nghiệp của
Hàn Quốc hay Nhật Bản nhưng vẫn khơng xóa bỏ được ý tưởng đó. Một thập kỷ đình trệ tại
Nhật Bản những năm 1990 – một sự đình trệ mà được nhiều người cảm nhận là do cách tiếp
cận trước đây về cơng nghiệp và tài chính – cũng đã làm cho một số người suy nghĩ lại quan
điểm của mình. Song nhiều người hy vọng rằng mơ hình chính sách cơng nghiệp - tài chính
chủ động tích cực (activist) có thể phần nào dung hòa với những đòi hỏi của hệ thống thương
mại tồn cầu và những ngun tắc của WTO. Nhưng điều đó có thể khơng thực tế. Sự tự do
kinh tế (laissez-faire) hồn tồn theo mơ hình Hồng Kơng có lẽ cũng khơng thực tế nốt. Rõ
ràng Trung Quốc và Việt Nam sẽ phải hình thành hướng đi cho riêng mình để phát triển tài
chính và cơng nghiệp trong những thập kỷ tới, nhưng vậy thì hướng đi đó có thể như thế nào?

Những sự lựa chọn thật sự nào mà hai nước phải đối mặt?

Khơng chỉ chính mơi trường mới bên ngồi buộc Trung Quốc và Việt Nam phải nghĩ ra
hướng đi mới. Những phần việc đơn giản hơn của q trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường đã được hồn tất. Nơng nghiệp và thương mại được sắp xếp lại thành các đơn vị cạnh
tranh quy mơ nhỏ mà trên thực tế là của tư nhân và hoạt động chủ yếu theo các lực lượng thị
trường. Nhiều doanh nghiệp hương trấn ở Trung Quốc và một số liên doanh với các cơng ty
nước ngồi ở cả Trung Quốc lẫn Việt Nam cũng hoạt động theo quy luật thị trường. Nhưng
các doanh nghiệp nhà nước quy mơ vừa và lớn cũng như các ngân hàng quốc doanh vẫn còn
nằm trong vùng tranh tối tranh sáng giữa cơ chế chỉ huy và cơ chế thị trường. Dường như
việc Trung Quốc và Việt Nam khơng hồn tất q trình cải cách đã góp phần vào sự sụt giảm
của mức tăng trưởng kinh tế năm 1998 và 1999. Do đó, nếu cứ tiếp tục các chính sách của
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

3
thập kỷ vừa qua thì rất có thể tạo nên chi phí kinh tế ngày càng cao. Rất cần một hướng đi
mới.


CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG LỰA CHỌN TRONG CHÍNH SÁCH
CƠNG NGHIỆP

Khi q trình chuyển đổi sang cơ chế thị trường bắt đầu, các nhà lãnh đạo Trung Quốc và
Việt Nam khơng tranh luận gì đối với các yếu tố cấu thành trong cách thức phát triển kinh tế
của Đơng Á và các yếu tố này đã được đem vào áp dụng ngay giai đoạn đầu của q trình cải
cách tại hai nước. Nổi bật hơn cả trong số các yếu tố này là định hướng ra bên ngồi với việc
đặc biệt chú trọng đến tăng trưởng xuất khẩu. Giống như trường hợp của bốn con rồng Đơng
Á (Hồng Kơng, Hàn Quốc, Singapore và tỉnh Đài Loan) và Nhật Bản, đối với Trung Quốc,
xuất khẩu có nghĩa là xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo chứ khơng phải khống sản và
nơng sản. Đối với Việt Nam, mục tiêu là mở rộng xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo
nhưng thực tế trước mắt là việc mở rộng xuất khẩu phụ thuộc nhiều hơn vào tăng trưởng xuất
khẩu nơng sản và dầu mỏ. Tuy nhiên, trong dài hạn hơn, Việt Nam sẽ phải dựa ngày càng
nhiều vào kim ngạch xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo với cùng một lý do như Trung
Quốc. Cả hai nước đều có 0,1 hécta diện tích đất canh tác bình qn đầu người và nước nào
có nguồn tài ngun đất đai hạn chế như vậy thường trở thành nước nhập khẩu ròng lương
thực và các sản phẩm nơng nghiệp khác chứ khơng phải là nước xuất khẩu ròng.

Các quốc gia có dân số q đơng so với tổng diện tích đất của mình cũng thường trở thành
nước nhập khẩu ròng khống sản. Trong những năm đầu của q trình tăng trưởng nhanh
trong cơng nghiệp, các sản phẩm dựa vào tài ngun thiên nhiên có thể chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng kim ngạch xuất khẩu nhưng khi thu nhập bình qn đầu người tăng thì nhu cầu
trong nước đối với những sản phẩm này sẽ nhanh chóng vượt q cung. Tại Trung Quốc,
năm 1980 các loại sản phẩm ngun khai (nơng sản và khống sản) vẫn còn chiếm 50% tổng
kim ngạch xuất khẩu nhưng tỉ lệ này đã giảm mạnh xuống còn 26% vào năm 1990 và 11%
vào năm 1998. Năm 1995, lần đầu tiên Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu ròng các sản
phẩm ngun khai. Đối với Việt Nam, sản phẩm ngun khai chiếm hơn 90% tổng kim
ngạch xuất khẩu tính đến cuối năm 1992 nhưng kim ngạch sản phẩm cơng nghiệp chế tạo
tăng từ 9% tổng kim ngạch xuất khẩu vào năm 1992 lên đến 29% năm 1996.


Việc chuyển hướng ra bên ngồi của Trung Quốc và Việt Nam bao gồm nhiều vấn đề chứ
khơng đơn giản chỉ bác bỏ các chính sách tự cung tự cấp trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập
trung trước đây. Chú trọng vào xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo có nghĩa là phải định
hướng lại cả hệ thống cơng nghiệp. Một hệ thống hướng nội có thể sản xuất ra hàng chất
lượng thấp cho thị trường đã chiếm lĩnh; trái lại một nền cơng nghiệp hướng ngoại phải cạnh
tranh cả về chất lượng lẫn chi phí với các nhà sản xuất có năng lực nhất trên thế giới. Các kỹ
năng tiếp thị hầu như khơng được biết đến trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung tự cung tự cấp
và những kỹ năng này khơng quan trọng lắm khi xuất khẩu khống sản nhưng chúng là một
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

4
phần thiết yếu của bất kỳ chiến lược xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo nào. Hệ thống
hướng nội cũng phải sản xuất ra máy móc sắt thép cho riêng mình bởi vì phát triển đòi hỏi
phải có tư liệu sản xuất và hệ thống này khơng tạo ra lượng ngoại hối đủ để chi trả cho việc
nhập khẩu những mặt hàng này. Nền cơng nghiệp hướng ngoại có thể xuất khẩu hàng cơng
nghiệp chế tạo tiêu dùng và nhập khẩu nhiều tư liệu sản xuất cần thiết ít nhất trong giai đoạn

đầu của q trình tăng trưởng nhanh.

Khơng phải một sớm một chiều mà các nhà quản lý doanh nghiệp Trung Quốc và Việt
Nam tiếp thu được các kỹ năng kiểm tra chất lượng và tiếp thị cần có để cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Thành cơng trong việc mở rộng xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo đã nhờ
vào những người đang sống ngồi Trung Quốc và Việt Nam vốn đã có sẵn những kỹ năng
cần thiết. Đối với trường hợp của Trung Quốc, việc chủ yếu dựa vào các cơng ty thương mại
có tay nghề cao của Hồng Kơng đã giải quyết được vấn đề tiếp thị. Tỷ trọng hàng xuất khẩu
Trung Quốc trước tiên đổ sang Hồng Kơng và sau đó được tái xuất sang các nước khác tăng
đều trong suốt những năm 80 và hầu hết hàng tái xuất loại này là hàng cơng nghiệp chế tạo
(Xem Sun 1991 để biết phần thảo luận chi tiết hơn về vai trò của Hồng Kơng). Đầu tư trực
tiếp nước ngồi (FDI) cũng đóng một vai trò quan trọng trong cơng tác tiếp thị và tái cơ cấu
cơng nghiệp của Trung Quốc và Việt Nam để sản xuất hàng hóa chất lượng cao cho thị
trường quốc tế. Hầu hết luồng đầu tư trực tiếp nước ngồi này đến từ Hoa kiều ở Hồng
Kơng, tỉnh Đài Loan và Đơng Nam Á. FDI từ Mỹ, Châu Âu, và thậm chí Nhật Bản khơng
những nhỏ so với FDI của Hoa kiều mà phần lớn lượng FDI đó còn đổ vào để phát triển khai
thác dầu ngồi khơi hay vào các nỗ lực to lớn sản xuất thay thế hàng nhập khẩu như sản xuất
xe hơi.

Sẽ thú vị khi phỏng đốn xem liệu Trung Quốc và Việt Nam có thể duy trì động lực xuất
khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo hay khơng nếu như Hoa kiều đã khơng sẵn lòng đóng vai trò
tích cực như thế. Có thể nghĩ rằng Trung Quốc và Việt Nam lẽ ra có thể dựa trực tiếp vào sự
hỗ trợ từ người mua ở Mỹ và Châu Âu hay vào các cơng ty thương mại lớn của Nhật Bản.
Trong thực tế, đó chính là cách Hàn Quốc và Đài Loan đã làm để nhận biết được thị trường
nước ngồi u cầu những gì, họ làm như thế mà hầu như khơng có nhiều đầu tư trực tiếp nước
ngồi. Nếu như cần có FDI từ các nước cơng nghiệp để phát triển nhanh xuất khẩu thì Trung
Quốc và Việt Nam lẽ ra phải tiến nhanh hơn trong việc tạo ra một mơi trường thỏa đáng cho
các nhà đầu tư từ các nước cơng nghiệp. Điều đó đáng lẽ đòi hỏi phải có tiến bộ nhiều hơn hẳn
trong việc thiết lập cơ chế kinh tế dựa trên ngun tắc luật pháp so với những gì đã xảy ra trong
thực tế.


Trái lại, cộng đồng Hoa kiều ở hải ngoại có kinh nghiệm lâu đời trong việc sử dụng các
mối quan hệ gia đình và cá nhân rộng rãi để tạo ra mơi trường an tồn cho các khoản đầu tư
của mình và họ chẳng gặp mấy khó khăn trong việc chuyển giao những kỹ năng đó cho
Trung Quốc lục địa. Thay vì thế, các nhà đầu tư Mỹ và Châu Âu dựa vào hợp đồng và hệ
thống pháp lý mạnh hỗ trợ những hợp đồng này. Nếu như Trung Quốc buộc phải phát triển
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

5
hệ thống pháp lý của mình nhanh chóng hơn thì Trung Quốc đáng lẽ đã gặp phải khó khăn
đáng kể trong việc thực hiện điều đó. Truyền thống Khổng giáo cộng với việc xóa bỏ hồn
tồn hệ thống pháp lý trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-76) đã khiến cho Trung Quốc
chẳng có bao nhiêu nền tảng pháp lý để dựa vào đó mà phát triển lên trong giai đoạn đầu của
thời kỳ cải cách. Trung Quốc có thể và đã thật sự thơng qua hàng loạt bộ luật mới sau khi
giai đoạn cải cách bắt đầu vào năm 1978 nhưng Đảng Cộng sản và chính phủ vốn đã quen
với việc ra quyết định chỉ với sự hạn chế một phần của luật pháp khơng dễ dàng từ bỏ thẩm
quyền tùy tiện của mình. Có thể nói như vậy đối với Việt Nam. Việc hướng ngoại của

Trung Quốc và Việt Nam buộc hai nước phải tiến hành những thay đổi căn cơ đối với cách
thức họ tiếp cận phát triển cơng nghiệp. Tuy nhiên, xét về khía cạnh tạo ra hệ thống dựa vào
ngun tắc pháp luật, hai nước này khơng cần phải có sự tiến triển nhiều như các nhà phân
tích phương Tây thường cho là cần thiết.

Quyết định hướng ra bên ngồi khơng phải là kết quả tất yếu của quyết định chuyển
hướng sang nền kinh tế thị trường, đặc biệt là đối với Trung Quốc. Nói cho cùng, Trung
Quốc có một thị trường nội địa cực lớn và nhiều chun gia phân tích cho rằng Trung Quốc
sẽ phải dựa nhiều vào thị trường đó nếu muốn phát triển nhanh. Giống như các nước rất lớn
khác thường có tỉ lệ ngoại thương thấp, Trung Quốc khơng thể trơng chờ tăng trưởng xuất
khẩu kéo nền kinh tế đi lên mãi mãi được. Kim ngạch xuất khẩu từ năm 1978 đến 1998 tăng
với tỷ lệ gần 16%/ năm tính theo giá trị danh nghĩa của đơ-la Mỹ và 25%/ năm tính theo
đồng nhân dân tệ hiện tại, ở mức độ nào đó xuất khẩu kéo phần còn lại của nền kinh tế đi lên
với nó (Trung Quốc, Cục Thống kê Nhà nước 1998: 620). Nhưng đến năm 1999, tổng kim
ngạch xuất khẩu đã đạt 194,9 tỉ US$ và người ta khơng thể trơng chờ nó tiếp tục tăng với tỷ
lệ như trong q khứ. Trung Quốc chắc phải dựa nhiều vào cầu trong nước hơn nữa để tiêu
thụ các sản phẩm của mình. Thậm chí với tỷ lệ tăng trưởng hàng năm 10% thì kim ngạch
xuất khẩu của Trung Quốc sẽ tăng lên đến hơn 700 tỉ US$ sau chưa đến 15 năm và nhiều
người thật sự nghi ngại rằng liệu các nước còn lại trên thế giới có thể hấp thu hàng xuất khẩu
của Trung Quốc với quy mơ lớn như vậy trong một khoảng thời gian ngắn như thế hay
khơng.

Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc có thể tiếp tục tăng trưởng với tỷ lệ 8
hay 9% một năm hay khơng nếu xuất khẩu khơng đóng góp nhiều vào tỷ lệ tăng trưởng đó?
Các năm 1998 và 1999 đã phần nào cho ta đáp án đối với câu hỏi này. Kim ngạch xuất khẩu
chỉ tăng 0,5% năm 1998, sau đó giảm xuống vào nửa đầu năm 1999 phần lớn là do cuộc
khủng hoảng tài chính Châu Á, trước khi kết thúc với tỷ lệ tăng trưởng 6,1% đối với cả năm
((Trung Quốc, Cục Thống kê Nhà nước 1999b: 19; 2000: 21). Mức tiêu dùng tư nhân và đầu
tư của doanh nghiệp nhà nước và tư nhân cũng tăng chậm, do đó chi tiêu của chính phủ về cơ
sở hạ tầng phải bảo đảm nhiệm vụ duy trì tỷ lệ tăng trưởng cao trong tổng cầu và như thế là

tỷ lệ tăng trưởng cao trong GDP. Kết quả là Trung Quốc vật lộn để giữ tỷ lệ tăng trưởng
GDP trên 7% và nhiều người cảm thấy rằng tỷ lệ tăng trưởng chính thức gần 8% năm 1998
đã được thổi phồng lên do báo cáo sai lệch từ các tỉnh. Tăng trưởng GDP năm 1999 theo báo
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

6
cáo là 7%. Vì nhiều lý do chưa hiểu được một cách tường tận, nhưng những lý do này có lẽ
liên quan phần nào đến tác động nâng cao năng suất của cạnh tranh nước ngồi, tăng trưởng
dựa chủ yếu vào cầu nội địa có thể khơng có khả năng duy trì lâu dài các tỷ lệ tăng trưởng
GDP cao đã đạt được trong suốt thời kỳ xuất khẩu tăng mạnh. Rõ ràng Trung Quốc cần giữ
xuất khẩu tiếp tục tăng càng nhanh càng tốt, nhưng Trung Quốc cũng cần tạo ra sự gia tăng
nhanh hơn dựa trên cầu nội địa.

Việt Nam vẫn còn là một nước xuất khẩu rất nhỏ bé và tỷ lệ tăng trưởng xuất khẩu cao của
Việt Nam có thể được duy trì trong một khoảng thời gian dài mà khơng phải đối diện với vấn
đề thị trường khơng thể hấp thu hết những gì Việt Nam sản xuất. Vấn đề đối với Việt Nam là
phải khơi mào cho cuộc bùng nổ kim ngạch xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo. Xuất khẩu

tại Việt Nam vào năm 1998 và 1999 khơng tăng là do cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á
cùng với việc các chính sách của Việt Nam làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngồi – những
người xuất khẩu hàng cơng nghiệp chế tạo chính. Sự sụt giảm đó khơng phải do sự bão hòa
dài hạn các thị trường xuất khẩu của Việt Nam.

Tổ chức cơng nghiệp và chính sách cơng nghiệp

Với tầm quan trọng của xuất khẩu và đầu tư nước ngồi đối với q trình phát triển kinh tế
của Trung Quốc và Việt Nam, vấn đề quan trọng hơn cả đối với hai nền kinh tế này là phải
tn thủ những quy tắc của cơ chế kinh tế quốc tế được thể hiện qua các tổ chức như WTO.
Vì các ngun tắc của WTO rõ ràng khơng cho phép nhiều khía cạnh có tính quyết định của
việc chính phủ can thiệp nhằm hạn chế nhập khẩu và kiểm sốt đầu tư nước ngồi, do đó
dường như đương nhiên là Trung Quốc và Việt Nam sẽ phải từ bỏ nỗ lực nhằm hướng sự
phát triển của cơng nghiệp và khu vực tài chính theo những đường lối đã được những nhà
hoạch định của chính phủ ở Nhật Bản và Hàn Quốc khởi xướng từ thập kỷ 1950 đến hết thập
kỷ 1970.

Nhưng các ngun tắc do một tổ chức bên ngồi áp đặt, ngay cả đó là một tổ chức quốc tế
như WTO được các nước có nền kinh tế hùng mạnh nhất dẫn dắt, cũng khơng thuyết phục
bằng lơ-gích nội tại của bản thân một quốc gia. Điều đó khơng ở đâu đúng hơn ở Trung
Quốc và Việt Nam, với lịch sử lâu đời chống sự cai trị của ngoại bang. Nếu những người ra
quyết định kinh tế của Trung Quốc và Việt Nam được thuyết phục rằng chính sách cơng
nghiệp chủ động tích cực kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản, cho dù nó được phép thực hiện đi
nữa, có thể khơng mang lại kết quả thì rất có thể họ tập trung một cách có hệ thống vào việc
làm cho cơ chế ít can thiệp hơn, đi theo quy luật thị trường hơn, hoạt động có hiệu quả. Nếu
họ khơng được thuyết phục như thế thì họ có thể tránh né những hạn chế của các ngun tắc
kinh tế tồn cầu, giống y như những gì Nhật Bản và Hàn Quốc đã làm trong thập kỷ 1970 và
thập kỷ 1980.

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright


Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

7
Khơng phải chỉ có định hướng của một nước nhắm đến những ngun tắc của thị trường
quốc tế mới định hình cách thức tổ chức và dẫn dắt khu vực cơng nghiệp của nước đó. Đối
với Trung Quốc và Việt Nam, bản thân cơ cấu cơng nghiệp và khu vực tài chính trước đây để
lại cũng có ảnh hưởng đáng kể đối với cách thức tổ chức cơng nghiệp và đối với vai trò của
chính phủ trong việc điều hành và kiểm sốt cơng nghiệp và tài chính. Đặc biệt Trung Quốc
đã có gần ba thập kỷ phát triển cơng nghiệp trước khi tiến hành cải cách kinh tế – gần chín
thập kỷ nếu chúng ta lùi lại giai đoạn khi những nhà máy hiện đại đầu tiên được xây dựng
vào những năm 1890. Năm 1986 hay 1989 Việt Nam có khu vực cơng nghiệp nhỏ hơn nhiều
so với Trung Quốc nhưng cũng có một số ngành cơng nghiệp, và cơng nghiệp đã được phát
triển trong bối cảnh chiến tranh và theo cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung.

Bất kể các ngun tắc của WTO là gì, bản chất của vấn đề mà các nhà hoạch định chính
sách cơng nghiệp ở Trung Quốc gặp phải được minh họa bằng các số liệu trong Bảng 6.1 và
Hình 6.1. Trước tiên khu vực cơng nghiệp khá lớn. Năm 1999 giá trị gia tăng trong cơng
nghiệp ở mức khá cao, đến 3,5 ngàn tỉ nhân dân tệ (427 tỉ US$). Bất kỳ nhà hoạch định

chính sách cơng nghiệp nào có khuynh hướng dựa vào những sự chỉ đạo của chính phủ hơn
là vào lực lượng thị trường đều phải chỉ đạo khu vực cơng nghiệp lớn hơn khu vực cơng
nghiệp của Pháp và xấp xỉ gấp ba lần quy mơ cơng nghiệp của Hàn Quốc vào giữa những
năm 1990.




Bảng 6.1 Cơ cấu sở hữu cơng nghiệp tại Trung Quốc năm 1996
Loại doanh nghiệp Số doanh nghiệp
(ngàn)
Giá trị sản lượng gộp
(triệu nhân dân tệ)
Tất cả các đơn vị cơng nghiệp 7.986,5 9.959.500
Đơn vị hạch tốn độc lập 506,4 6.274.016
Quy mơ lớn 7,1 2.475.665
Quốc doanh 113,8 2.836.100
Tập thể 1.591,8 3.923.200
Trấn 202,3 1.173.000
Hương 678,4 1.590.000
Khác 518,6 338.700
Cá thể 6.210,7 1.542.000
Khác 70,2 1.658.200
Cổ phần 7,8 328.103
Có vốn nước ngồi 19,4 658.146
Hồng Kơng/Đài Loan (Trung Quốc) 24,0 538.136
Nguồn: Trung Quốc, Cục Thống kê Nhà nước (1997: 411, 415-18)
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển

Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

8


Quy mơ sản lượng chỉ là phần đầu của vấn đề. Năm 1996 Trung Quốc có gần 8 triệu
doanh nghiệp cơng nghiệp. Trong số này, 6 triệu là doanh nghiệp cá thể với số lượng cơng
nhân nhiều lắm cũng chỉ có vài người. Chỉ có 506.000 doanh nghiệp (năm 1996) được xếp
loại là “đơn vị hạch tốn độc lập”, một thuật ngữ đại khái tương đương với cơng ty trách
nhiệm hữu hạn trong thế giới các nước cơng nghiệp.
1
Dễ dàng gạt ra 7,48 triệu đơn vị cơng
nghiệp khơng phải là đơn vị hạch tốn độc lập vì quy mơ nhỏ do đó khơng quan trọng nhưng
những doanh nghiệp này tạo ra 37% tổng sản lượng cơng nghiệp (tính theo giá trị gộp) năm
1996. Việc nỗ lực chỉ đạo phần hoạt động cơng nghiệp này thơng qua các kênh phi thị
trường chẳng hợp lý gì hơn so với nỗ lực kiểm sốt các hộ nơng dân cũng bằng cách đó.
Khơng có nhà hoạch định chính sách nào ở Bắc Kinh hay thậm chí ở địa phương có thể có đủ
lượng thơng tin kịp thời để đưa ra những chỉ đạo có ý nghĩa đối với hoạt động hàng ngày của
các doanh nghiệp cơng nghiệp nhỏ.


Các nhà hoạch định chính sách cơng nghiệp tương lai theo phái chủ động tích cực cũng
gặp vấn đề khó khăn với 506.000 doanh nghiệp là đơn vị hạch tốn độc lập. Trong số những
doanh nghiệp này, tổng cộng có 43.000 doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của các cơng ty
nước ngồi hoặc các cơng ty có trụ sở ở Hồng Kơng hay Đài Loan, sản xuất ra 19% tổng sản
lượng của các đơn vị hạch tốn độc lập và chiếm tỉ trọng kim ngạch xuất khẩu lớn hơn nhiều
so với tỉ lệ % trong tổng sản lượng. 352.000 doanh nghiệp khác là các xí nghiệp hương trấn
(TVE) phát triển mạnh hơn hay các xí nghiệp đơ thị, sở hữu tập thể. Những đơn vị hạch tốn
Hình 6.1 Cơ cấu Sở hữu Cơng nghiệp

Tỉ trọng trong tổng sản lượng

Quốc doanh
Tập thể
Cá thể
Nước ngồi, khác
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh


9
độc lập tập thể này tổng cộng chiếm khoảng 30% nữa trong tổng giá trị sản lượng của tất cả
các đơn vị cơng nghiệp hạch tốn độc lập.

Hiện nay có rất nhiều tài liệu về hình thức sở hữu thực chất của các TVE, nhưng có một
điểm mà ai cũng đồng ý là những xí nghiệp này khơng phải do chính quyền trung ương và
cũng khơng phải do chính quyền cấp tỉnh sở hữu hay quản lý. Các chính quyền địa phương,
thị trấn và đơi khi là các quận huyện có vai trò quan trọng đối với các TVE nhưng họ khơng
đóng vai trò chủ yếu của người đánh thuế hay nhà điều hành đối với các TVE. Những nơi
mà các TVE thành cơng rực rỡ nhất là những nơi chính quyền tích cực đẩy mạnh sự phát
triển của các xí nghiệp địa phương. Cũng khơng phải là q đáng khi nói rằng nhiều chính
quyền địa phương ứng xử giống như các tập đồn kinh doanh nhỏ. Quyền sở hữu tài sản
được xác định tương đối rõ theo ý nghĩa rằng rõ ràng địa phương kiểm sốt hoạt động của
các xí nghiệp này, nhận lợi ích và khơng chia sẻ lợi ích này với đơn vị chính quyền cấp cao
hơn, ngoại trừ một điều là những TVE này có đóng thuế. TVE phải đương đầu với những
hạn chế ngân sách cứng, mua nhập lượng trên thị trường, bán sản lượng ra thị trường và ký
kết hợp đồng với các xí nghiệp khác, bao gồm các cơng ty quốc doanh hay nước ngồi (Xem
thêm các chương của Qian và Lin và Yao).

Như thế, 114.000 doanh nghiệp nhà nước năm 1996 chỉ sản xuất 50% sản lượng của các
đơn vị hạch tốn độc lập và 29% tổng sản lượng cơng nghiệp. Điều này tương phản với tỉ
trọng 78% của doanh nghiệp nhà nước năm 1978 và 65% năm 1985, mặc dù con số năm
1978 khơng thể so sánh chính xác với con số của năm 1985 cũng như 1996.
2
Theo những
tính tốn này, tỉ trọng của các doanh nghiệp nhà nước trong tổng sản lượng cơng nghiệp đã
giảm xuống còn chưa đến 1/3 và vẫn còn có hơn 100.000 doanh nghiệp. Con số này vẫn còn
q lớn nên chính quyền trung ương khơng thể chỉ đạo một cách hiệu quả được, đặc biệt với
hệ thống kế tốn yếu kém của nhiều doanh nghiệp loại này.


Tại Trung Quốc, 7.000 doanh nghiệp cơng nghiệp được xếp vào loại quy mơ lớn. Phần
lớn những doanh nghiệp này do nhà nước sở hữu nhưng con số đó bao gồm một số cơng ty
liên doanh nước ngồi và một số doanh nghiệp thị trấn. Tổng cộng, các doanh nghiệp lớn
này sản xuất 25% tổng sản lượng cơng nghiệp và ít hơn nếu chỉ tính các doanh nghiệp sở hữu
nhà nước trong tổng số. Kể từ năm 1996, ở Bắc Kinh, mọi người bàn tán sơi nổi về việc
chính phủ chỉ đóng vai trò tích cực trong việc quản lý từ 1.000 đến 2000 doanh nghiệp nhà
nước mà thơi. Sau Đại hội Đảng lần thứ 15 năm 1997 và Đại hội Nhân dân Tồn quốc vào
đầu năm 1998, con số được thảo luận chỉ còn 500 doanh nghiệp nhà nước. Ngồi các ngành
cơng nghiệp qn sự có tính chiến lược, con số này có lẽ bao gồm nhiều, nhưng khơng phải
là tất cả, các xí nghiệp cơng nghiệp lớn nhất Trung Quốc, nhưng khơng có khả năng những xí
nghiệp này chiếm hơn 10 đến 15% tổng sản lượng cơng nghiệp.
3

Cho dù các nhà hoạch định chính sách cơng nghiệp của Trung Quốc có ý định gì đi chăng
nữa – cho dù họ có muốn tn thủ các ngun tắc của cơ chế kinh tế tồn cầu hay khơng đi
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh


10
nữa – họ cũng khơng thể bắt chước cách thức kiểm sốt đối với sự phát triển cơng nghiệp mà
Tổng thống Park Chung Hee thực hiện ở Hàn Quốc những năm 1970. Ở Hàn Quốc vào đầu
những năm 1970, 46 tập đồn cơng nghiệp lớn nhất (chaebol) chiếm 37% giá trị gia tăng
trong cơng nghiệp chế tạo và 19% tổng GDP phi nơng nghiệp. Chỉ tính riêng 5 chaebol hàng
đầu thơi cũng đã chiếm 15% giá trị gia tăng trong cơng nghiệp chế tạo. Các doanh nghiệp
quốc doanh ở Hàn Quốc lúc đó chiếm 13% nữa trong tổng GDP phi nơng nghiệp (Jones và
Sakong 1980: 148, 260-66). Do đó hơn một nửa giá trị gia tăng trong cơng nghiệp chế tạo
nằm trong tay chưa tới 200 doanh nghiệp. Tổng thống Park và các bộ trưởng của mình
thường hay gặp gỡ các vị lãnh đạo những doanh nghiệp này và thường đích thân theo dõi sự
tiến triển của chúng trong việc thực hiện chính sách cơng nghiệp tồn quốc.

Vấn đề các nhà hoạch định chính sách cơng nghiệp Trung Quốc đương đầu cũng chính là
vấn đề mà các nhà hoạch định chính sách ở nhiều nơi khác phải đương đầu– dân số cực kỳ
đơng của Trung Quốc. Số lượng doanh nghiệp cần có để chiếm một nửa tổng sản lượng cơng
nghiệp Trung Quốc lên đến con số hàng trăm ngàn doanh nghiệp. Nếu Trung Quốc cố gắng
giảm con số này xuống còn khoảng vài trăm doanh nghiệp, chiếm 1/3 hoặc hơn giá trị gia
tăng trong cơng nghiệp chế tạo thì những doanh nghiệp này – sau khi được củng cố – sẽ phải
lớn gấp 10 đến 20 lần các chaebol của Hàn Quốc những năm 1970.

Rất khó nhận thấy Trung Quốc làm thế nào để có thể tiến hành chính sách cơng nghiệp
chủ động tích cực theo đường lối thúc đẩy cơng nghiệp hóa chất và cơng nghiệp nặng của
Hàn Quốc những năm 1970. Theo cách đó của Hàn Quốc thì văn phòng Tổng thống thiết kế
cách thức phát triển tồn bộ khu vực cơng nghiệp nặng, xuống đến từng nhà máy và bao gồm
cả quy mơ của từng nhà máy riêng lẻ. Sau đó văn phòng Tổng thống thương lượng với các
nhà lãnh đạo của chaebol để xác định ai sẽ là người thực hiện các kế hoạch của chính phủ.
Bằng cách này, Tổng thống Hàn Quốc, sau khi làm việc với ủy ban bao gồm vài chục chun
gia, có khả năng đưa ra những chỉ đạo thực tiễn để phát triển khu vực mà sau này chiếm hơn
một nửa tổng sản lượng cơng nghiệp chế tạo của Hàn Quốc và chiếm tỉ trọng tương đương
trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

4

Nếu các nhà hoạch định chính sách cơng nghiệp Trung Quốc có nỗ lực tương tự như vậy
thì họ sẽ phải xử lý vài ngàn doanh nghiệp chứ khơng phải vài chục. Một ủy ban nho nhỏ tọa
lạc trong văn phòng của Thủ tướng Trung Quốc khơng thể làm nổi. Thay vào đó, Trung
Quốc có thể phải tạo ra guồng máy hành chính khổng lồ và trao cho nó quyền ra lệnh các xí
nghiệp thực hiện kế hoạch của mình.

Chính sách cơng nghiệp Hàn Quốc của Park Chung Hee là một ví dụ cực đoan của q
trình ra quyết định tập trung. Bộ Ngoại thương và Cơng nghiệp (MITI) của Nhật Bản đóng
vai trò tương tự nhưng dựa phần nào ít hơn vào sự chỉ đạo tập trung và dựa nhiều hơn vào sự
phối hợp và hợp tác với một số lớn các hiệp hội cơng nghiệp tư nhân. Hiện nay cơ chế này
được mọi người coi như là nhân tố chính góp phần gây ra tình trạng đình trệ kinh tế mà Nhật
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

11
Bản phải nếm trải trong những năm 1990, nhưng người ta cảm nhận rằng một quốc gia như

Trung Quốc đang ở giai đoạn sớm hơn nhiều của q trình tăng trưởng có thể làm cho cơ chế
này hoạt động có hiệu quả giống như Nhật Bản vào những năm 1960 và 1970. Do vậy cũng
có thể mơ hình MITI với việc chính phủ đi đầu trong nỗ lực cơng nghiệp có thể đem lại hiệu
quả tốt hơn đối với Trung Quốc so với mơ hình Hàn Quốc hay tốt hơn so với cũng mơ hình
này ở Nhật Bản những năm 1990. Tuy nhiên, rất có thể bộ máy hoạch định chính sách cơng
nghiệp của Trung Quốc quay trở về chính q khứ của Trung Quốc và hoạt động với nhiều
khía cạnh giống như Ủy ban Kế hoạch Nhà nước trước đây. Chắc chắn rằng điều đó có thể
xảy ra nếu những người thực hiện chính sách cơng nghiệp Trung Quốc đại đa số đều là các
quan chức từ bộ máy lập kế hoạch trước đây.

Các nhà hoạch định chính sách cơng nghiệp Việt Nam đã khơng và hiện nay cũng khơng
phải đối mặt với vấn đề của Trung Quốc, tức số lượng q lớn các doanh nghiệp cơng
nghiệp. Tổng số doanh nghiệp quốc doanh giảm từ 3020 năm 1989 xuống còn 1958 năm
1995, phần lớn là vì Việt Nam đóng cửa các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn khơng hiệu
quả do chính quyền địa phương quản lý. Số lượng doanh nghiệp do chính quyền trung ương
trực tiếp quản lý khơng thay đổi nhiều trong thời kỳ đổi mới (hay cải cách), tổng cộng có 549
doanh nghiệp năm 1995 (Ngân hàng Thế giới 1997: bảng 8.1; Việt Nam, Tổng Cục Thống kê
1994: 79). Thậm chí những số liệu này có phần thể hiện q cao tổng số bởi vì liên doanh
giữa doanh nghiệp nước ngồi và Việt Nam phần lớn đều được gộp trong khu vực nhà nước.
Số lượng doanh nghiệp tư nhân chỉ trên 1000; chỉ có trên 5000 hợp tác xã cơng nghiệp (giảm
từ 21.900 vào năm 1989) và thêm khoảng 368.000 cơ sở cơng nghiệp hộ gia đình (năm
1992). Tuy nhiên, tỉ trọng của khu vực quốc doanh trong tổng giá trị sản lượng cơng nghiệp
ở Việt Nam cao hơn nhiều so với Trung Quốc. Tỉ trọng của khu vực quốc doanh trong tổng
sản lượng cơng nghiệp năm 1992 là 71% và tỉ trọng này tăng trong suốt thời kỳ đổi mới
những năm 1990. Khu vực kinh tế hộ gia đình đóng góp hầu hết phần còn lại trong sản
lượng cơng nghiệp (24% năm 1992).

Do đó chính phủ trung ương Việt Nam đã trực tiếp kiểm sốt hầu hết sản lượng cơng
nghiệp thậm chí sau thập kỷ đổi mới. Bằng cách kiểm sốt vài trăm doanh nghiệp, các nhà
hoạch định chính sách chính phủ ở Hà Nội, về mặt ngun tắc, có thể chỉ đạo và giám sát hầu

hết sự phát triển quan trọng của cơng nghiệp. So sánh với tình hình ở Trung Quốc, số lượng
các doanh nghiệp cơng nghiệp hiện đại của Việt Nam ít, một phần do dân số Việt Nam chỉ có
6% dân số Trung Quốc và một phần do cơng nghiệp Việt Nam phát triển hạn chế hơn nhiều
kể từ giữa những năm 1990. Liệu điều đó có dẫn đến việc Việt Nam có khả năng tiến hành
chính sách cơng nghiệp theo kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản những năm 1970 hay khơng?

Các nhà kinh tế học tân cổ điển thuần túy khẳng định rằng chính sách cơng nghiệp chủ
động tích cực (activist) hiệu quả thực ra là một thuật ngữ tự bản thân đã mâu thuẫn và do đó
câu trả lời của họ cho câu hỏi đặt ra bên trên là một chữ “khơng” rõ ràng. Kinh nghiệm gần
đây của Nhật Bản trong những năm 1990 và Hàn Quốc cuối những năm 1990 cũng thể hiện
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

12
rõ rằng một chính sách cơng nghiệp chủ động tích cực có thể dẫn đến sai lầm. Trong khoảng
thời gian dài trước khi khủng hoảng tài chính Châu Á diễn ra, các nhà ra quyết định kinh tế ở
cả Hàn Quốc và tỉnh Đài Loan đều bỏ ra rất nhiều thời gian và cơng sức cố gắng loại bỏ phần
lớn điều họ cho là tình trạng quản lý kiểm sốt q mức vào giai đoạn chủ động tích cực

trước đây. Nhưng người Châu Á, cũng giống như những người khác, cũng xem xét kinh
nghiệm của Hàn Quốc và Nhật Bản vào những năm 1960 và 1970 và kết luận rằng những
nước này chắc hẳn đã đang đi đúng hướng. Các nhà lịch sử kinh tế học từ lâu đã chỉ ra rằng
trong q trình phát triển kinh tế ở những nước đi sau, nhà nước thường đóng vai trò lớn hơn
so với các nước cơng nghiệp đi đầu. Một trong những “lợi thế của sự tụt hậu” đó là người đi
sau có thể học hỏi từ những người đi trước và viên chức cao cấp của chính phủ đơi khi có đủ
khả năng tiến hành những học hỏi cần thiết (quan điểm này được thể hiện rõ ràng nhất trong
các tác phẩm của Alexander Gerschenkron; xem Gerschenkron 1962). Các viên chức cao
cấp của chính phủ Việt Nam có thể học hỏi được gì từ kinh nghiệm của Hàn Quốc và Nhật
Bản, áp dụng những gì có hiệu quả trong chính sách cơng nghiệp của các nước đó và điều
chỉnh lại hay tránh lập lại những lỗi lầm rõ ràng của Hàn Quốc hay Nhật Bản? Về vấn đề đó,
với việc Trung Quốc hạn chế vai trò của chính phủ tới mức độ có thể kiểm sốt được thì liệu
Trung Quốc có thể làm giống như thế được hay khơng?

Có ba lý do, nảy sinh từ giai đoạn gần đây và tình hình hiện nay, lý giải tại sao Việt Nam
và Trung Quốc có thể gặp khó khăn lớn trong việc thực hiện chính sách cơng nghiệp theo
kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản một cách hiệu quả cho dù các ngun tắc của cơ chế kinh tế
quốc tế cho phép làm như vậy. Điều trước tiên đó là bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực
kinh tế (economic bureaucracy) ở cả hai nước được xây dựng và đào tạo để thực hiện cơ chế
kế hoạch hóa tập trung, chứ khơng phải kiểu hoạch định chiến lược mà Hàn Quốc và Nhật
Bản áp dụng. Hệ thống hoạch định chiến lược dựa nhiều vào “sự hướng dẫn”, lực lượng thị
trường, và khu vực tư nhân khi đến giai đoạn thực hiện kế hoạch. Để thực hiện kế hoạch, các
nhà hoạch định trung ương trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trơng cậy vào các mệnh
lệnh, được hỗ trợ bằng sự kiểm sốt trực tiếp đối với hầu hết nhập lượng. Việt Nam và
Trung Quốc dĩ nhiên có thể xóa đi bộ máy quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế hiện nay
của mình và xét ở một mức độ nào đó thì họ cũng đã làm như thế. Năm 1998 Trung Quốc
bắt đầu giảm mạnh biên chế của chính phủ. Sau đó cả hai nước có thể xây dựng lại bộ máy
quản lý kinh tế mới theo mơ hình của Hàn Quốc và Nhật Bản. Việc cơ cấu lại như thế có thể
thực hiện được nhưng rất có thể khơng xảy ra. Điều có khả năng xảy ra hơn là chính quyết
định xây dựng hệ thống hoạch định chiến lược theo kiểu Hàn Quốc hay Nhật Bản trở thành

một cái cớ để duy trì càng nhiều bộ máy quản lý nhà nước theo kiểu kế hoạch hóa cũ càng
tốt. Một số người trong bộ máy này có thể được đào tạo lại để thực hiện phương pháp mới
nhưng nhiều người vẫn cứ bám lấy cách làm cũ mà họ biết rõ nhất.

Lý do thứ hai và thứ ba lý giải tại sao việc vận hành có hiệu quả chính sách cơng nghiệp
theo kiểu Hàn Quốc hoặc Nhật Bản gặp khó khăn liên quan đến chính trị và tham nhũng.
Hàn Quốc và Nhật Bản những năm 1960 và 1970 chắc chắn đã có kinh nghiệm với tình trạng
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

13
tham nhũng và với việc các quyết định kinh tế được đưa ra dựa nhiều vào các tiêu chuẩn
chính trị hơn là các tiêu chuẩn kinh tế và kỹ thuật. Nhưng chính trị và tham nhũng khơng
phải là một phần quan trọng trong các quyết định về chính sách cơng nghiệp những năm
1960 và 1970. Tổng thống Park Chung Hee ở Hàn Quốc cách ly ê kíp cơng nghiệp nặng và
cơng nghiệp hóa chất trong Nhà Xanh [dinh Tổng thống] của mình ra khỏi chính trị sao cho
các quyết định được đưa ra chỉ dựa trên tiêu chuẩn kỹ thuật mà thơi. Khi một chaebol nhận
nhiệm vụ quan trọng của chính phủ thì lý do chính là Tổng thống Park nghĩ rằng họ có thể

làm được cơng việc đó. Người ta cũng kỳ vọng các doanh nghiệp quốc doanh Hàn Quốc
hoạt động tốt xét về kinh tế và tài chính và đó là lý do chính lý giải tại sao cơng ty thép
khổng lồ POSCO hoạt động tốt được như vậy. Vào những năm 1990, khi chính trị đóng một
vai trò quan trọng trong các quyết định cơng nghiệp và kinh tế ở Hàn Quốc thì kết quả là sự
phá sản của cơng ty thép Hanbo và khủng hoảng nợ năm 1997-98.

Nhật Bản cũng tách chính trị và tham nhũng khỏi MITI vào thời hồng kim của tổ chức
này.
5
Các nhà chính trị gây ảnh hưởng rất lớn đến việc chi tiêu của nhà nước vào các cơng
trình cơng chánh nhưng các quan chức vốn là chun gia trong những ngành có liên quan lại
là người đưa ra chính sách cơng nghiệp; các chính sách tài chính và thương mại được sử
dụng để hỗ trợ quyết định có tính kỹ thuật đó. Các tiêu chuẩn kỹ thuật sử dụng khơng phải
lúc nào cũng là các tiêu chuẩn lý tưởng hay chính xác để có thể đạt được sự phát triển cơng
nghiệp hiệu quả, nhưng những người ra quyết định về chính sách cơng nghiệp cố gắng làm
điều tốt nhất cho đất nước mình. Họ khơng tạo ra đặc lợi cho chính mình hay cho những nhà
cầm quyền chính trị.

Chính trị và tham nhũng là những yếu tố thường xun xuất hiện trong cách thức đưa ra
và thực hiện các quyết định kinh tế ở cả Việt Nam lẫn Trung Quốc trong những năm 1990.
Các cơ quan quốc tế khi cố gắng đo lường mức độ tham nhũng ảnh hưởng đến các quyết định
kinh doanh thường xếp Trung Quốc và Việt Nam ở khoảng cuối danh sách và đứng đầu là
các quốc gia như Singapore gần như khơng có tham nhũng trong kinh doanh.
6

Các đơn vị hải quan tại cả hai nước thường đòi lại quả nếu muốn nhập khẩu hàng vào
nước mình. Các quyết định dựa vào chính trị khơng có dính líu đến tham nhũng có thể cũng
có tác hại y như vậy. Một nhà máy hóa dầu đặt tại miền Trung Việt Nam cách xa nguồn
cung và xa thị trường có thể trở thành một sự lãng phí to lớn đối với nguồn lực đầu tư còn
hạn chế của đất nước. Dự án đập Ba Núi (Three Gorges) ở Trung Quốc được thực hiện dựa

trên các tiêu chuẩn cả về chính trị và kinh tế. Nếu chi phí xây dựng đập tăng lên cao hơn
nhiều so với dự tốn ban đầu thì dự án có thể góp phần làm chậm lại sự tăng trưởng của đất
nước.

Ở Trung Quốc và Việt Nam, các tiêu chuẩn chính trị sẽ khơng bị loại bỏ một sớm một
chiều khỏi các quyết định của chính phủ có tác động đến nền kinh tế. Chính trị đóng một vai
trò quan trọng trong các quyết định của hầu hết các chính phủ trên thế giới. Chính phủ Park
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

14
Chung Hee của Hàn Quốc và MITI của Nhật Bản vào những năm 1960 và 1970 là những
trường hợp ngoại lệ (những điểm nằm ngồi) giống như chính phủ Singapore hiện nay. Các
dự án về các cơng trình cơng chánh trên thế giới được thực hiện vừa để kiếm phiếu bầu hay
các hình thức ủng hộ chính trị khác vừa để cung cấp cơ sở hạ tầng cần thiết. Ở Hoa Kỳ,
những dự án như vậy được gọi dưới cái tên là những “dự án kiếm phiếu bầu” (porkbarrel).
Trung Quốc và Việt Nam tuy có hệ thống chính trị chun chính, nhưng các chính trị gia
điều hành hệ thống chính trị này phải giành lấy sự ủng hộ chính trị từ các khu vực bầu cử

khác nhau để có thể đưa ra quyết định. Tổng thống Park Chung Hee chủ yếu dựa vào qn
đội hiện đại cộng với những người nơng dân vùng nơng thơn để có được sự ủng hộ chính trị
cho mình và ơng ta khơng cần phải mua chuộc sự ủng hộ của các chính trị gia hay tài phiệt
cơng nghiệp khác. Họ hồn tồn lệ thuộc vào ơng ấy.

Có nhiều cách để giảm vai trò chính trị trong việc ra các quyết định kinh tế. Cách dễ thấy
nhất là để cho khu vực tư nhân tự đưa ra hầu hết các quyết định của chính mình mà khơng có
sự can thiệp của nhà nước, nhưng nếu làm như vậy, Trung Quốc và Việt Nam rất khó có thể
giải quyết vấn đề làm thế nào để xây dựng được cơ sở hạ tầng cần thiết. Vì cả lý do chính trị
lẫn lý do kinh tế, chính phủ rất có thể đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển cơ sở hạ tầng
trong giai đoạn ít nhất một hoặc hai thập kỷ tới. Hầu hết các dự án đầu tư vào cơ sở hạ tầng
tại các nước khác ở Châu Á, bao gồm Nhật Bản vào nửa đầu của thế kỷ 20, đều do nhà nước
thực hiện.
7
Nỗ lực nhằm giảm đến mức thấp nhất tác động chính trị đối với hiệu quả của
những dự án này sẽ phụ thuộc vào các biện pháp như sử dụng nhiều hơn thể thức đấu thầu
(đấu thầu cơng khai các dự án trên cơ sở cạnh tranh) và minh bạch hơn nữa (chẳng hạn như
cho phép báo chí đưa tin về những sai phạm cũng như thành cơng).

Rất nhiều các biện pháp có thể được sử dụng để kiểm sốt tình trạng tham nhũng và tìm
kiếm đặc lợi (rent seeking)

nhưng các biện pháp quan trọng nhất bao gồm việc giảm đi cơ
hội thực hiện hành vi tham nhũng và tìm kiếm đặc lợi. Nếu cơ hội ít đi thì khi đó có thể kiểm
sốt số lượng mục tiêu hạn chế hơn. Hầu hết các cơ hội để tìm kiếm đặc lợi đều xuất phát từ
nỗ lực của chính phủ trong việc điều tiết nền kinh tế thơng qua việc cấp phép và các thủ tục
tương tự. Khi một doanh nghiệp cần xin phép một viên chức và viên chức này có quyền tùy
tiện (hay tùy ý) cấp hoặc khơng cấp phép thì cơ hội nảy sinh đối với việc chi trả khơng chính
thức và thơng thường việc này bất hợp pháp. Quyền tùy tiện thương lượng thuế hay xác định
chủng loại hàng nhập khẩu chịu thuế cũng tạo ra cơ hội giống như vậy. Danh sách còn dài

nhưng điểm chính ở đây rất đơn giản. Để kiểm sốt hành vi tìm kiếm đặc lợi, chính phủ cần
giảm sự can thiệp mang tính quản lý kiểm sốt của mình tới mức thấp nhất cần thiết để đạt
được những mục tiêu quốc gia quan trọng. Khi cần phải can thiệp về mặt quản lý kiểm sốt
và thuế má thì quyền tùy tiện của các viên chức chính phủ phải giữ ở mức thấp nhất.



rent là lợi nhuận kinh tế vượt mức bình thường, có khi là những khoản lợi đặc biệt, ở đây rent seeking tạm
dịch là tìm kiếm đặc lợi.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

15
Ở Đơng Á, Singapore là một mẫu hình lý tưởng đối với cách thức kiểm sốt tham nhũng.
Hồng Kơng có cùng hiệu quả như vậy trong cơng tác này. Cả hai nước đều cho phép thị
trường chi phối hầu hết các quyết định và đưa ra các ngun tắc, dựa vào luật với sự hỗ trợ
của các tòa án hoạt động độc lập một cách hợp lý, để giám sát việc điều hành còn lại. Hai
nước có các ủy ban chống tham nhũng hoạt động mạnh mà thành cơng của các ủy ban này

một phần là do khả năng tập trung nỗ lực vào một số ít lĩnh vực còn lại mà cơ hội tham
nhũng vẫn còn tồn tại.

Chính sách cơng nghiệp chủ động tích cực đối nghịch với nỗ lực giảm hành vi tìm kiếm
đặc lợi. Các cơng cụ được sử dụng để thực thi những sáng kiến chính sách cơng nghiệp của
chính phủ có liên quan và thậm chí đòi hỏi phải có các loại giấy phép khác nhau, sự kiểm
sốt của chính phủ đối với các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu, và các khoản cho vay với lãi
suất được trợ cấp do chính phủ chỉ đạo. Thơng thường các viên chức tiến hành hình thức can
thiệp này phải được trao cho quyền tùy tiện cao độ. Đơi khi bất cứ ai nộp đơn xin đều có thể
được hưởng các khoản trợ cấp trên cơ sở chính sách cơng nghiệp, tuy nhiên điều này khơng
phải là lúc nào cũng xảy ra.

Từ những gì đã thảo luận bên trên về chính trị và tìm kiếm đặc lợi, Trung Quốc và Việt
Nam có thể rút ra ý nghĩa rất rõ ràng đối với chính sách cơng nghiệp của mình. Ngoại trừ
việc trở lại một cách kỳ diệu với tinh thần cách mạng của những năm 1950 ở Trung Quốc và
những năm 1960 và 1970 ở Việt Nam (và cơ chế giám sát rất chặt chẽ), việc đưa ra quyết
định của chính phủ ở cả hai quốc gia này sẽ bị chính trị ảnh hưởng rất nhiều. Hành vi tìm
kiếm đặc lợi cũng sẽ phổ biến khi cơ hội cho phép. Nếu hai quốc gia nỗ lực đưa vào áp dụng
chính sách cơng nghiệp theo kiểu MITI thì kết quả thường sẽ dẫn đến việc quyết định đầu tư
và các quyết định kinh tế khác thấp hơn mức tối ưu xa. Do vậy, tăng trưởng kinh tế có thể sẽ
sụt giảm và việc tìm kiếm đặc lợi có thể làm xói mòn chính khả năng đáng tin cậy của chính
phủ.

Điều tương tự như vậy cũng đã và đang xảy ra khơng phải vì Trung Quốc và Việt Nam
đưa vào áp dụng mơ hình cơ chế của Hàn Quốc và Nhật Bản mà chính bởi vì nhiều chính
sách can thiệp của cơ chế kế hoạch hóa tập trung trước đây vẫn chưa bị loại bỏ. Mối nguy
hiểm nằm ở chỗ sức hấp dẫn trong cách tiếp cận của Hàn Quốc và Nhật Bản sẽ dẫn đến các
quyết định vốn thật sự làm cho chính sách phát triển cơng nghiệp rơi vào khu vực tranh tối
tranh sáng giữa cơ chế kế hoạch hóa và cơ chế thị trường. Giải pháp thay thế khác là Trung
Quốc và Việt Nam phải loại bỏ hầu hết các thủ tục can thiệp vào sự vận hành của thị trường.


Liệu điều đó có dẫn đến việc Trung Quốc và Việt Nam phải để cho các lực lượng thị
trường định đoạt các quyết định phát triển cơng nghiệp và phải hạn chế vai trò của nhà nước
ở mức cung cấp đường sá, điện năng, và đầu tư vào một ít dự án cơ sở hạ tầng khác vốn theo
truyền thống do nhà nước lo?
8
Dĩ nhiên, các nhà lãnh đạo ở Trung Quốc và Việt Nam khơng
nhìn nhận vấn đề theo cách này. Hướng đi của họ vẫn còn mang tính can thiệp cao nhưng họ
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

16
khơng nói rõ rằng hướng đi như vậy đang hướng đến đâu. Sự háo hức dành cho mơ hình
chính sách cơng nghiệp của Hàn Quốc và Nhật Bản đã giảm đi phần nào và những người chỉ
trích mơ hình này tỏ ra táo bạo hơn do họ cảm nhận được mối liên hệ giữa việc áp dụng mơ
hình này với cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997-98.

Các nhà hoạch định chính sách cơng nghiệp của Việt Nam vẫn còn mắc kẹt ở một mức độ

đáng kể vào các chiến lược thay thế hàng nhập khẩu và vào việc nhà nước tiếp tục chi phối
tất cả ngoại trừ các doanh nghiệp nhỏ nhất và các doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngồi
kiểm sốt hay quản lý. Nhiều nhà đầu tư nước ngồi bắt đầu rút ra khỏi Việt Nam năm 1998
và 1999, một phần do các cuộc khủng hoảng tại đất nước của mình, nhưng một phần cũng do
gặp phải khó khăn khi phải đối phó với tình trạng quan liêu của bộ máy quản lý nhà nước.
Chừng nào tốc độ tăng trưởng của Việt Nam vẫn còn cao – trung bình khoảng 9%/ năm từ
năm 1992 cho tới hết năm 1997 trước khi giảm xuống còn từ 4-5%/ năm vào năm 1998 và
1999 – thì chừng đó vẫn còn chưa thể có sự thay đổi căn bản về cách tiếp cận đối với phát
triển cơng nghiệp. Tuy nhiên, nếu mức tăng trưởng giảm mạnh hay thậm chí nếu vẫn ở mức
như năm 1998 và 1999 thì những tranh cãi về tương lai của chính sách cơng nghiệp sẽ trở
nên sơi nổi hơn.

So với Việt Nam, Trung Quốc đã đi xa hơn trong các cuộc tranh luận của mình đối với vai
trò thích hợp của nhà nước trong cơng nghiệp. Quyết định đẩy mạnh các cuộc đàm phán để
gia nhập WTO là ví dụ tốt nhất cho thấy rằng nhiều nhà lãnh đạo kinh tế Trung Quốc đã nhận
ra nhu cầu cần có bước tiến quyết định để thực hiện những ngun tắc của cơ chế kinh tế
tồn cầu. Tương tự, quyết định của chính phủ trung ương chỉ trực tiếp kiểm sốt 500 doanh
nghiệp nhà nước, hay thậm chí 1000, có thể được xem như việc loại bỏ bớt vai trò trực tiếp
rộng lớn của nhà nước trong sự phát triển cơng nghiệp theo đường lối của Hàn Quốc những
năm 1970. Vai trò can thiệp vào cơng nghiệp trực tiếp từ trung ương hiện vẫn còn ở Trung
Quốc nhằm vào hai mục tiêu hạn chế hơn. Mục tiêu thứ nhất là chọn một ngành cơng nghiệp
nào đó, hay nhiều nhất là vài ngành, và sử dụng sự hỗ trợ của nhà nước để làm cho ngành
cơng nghiệp đó đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Còn mục tiêu thứ hai là cho
các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ thêm thời gian để một là có khả năng sinh lợi
trở lại, hai là phá sản nhưng phải bảo đảm khơng gây xáo trộn về mặt chính trị. Vấn đề các
doanh nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ sẽ được xem xét ở phần tiếp theo của chương này.

Nỗ lực của chính phủ Trung Quốc trong việc phát triển một hoặc vài ngành cơng nghiệp
then chốt có thể được xem như là chiến lược ngành cơng nghiệp non trẻ, mặc dù một số
doanh nghiệp loại này đã tồn tại trong nhiều thập kỷ. Hay chúng ta có thể coi nỗ lực đó là

phiên bản hẹp hơn của cơ chế hoạch định chiến lược theo kiểu MITI. Những năm 1990, hầu
hết sự chú ý đều đổ dồn vào ngành sản xuất xe hơi. Mỗi năm sản xuất ra hơn 1 triệu chiếc đủ
loại, Trung Quốc có một thị trường đủ lớn để đạt được lợi thế kinh tế nhờ quy mơ và thị
trường đó ngày càng phát triển mạnh mẽ. Rất nhiều doanh nghiệp trong số hàng trăm doanh
nghiệp của Trung Quốc trong ngành này có quy mơ nhỏ và lạc hậu và thậm chí một số ít
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

17
doanh nghiệp lớn phải vật lộn với chi phí cao và thường liên doanh với các cơng ty Đức,
Nhật Bản và Mỹ. Các cơng ty xe hơi của Hàn Quốc và Nhật Bản phải mất hơn một thập kỷ
mới có đủ khả năng cạnh tranh quốc tế và cơng ty Proton của Malaysia hiện vẫn chưa đủ khả
năng cạnh tranh quốc tế sau hơn một thập kỷ kể từ khi khởi động. Do đó, ngành cơng nghiệp
xe hơi của Trung Quốc có thể cần phải có sự hỗ trợ của nhà nước trong tương lai. Vì vậy,
thật là điều đáng ghi nhận khi Trung Quốc tiến hành và ký kết hiệp định thương mại với Mỹ
mặc dù hiệp định đưa ra thời gian biểu để mở cửa tương đối nhanh thị trường xe hơi Trung
Quốc. Các hiệp định thương mại chính thức trên giấy tờ và q trình thực thi thực sự trong
thực tế dĩ nhiên là hai chuyện hồn tồn khác nhau và các nhà thương thuyết thương mại

Trung Quốc khơng phải lúc nào cũng dễ dàng làm cho các cơ quan có thẩm quyền tại địa
phương tn thủ những gì họ đã ký kết. Dẫu vậy, chẳng có mấy ai nghi ngờ thực tế là nỗ lực
thúc đẩy gia nhập WTO cho thấy rằng nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc nhận ra nhu cầu phát
triển các ngành cơng nghiệp chiến lược của mình theo cách thức phù hợp với những ngun
tắc của hệ thống thương mại mở, đúng như quy định trong các hiệp định quốc tế chi phối cơ
chế tồn cầu.

Có nhiều lý do có sức thuyết phục lý giải tại sao Trung Quốc vẫn còn chịu nhiều áp lực
buộc tiến đến nền kinh tế thị trường hồn tồn với việc chính phủ giảm mạnh sự can thiệp
của mình trong việc phát triển khu vực cơng nghiệp. Khu vực này q lớn và bao gồm q
nhiều (hàng ngàn) doanh nghiệp, đến nỗi Bắc Kinh khơng thể kiểm sốt một cách có hiệu
quả. Có q nhiều yếu tố chính trị và tìm kiếm đặc lợi trong q trình ra quyết định kinh tế
của Trung Quốc đến nỗi khơng thể đưa ra các quyết định phát triển cơng nghiệp chủ yếu dựa
trên các tiêu chuẩn kinh tế và kỹ thuật thích hợp. Và các ngun tắc của hệ thống thương
mại thế giới – các ngun tắc mà Trung Quốc phải dựa vào đó để tiếp tục phát triển hàng
xuất khẩu của mình – rõ ràng mâu thuẫn với chính sách trọng thương tương tự như các chính
sách mà các nước khác ở Đơng Á trước đây áp dụng.

Có phải những lý do thuyết phục nêu trên có nghĩa rằng Trung Quốc sẽ từ bỏ nỗ lực duy
trì chính sách cơng nghiệp chủ động tích cực theo mơ hình Hàn Quốc và Nhật Bản hay theo
một mơ hình nào khác? Dẫu cho đối với một quan sát viên là nhà kinh tế bên ngồi Trung
Quốc, các lập luận trên có sức thuyết phục đến đâu đi nữa thì cũng sẽ phải mất một thời gian
dài trước khi những lập luận như vậy được chấp nhập hồn tồn ở Trung Quốc, đặc biệt ở
cấp địa phương, nơi mà phần lớn các quyết định liên quan đến việc thực thi những ngun
tắc tồn cầu sẽ diễn ra. Nhiều nhà lãnh đạo Trung Quốc hiện nay đã có kinh nghiệm trong bộ
máy kế hoạch hóa tập trung. Hơn nữa, Trung Quốc đã có hàng thế kỷ cai trị với bộ máy
hành chính tập trung. Thái độ và cách làm việc đã ăn sâu như thế khơng thể biến mất một
sớm một chiều được. Nhưng các yếu tố truyền thống khơng quyết định tất cả. Khi truyền
thống và kinh nghiệm cá nhân mâu thuẫn với những đòi hỏi của tình hình hiện tại thì thơng
thường truyền thống và kinh nghiệm phải nhường bước. Q trình này phải mất nhiều thời

gian, trước hết phải hiểu được bản chất của vấn đề khó khăn rồi sau đó tiến hành những thay
đổi cần thiết để loại bỏ vấn đề khó khăn đó.
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

18

Nhiều trong số các lập luận như thế này cũng áp dụng đối với Việt Nam. Sự khác biệt
nằm ở chỗ Việt Nam chưa cam kết đi theo chiến lược xuất khẩu dựa vào hàng cơng nghiệp
chế tạo và vẫn tiếp tục phụ thuộc nhiều vào con đường cơng nghiệp hóa thay thế nhập khẩu.
Khu vực cơng nghiệp và số xí nghiệp cơng nghiệp của Việt Nam cũng nhỏ hơn nhiều so với
Trung Quốc, do đó chính sách kiểm sốt của Hà Nội khơng hẳn là khơng thể thực hiện được
một cách rõ ràng giống như trường hợp của Trung Quốc. Việt Nam ban đầu từ chối ký kết
hiệp định thương mại với Mỹ, một hiệp định mà chính các viên chức Việt Nam đã thương
lượng, là một bằng chứng rõ ràng cho thấy sự lưỡng lự của nhiều viên chức, thậm chí trong
ban lãnh đạo cấp cao, khơng muốn chấp nhận loại chính sách cơng nghiệp rất có khả năng là
loại chính sách thích hợp nhất cho quốc gia.


Con đường dẫn đến cải cách doanh nghiệp nhà nước

Cho đến lúc này, bài viết tập trung thảo luận về vai trò của chính sách cơng nghiệp của chính
phủ trong việc định hình sự phát triển các doanh nghiệp cơng nghiệp ở Trung Quốc và Việt
Nam. Những người đưa ra quyết định về cách thức tổ chức các doanh nghiệp này phải đối
mặt với những sự lựa chọn nào?

Hầu hết các vấn đề ở đây liên quan đến việc Trung Quốc và Việt Nam nên tiến hành hồn
tất q trình cải cách doanh nghiệp nhà nước như thế nào. Dĩ nhiên, có nhiều vấn đề trong
lĩnh vực này khơng liên quan đến vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước. Chẳng hạn,
câu hỏi liệu các TVE có phải là làn sóng cơng nghiệp trong tương lai của Trung Quốc hay
khơng và nếu có thì chúng sẽ phải thay đổi như thế nào để vẫn có tính cạnh tranh. Vấn đề
này, cũng giống như nhiều vấn đề khác, có thể được xác định trước hết bởi các lực lượng thị
trường và sau đó mới được xác định bởi những ngun tắc do Bắc Kinh định ra. Các TVE
Trung Quốc cũng là chủ đề thảo luận trong chương 7 của Lin và Yao, trong tài liệu này.
9

Tuy nhiên vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước khơng phải là vấn đề chỉ cần để cho
các lực lượng thị trường giải quyết là có ngay giải pháp. Nói cách khác, một mình các lực
lượng thị trường chỉ có thể “giải quyết” vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước nếu các
chính phủ Việt Nam và Trung Quốc cho phép các lực lượng thị trường làm điều này, nhưng
cả hai chính phủ khơng sẵn lòng cho phép thị trường tự do áp đặt giải pháp, vì nhiều lý do
chính trị hoặc xã hội, trong số nhiều lý do khác.

Có nhiều góc độ để xem xét vấn đề khó khăn của doanh nghiệp nhà nước. Trong nhiều
năm Trung Quốc và Việt Nam nhìn nhận vấn đề này dưới góc độ là trao cho các doanh
nghiệp này sự tự chủ hạn chế. Phần thưởng dựa trên thành tích hoạt động của các đơn vị,
hàng hóa sản xuất vượt mức chỉ tiêu chính phủ giao có thể đem bán với giá cao hơn trên thị
trường, và có thể mua các nhập lượng trên thị trường nếu hệ thống phân bổ của nhà nước
khơng có các nhập lượng này. Khi hệ thống phân bổ của nhà nước dần dần khơng còn nữa

thì chính phủ đưa vào áp dụng cái gọi là “cơ chế trách nhiệm doanh nghiệp”, rập khn một
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

19
cách mơ hồ theo mơ hình cơ chế trách nhiệm hộ gia đình đã tỏ ra thành cơng trong nơng
nghiệp. Nhưng mức độ tự chủ dành cho các doanh nghiệp nhà nước ln ít hơn so với mức
độ mà các hộ gia đình nơng thơn được hưởng. Trong những khía cạnh quan trọng có tính
quyết định, các doanh nghiệp nhà nước vẫn là tiểu đơn vị trong trong bộ máy quản lý của
chính quyền cấp trung ương hay cấp tỉnh có trách nhiệm giám sát chúng.

Một số nhà kinh tế phản bác ý kiến cho rằng các doanh nghiệp nhà nước có thể hoạt động
hiệu quả nhưng thực sự có một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả cao tại Châu
Á. POSCO, cơng ty sản xuất thép khổng lồ của Hàn Quốc đã được đề cập ở phần trên.
Singapore đã thành lập nhiều doanh nghiệp nhà nước thành cơng, và những doanh nghiệp
này có tổng doanh số bán đến 9,2 tỉ US$ và lợi nhuận là 2,1 tỉ US$ năm 1990 (Goh 1992).
Hãng hàng khơng Singapore Airlines – một trong số những hãng hàng khơng tốt nhất trên thế
giới – là một doanh nghiệp nhà nước. Phần lớn ngành cơng nghiệp nặng của tỉnh Đài Loan

trong các lĩnh vực từ hóa dầu cho đến sắt thép trước đây đều do các doanh nghiệp nhà nước
đóng vai trò chủ đạo, và nhiều doanh nghiệp trong số này vẫn chưa được tư nhân hóa.
Những doanh nghiệp nhà nước này hướng chủ yếu vào thị trường nội địa và khơng phải là
nguồn gốc cho thành quả xuất khẩu năng động của Đài Loan nhưng chúng cũng khơng làm
trì trệ nhiều lắm đối với khả năng xuất khẩu của Đài Loan.

Cần phải có các điều kiện nghiêm ngặt để đi đến thành cơng đối với doanh nghiệp nhà
nước ở những nơi khác của Châu Á. Tất cả những doanh nghiệp này đều được hưởng một
mức độ tự chủ cao. Thành tích hoạt động của ban giám đốc được đánh giá chủ yếu hay thậm
chí duy nhất dựa vào khả năng tạo ra lợi nhuận lâu dài cho doanh nghiệp. Ở đây hầu như
khơng có tình trạng đa mục tiêu – các doanh nghiệp nhà nước ở những nơi khác trên thế giới
thường được áp đặt nhiều mục tiêu. Quyền tự chủ và định hướng lợi nhuận thường khó đạt
được. POSCO được điều hành bởi một cá nhân mà về phương diện chính trị có nhiều ảnh
hưởng hơn so với hầu hết các vị bộ trưởng đương thời. Singapore có khả năng tách rời hồn
tồn các doanh nghiệp nói trên khỏi các yếu tố chính trị địa phương.

Trung Quốc và Việt Nam phải làm gì để cho các doanh nghiệp nhà nước quy mơ lớn
thành cơng và liệu những điều cần phải làm có khả thi trong bối cảnh Trung Quốc và Việt
Nam hay khơng?
10
Khơng có gì là bí mật đối với việc cần phải làm gì. Các doanh nghiệp
nhà nước phải được trao cho quyền tự chủ hồn tồn và chủ yếu đáp ứng đối với các lực
lượng thị trường mà thơi. Những bước đi cần thiết để đạt được mục đích đó đã được thảo
luận rất nhiều tại Trung Quốc và ít hơn một chút tại Việt Nam. Sau đây là những vấn đề
chính yếu.

Trước hết, các doanh nghiệp nhà nước phải tự đứng trên đơi chân của mình về mặt tài
chính và đối mặt với hạn chế ngân sách cứng. Tiền vay phải được hồn trả theo lãi suất thị
trường, mà nếu khơng làm được như vậy sẽ dẫn đến phá sản. Thuế phải dựa trên các luật lệ
và thuế suất cố định và khơng phụ thuộc vào sự thương lượng giữa doanh nghiệp và người

Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

20
thu thuế. Các nhập lượng phải được mua theo giá thị trường. Sản lượng cần phải được bán
trên thị trường có tính cạnh tranh mà việc gia nhập thị trường dễ dàng khi những đòi hỏi về
quy mơ và tài chính cho phép. Trung Quốc và Việt Nam đã làm được rất nhiều trong việc
bảo đảm doanh nghiệp nhà nước bán và mua trên thị trường cạnh tranh. Điều tỏ ra khó khăn
hơn cả là phải làm cho hạn chế ngân sách mềm trở nên cứng hơn. Luật phá sản được Trung
Quốc thơng qua vào nửa cuối thập kỷ 1980 nhưng mãi cho đến cuối thập kỷ 1990 mới được
áp dụng một cách mạnh mẽ. Nằm trong chiến dịch kiểm sốt lạm phát, chính phủ đã thực sự
làm cho doanh nghiệp nhà nước khó nhận được tín dụng từ hệ thống ngân hàng hơn, nhưng
các doanh nghiệp lại bắt các nhà cung cấp của họ cấp tín dụng cho họ. Do khơng muốn buộc
các doanh nghiệp này lâm vào tình cảnh phá sản, các khoản phải thu trên sổ sách kế tốn của
doanh nghiệp bắt đầu chồng chất. Việt Nam đã đóng cửa nhiều doanh nghiệp nhà nước địa
phương trong nỗ lực nhằm kiểm sốt lạm phát vào đầu những năm 1990 nhưng sau đó nỗ lực
áp dụng hạn chế ngân sách cứng bị ngưng trệ. Nhiều doanh nghiệp nhà nước Việt Nam có
lợi nhuận chỉ vì họ hoạt động đằng sau bức tường bảo hộ cao vời vợi tránh khỏi hàng nhập

khẩu và bức tường bảo hộ cũng cao như thế tránh khỏi khu vực tư nhân vốn khơng được cấp
giấy phép cần có để hoạt động trong những lĩnh vực mà các doanh nghiệp nhà nước đang
tham gia mạnh mẽ.

Thứ hai, ban giám đốc của các doanh nghiệp nhà nước phải được chọn bởi những người
mà mối quan tâm chủ yếu hoặc duy nhất là khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Trái lại tại
Trung Quốc và Việt Nam, các nhà quản lý thường do các cán bộ cao cấp của đảng hay chính
phủ chọn. Những người này áp dụng nhiều tiêu chí để chọn lựa mà chỉ có một trong số các
tiêu chí đó là lợi nhuận. Một giải pháp cho vấn đề này có thể là tư nhân hóa doanh nghiệp
nhà nước và cuối cùng đó có thể là giải pháp được lựa chọn. Tuy nhiên, về mặt chính thức,
cả hai nước bác bỏ việc tư nhân hóa hồn tồn. Trái lại, Trung Quốc quyết định gỡ bỏ trách
nhiệm của chính quyền trung ương đối với số phận của tất cả các doanh nghiệp nhà nước trừ
500 trong số 2000 doanh nghiệp nhà nước, điều này thực chất là cho phép tư nhân hóa rộng
khắp dưới một hình thức nào đó. TVE cũng được hưởng hầu hết các quyền sở hữu tài sản
mà các doanh nghiệp tư nhân được hưởng mặc dù người chủ thực hiện những quyền này là
thị trấn hay làng xã. Việt Nam chưa quyết định tư nhân hóa tất cả các doanh nghiệp nhà
nước của mình trừ một số doanh nghiệp lớn.

Cả Trung Quốc và Việt Nam đã thử nghiệm cơ chế cổ phần hóa hay cơng ty hóa khác với
tư nhân hóa. Tại Việt Nam, tính cho đến 1998, chỉ có một tá doanh nghiệp nhà nước được cổ
phần hóa trong khi con số đó ở Trung Quốc lên đến nhiều ngàn. Cổ phần hóa có thể trở
thành cơng cụ để tạo ra các hội đồng quản trị mà hội đồng này có thể bảo đảm các nhà quản
lý xí nghiệp chủ yếu chú trọng vào kiếm lợi nhuận chứ khơng phải là làm hài lòng cấp trên
của họ trong chính phủ hay trong đảng. Các cổ đơng khơng nhất thiết phải là các cá nhân
hay tổ chức. Các doanh nghiệp nhà nước hay các định chế khác như quỹ hưu bổng cơng
cộng có thể là thành viên quan tâm đến lợi nhuận trong hội đồng quản trị cơng ty. Tại Việt
Nam, về mặt ngun tắc, hội đồng quản trị có quyền th hoặc đuổi việc các giám đốc và đó
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển

Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

21
là một lý do tại sao giám đốc các doanh nghiệp nhà nước của Việt Nam chần chừ như vậy
trong việc cơng ty hóa. Trung Quốc khơng gặp vấn đề như vậy bởi vì chính phủ giữ lại
quyền kiểm sốt đa số và quyền th mướn và đuổi việc ban giám đốc. Cổ phần hóa, dưới
hình thức hiện nay ở Trung Quốc, thực ra chỉ là hình thức huy động vốn.

Thứ ba, nếu muốn thành cơng trong việc tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước một cách
căn bản thì chi phí về mặt chính trị của việc tái cơ cấu như thế phải được giữ ở mức chấp
nhận được. Một loại chi phí chính trị là mất quyền lực và quyền kiểm sốt của bộ máy nhà
nước và Đảng Cộng sản. Có thể thấy rằng bộ máy nhà nước và đảng sẽ xác định rằng việc từ
bỏ quyền kiểm sốt là một cái giá q đắt, nhưng trước đây cả hai nước cũng đã từ bỏ đáng
kể quyền lực. Q trình phi tập thể hóa trong nơng nghiệp ở Trung Quốc và Việt Nam là một
ví dụ sinh động nhất của việc từ bỏ quyền kiểm sốt. Đảng và nhà nước cũng từ bỏ nhiều
quyền lực của mình khi họ chuyển từ một cơ chế quản lý hành chính nhằm phân bổ các nhập
lượng chủ chốt sang cơ chế thị trường và còn có nhiều ví dụ khác. Do vậy khơng có lý do gì
để tin rằng việc cắt dây rốn gắn kết giữa các doanh nghiệp nhà nước với chính phủ và Đảng
Cộng sản sẽ gặp phải sự chống đối bằng bất cứ giá nào do lo sợ mất quyền kiểm sốt.


Tuy nhiên, các chi phí xã hội và chính trị khác cũng có liên quan đến việc cải cách các
doanh nghiệp nhà nước. Một chi phí làm cho các nhà lãnh đạo Trung Quốc lo lắng nhất là
khả năng phá sản sẽ dẫn đến thất nghiệp hàng loạt và bất ổn xã hội. Hàng triệu cơng nhân đã
bị cho nghỉ việc từ năm 1997 cho đến hết năm 1999 và một số bất ổn nhất định đã xảy ra. Hệ
thống bảo hiểm thất nghiệp tồn tại nhưng phạm vi của nó chưa bao phủ tồn quốc. Việt Nam
khơng gặp phải vấn đề tương tự một phần là do chính phủ, ngay khi kiểm sốt được lạm phát,
đã chấm dứt q trình giảm biên chế các doanh nghiệp nhà nước. Ngồi ra lao động trong
khu vực quốc doanh ở Việt Nam chỉ có 700.000 cơng nhân so với 42,8 triệu cơng nhân trong
các xí nghiệp cơng nghiệp nhà nước ở Trung Quốc.

Các vấn đề chính trị của việc cải cách doanh nghiệp nhà nước ở Trung Quốc trở nên trầm
trọng hơn do những doanh nghiệp này cấp hầu hết nhà cửa, lương hưu và tất cả bảo hiểm y tế
cho nhân viên của mình. Các khoản nợ lương hưu q lớn là một lý do tại sao có q nhiều
doanh nghiệp nhà nước đang thua lỗ. Bảo hiểm y tế dành cho cơng nhân viên trong các
doanh nghiệp nhà nước cũng nhiều hơn so với bất kỳ người nào khác ở Trung Quốc. Phá sản
doanh nghiệp có nguy cơ đe dọa sức khỏe, lương hưu và nhà cửa của những cơng nhân viên
này. Nhiều cuộc thử nghiệm với ý định hướng đến hệ thống quốc gia về lương hưu và y tế
đã được tiến hành tại Trung Quốc trong nhiều năm. Việc trợ cấp nhà cửa cũng dần dần được
loại bỏ thơng qua q trình tư nhân hóa hoặc bằng cách tính tiền th theo giá thị trường đối
với bất động sản nhà nước. Nhưng q trình này ở Trung Quốc diễn ra chậm chạp và khó
khăn.

Bất kể các vấn đề chính trị xung quanh nỗ lực của Trung Quốc nhằm thay thế hệ thống
dựa vào doanh nghiệp bằng hệ thống quỹ hưu bổng và phúc lợi quốc gia, các vấn đề đó đều
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới

hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?





Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

22
nhỏ so với các hệ thống phúc lợi quốc gia rất hào phóng tại các nước Đơng Âu. Chẳng hạn,
năm 1996, bảo hiểm xã hội và quỹ phúc lợi dành cho tất cả những người hưu trí ở khu vực
nhà nước Trung Quốc, khơng chỉ trong ngành cơng nghiệp, tổng cộng là 2,2% GDP.

Hai vấn đề khác cũng cần ghi nhận liên quan đến tổ chức và quyền sở hữu doanh nghiệp
cơng nghiệp tại Trung Quốc và Việt Nam. Trước tiên, Trung Quốc và, với mức độ thấp hơn,
cả Việt Nam đã mở cửa hơn nhiều đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi so với Nhật Bản, Hàn
Quốc và tỉnh Đài Loan trước đây. FDI khởi đầu ở mức rất khiêm tốn đầu những năm 1980 ở
Trung Quốc nhưng đạt mức trung bình khoảng 40 tỉ US$ vào cuối những 1990. FDI là một
bộ phận quan trọng và khơng thể thiếu trong chiến lược phát triển cơng nghiệp của Trung
Quốc.
11
Các doanh nghiệp FDI chiếm tỉ trọng lớn trong mức gia tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu và những doanh nghiệp này cũng đóng vai trò trung tâm trong q trình cải cách tổ
chức cơng nghiệp, cơng nghệ và quản lý trong các ngành then chốt như xe hơi. Các liên
doanh với doanh nghiệp nhà nước lẫn tư nhân đã đưa ra các tiêu chuẩn chất lượng nhanh
chóng phổ biến trong tồn bộ khu vực cơng nghiệp của Trung Quốc. Hệ thống pháp lý dần
dần được cải thiện. Sự tiến bộ này phần nhiều cũng do nhu cầu tạo một khung pháp lý tốt
hơn cho các nhà đầu tư nước ngồi.


Sự hỗ trợ của Việt Nam đối với FDI có phần hạn chế hơn so với Trung Quốc, một phần là
do Việt Nam chưa quyết định được cách làm thế nào để đối xử với các doanh nghiệp tư nhân
một cách tổng qt hơn. Bất chấp các vấn đề khó khăn mà nhà đầu tư nước ngồi gặp phải
tại Việt Nam – các vấn đề dẫn đến việc FDI sụt giảm năm 1998 và 1999 – chúng ta có thể nói
rằng các nhà đầu tư nước ngồi vẫn còn được đối xử tốt hơn so với các doanh nghiệp tư nhân
trong nước. Khu vực sản xuất hàng cơng nghiệp chế tạo xuất khẩu của Việt Nam, dù nhỏ,
nhưng hồn tồn phụ thuộc vào FDI.

Cả Trung Quốc lẫn Việt Nam đều khơng dựa nhiều vào FDI để phát triển như Singapore
và Hồng Kơng, và cả hai nước cũng sẽ khơng, cho dù họ phải làm như vậy, dành cho các
doanh nghiệp nước ngồi sự đối xử quốc gia một cách rộng rãi trong tất cả các lĩnh vực. Đơn
giản là khơng có đủ FDI trên thế giới để mang lại cho một quốc gia có 1,2 tỉ người những gì
mà FDI đã mang lại cho một quốc gia có 2,8 triệu người hay cho một lãnh thổ có 5,8 triệu
người. Hồng Kơng là một phần của Trung Quốc và cơ chế kinh tế Hồng Kơng có ảnh hưởng
lớn đến cách thức điều hành kinh doanh tại tỉnh láng giềng Quảng Đơng và các tỉnh khác.

Mặc dù Trung Quốc và Việt Nam khơng đi theo cách tiếp cận của Nhật Bản và Hàn Quốc
đối với đầu tư trực tiếp nước ngồi nhưng nhiều người ở Trung Quốc và Việt Nam vẫn còn say
mê các tập đồn lớn của Nhật Bản và Hàn Quốc (chaebol ở Hàn Quốc và keiretsu ở Nhật Bản).
Do đó, chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đã bắt đầu tiến hành thành lập các tập đồn lớn cho
riêng mình. Thường thì điều này bao gồm nhập một số doanh nghiệp lại với nhau thành một
đơn vị lớn. Trong một số trường hợp, các cơ quan nhà nước có quan hệ với những doanh
nghiệp này cũng được gộp chung trong các tập đồn mới. Người ta tin rằng những đơn vị có
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?






Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

23
quy mơ lớn hơn này sẽ có khả năng cạnh tranh quốc tế cũng như nội địa hơn. Mọi người hy
vọng rằng thương hiệu của chúng một ngày nào đó có thể nổi tiếng giống như Hitachi và
Samsung.

Phương cách thành lập các tập đồn này có các vấn đề nghiêm trọng. Khi được áp dụng
tại Việt Nam, dường như phương pháp do chính phủ chỉ đạo này thường chẳng khác gì việc
đóng gói lại những sự sắp đặt hiện hữu. Chẳng hạn, ở Việt Nam, các doanh nghiệp trực
thuộc đơn vị mới và lớn hơn, trước đây làm việc với nhau rất chặt chẽ dưới sự giám sát của
cơ quan cơng nghiệp có liên quan. Cách sắp đặt mới này chẳng qua là chính thức hóa những
mối quan hệ này; nó khơng nhất thiết làm thay đổi hành vi. Nếu khơng có sự thay đổi hành
vi trong kinh doanh thì khó có thể thấy được các đơn vị mới thành lập có quy mơ lớn này sẽ
đóng góp được gì vào khả năng cạnh tranh quốc tế của Việt Nam.

Ban đầu có lý do để tin rằng việc Trung Quốc say mê chaebol Hàn Quốc cũng có thể dẫn
đến việc tổ chức lại theo sự chỉ đạo của chính phủ. Q trình tổ chức lại này có thể khiến
cho bộ máy hoạch định nhà nước phần nhiều khơng bị ảnh hưởng và vẫn nắm quyền kiểm
sốt. Nhưng sự rộng lớn của Trung Quốc, bản chất phi tập trung hóa trong q nhiều quyết
định kinh tế đến thế và chính tính đa dạng trong hình thức sở hữu của doanh nghiệp, tất cả đã
dẫn đến nhiều trường hợp sáp nhập hoặc mua lại hay nắm quyền kiểm sốt thường được thúc
đẩy mạnh bởi lợi ích của các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp cụ thể. Hiện nay,
dường như tuyệt đại đa số các doanh nghiệp lớn là một bộ phận của jituan (tập đồn) này hay

tập đồn khác nhưng có q nhiều ngàn jituan đến mức chúng khơng hề giống tí nào với
chaebol của Hàn Quốc hay keiretsu của Nhật Bản; và chúng cũng khơng phải là bộ máy
hoạch định chính sách của Trung Quốc giả dạng. Do đó q trình sáp nhập hay mua lại hay
nắm quyền kiểm sốt đã bắt đầu tiếp nhận một số đặc tính của các q trình tương tự trong
các nền kinh tế thị trường mặc dù vai trò của chính phủ vẫn còn rất lớn.

Việc có các tập đồn lớn trong bối cảnh của Trung Quốc hay Việt Nam thì khơng nhất
thiết có gì sai cả. Cơ cấu doanh nghiệp nhà nước hiện hữu là sản phẩm của cơ chế kế hoạch
hóa tập trung trước đây và trong nhiều trường hợp có lẽ khơng hợp lý mấy theo cơ chế thị
trường hiện nay. Vấn đề là có phải các viên chức chính phủ là những người thích hợp để
quyết định việc thành lập một tập đồn nào đó khơng hay quyết định thành lập đó nên để cho
lực lượng thị trường. Nhưng nếu q trình này để cho lực lượng thị trường thì liệu các doanh
nghiệp nhà nước có đủ khả năng thực hiện các bước đi cần thiết để sáp nhập với các doanh
nghiệp khác? Giải đáp phần nào cho câu hỏi này trong trường hợp của Trung Quốc là các
doanh nghiệp lớn quốc doanh và ngồi quốc doanh thực sự đang trong q trình sáp nhập và
mua lại hoặc nắm quyền kiểm sốt. Tuy nhiên nếu muốn q trình này diễn tiến sn sẻ và
hiệu quả thì chính phủ sẽ phải đưa ra các ngun tắc theo đó một doanh nghiệp có thể sáp
nhập hoặc mua lại hay nắm quyền kiểm sốt một doanh nghiệp khác. Cho đến cuối những
1990, chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đóng vai trò người ra quyết định tùy tiện chứ
khơng phải là người tạo ra luật chơi. Tuy nhiên nếu chính phủ thật sự chủ yếu đóng vai trò
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

Kinh tế phát triển
Bài đọc
Chính sách công nghiệp và tài chính ở
Trung quốc và Việt nam: mô hình mới
hay chỉ là sự lặp lại kinh nghiệm của đông á?






Dwight H. Perkins Biên Dòch: Hoàng Phương
Hiệu Đính: Xinh Xinh

24
người kiến tạo luật chơi và các doanh nghiệp, cả nhà nước và tư nhân, được điều hành bởi
các nhà quản lý có năng lực hướng đến lợi nhuận, thì các tập đồn mới được thành lập ra có
thể có hiệu quả hơn là những tập đồn do các viên chức chính phủ sắp đặt trực tiếp.

Cơ cấu sở hữu và tổ chức cơng nghiệp của Trung Quốc vẫn đang phát triển. Điều này
cũng đúng đối với Việt Nam mặc dù nước này mới bắt đầu bước vào lộ trình tái cơ cấu. Cả
hai nước đều khơng có khả năng trở thành bản sao của bất kỳ nền kinh tế cơng nghiệp Châu
Á nào khác. Về sở hữu nước ngồi, Trung Quốc và Việt Nam sẽ nằm ở giữa một khoảng
biến thiên mà một đầu là Nhật Bản và Hàn Quốc và đầu kia là Singapore. Cả Trung Quốc và
Việt Nam có thể phụ thuộc nhiều hơn vào hình thức sở hữu nhà nước của các doanh nghiệp
cơng nghiệp so với các nước Châu Á khác nhưng khơng phụ thuộc nhiều hơn mức độ của
Hàn Quốc và Singapore trong thời kỳ đầu. Dạng chi phối của các doanh nghiệp cơng nghiệp
sẽ ứng xử giống như các doanh nghiệp sở hữu tư nhân cho dù hình thức sở hữu danh nghĩa là
gì đi chăng nữa.

Hai vấn đề liên quan xoay quanh quy mơ của các doanh nghiệp cơng nghiệp tại hai quốc
gia này và mức độ tập trung trong các khu vực cơng nghiệp khác nhau. Với diện tích cực lớn
của mình, có lẽ Trung Quốc khơng tránh được việc mức độ tập trung ở một số khu vực cơng
nghiệp cụ thể sẽ ít hơn đáng kể so với một nước có diện tích nhỏ hơn rất nhiều và ở cùng giai
đoạn phát triển. Với thu nhập bình qn đầu người là 2.000US$ tính theo ngang giá sức
mua, Trung Quốc sản xuất 124 triệu tấn thép năm 1999, đủ cho phép Trung Quốc có sáu nhà
máy mỗi nhà máy cơng suất 20 triệu tấn nếu khơng tính đến xuất khẩu. So với con số này,
Trung Quốc có số lượng xí nghiệp thép lớn hơn hẳn, nhưng nhiều xí nghiệp trong số này nhỏ.
Thị trường nội địa của Hàn Quốc ở cùng giai đoạn phát triển chỉ có thể đủ cho một nhà máy

cơng suất từ 2 đến 4 tấn mà thơi.

Tuy vậy, dường như cơ cấu tổ chức cơng nghiệp của Trung Quốc ít tập trung hơn so với
diện tích cho phép của mình. Trung Quốc khơng phải là vùng đất của các tập đồn khổng lồ
theo mơ hình của Hàn Quốc và cũng khơng phải vùng đất của các tập đồn được sự hỗ trợ
của hàng ngàn doanh nghiệp cung ứng nhỏ phụ thuộc giống như của Nhật Bản. Cùng với
hàng chục ngàn hợp tác xã và các xí nghiệp tư nhân ở đơ thị, đó là chưa kể đến hàng ngàn
liên doanh nhỏ với các doanh nghiệp Hồng Kơng và Đài Loan, sự bùng nổ của TVE đã làm
thay đổi cơ cấu cơng nghiệp Trung Quốc có lẽ trong một thời gian rất dài. Nếu trước đây
Trung Quốc tiếp tục phát triển cơng nghiệp theo lối Stalin của những năm 1950 với việc nhấn
mạnh vào các ngành cơng nghiệp nặng ở Đơng Bắc thì Trung Quốc giờ đây có thể có một cơ
cấu tổ chức rất khác. Thay vào đó, Trung Quốc chủ động vạch ra con đường phát triển riêng,
dựa nhiều hơn hẳn vào các nhà sản xuất chế tạo quy mơ nhỏ rải rác ở khắp đất nước.
Chương trình cơng nghiệp hóa quy mơ nhỏ này khởi đầu một cách thảm hại với chương trình
sắt thép “sân sau” nhưng đã tiến hành nhiều điều chỉnh lớn và những xí nghiệp nhỏ này đã
phục vụ Trung Quốc rất tốt trong vòng hai hay ba thập kỷ qua. Kinh nghiệm của Trung
Quốc khơng giống hồn tồn với bất kỳ quốc gia nào khác ở Châu Á. Trường hợp gần giống

×