Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Kinh tế thị trường và vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.57 KB, 59 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đạo đức là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, của ý thức xã hội,
một mặt bị quy định bởi cở sở hạ tầng, tồn tại xã hội; mặt khác nó cũng có tính
độc lập tương đối và tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, tồn tại xã hội. Khi cơ
sở hạ tầng thay đổi, nền tảng kinh tế thay đổi, đạo đức xã hội cũng phải thay đổi
theo cho phù hợp và tác động tích cực thúc đẩy phát triển kinh tế. Kinh tế thị
trường với những đặc trưng riêng của nó đã tác động mạnh mẽ đến đạo đức xã
hội và ngược lại, để phát triển nền kinh tế thị trường rất cần xây dựng củng cố,
phát triển những chuẩn mực đạo đức truyền thống trên cơ sở mới và bổ sung
những chuẩn mực đạo đức phù hợp. Trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động
theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cùng với
những nỗ lực đầu tư huy động vốn, tri thức, một yếu tố không kém phần quan
trọng thúc đẩy kinh tế phát triển là vấn đề đạo đức. Đặc biệt là vấn đề xây dựng
đạo đức của thanh niên, bởi thanh niên là lực lượng xã hội to lớn, nguồn lực
mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của xã hội, là người chủ của đất nước quyết
định sự thành bại của công cuộc phát triển kinh tế đất nước hiện tại và tương lai.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò của thanh niên Đảng ta khẳng định: Sự nghiệp của
đất nước ta thành công hay không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí
xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không chủ yếu là do lực lượng thanh
niên ngày nay quyết định. Tương lai của dân tộc Việt Nam, sự phát triển của đất
nước tuỳ thuộc vào việc bồi dưỡng rèn luyện thế hệ thanh niên [17;7].
Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực, thì sự tác động mạnh
mẽ từ mặt trái của cơ chế thị trường cũng đã làm nảy sinh lối sống ích kỷ, vụ
lợi, huỷ hoại những nét đẹp văn hoá truyền thống và những giá trị đạo đức. Như
Nghị quyết 25-NQ/TW, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương (khóa
X) đã đánh giá: “ Một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm
tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống
thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa của dân tộc… tình trạng tội phạm và tệ
nạn xã hội trong thanh niên đang gia tăng và diễn biến ngày càng phức tạp.”


[6;21]
Với vai trò đặc biệt quan trọng của thanh niên, nếu để tình trạng suy
thoái đạo đức của thanh niên kéo dài và trở thành hiện tượng phổ biến trong xã
hội sẽ dẫn đến hậu quả khôn lường. Do vậy, việc giáo dục đạo đức nói chung
và giáo dục đạo đức cho thế hệ thanh niên, là một vấn đề quan trọng trong
chiến lược phát triển con người của Đảng được toàn xã hội quan tâm.
Lệ Thủy là một trong những địa phương có số lượng dân cư tương đối
lớn của tỉnh Quảng Bình ,141.380 triệu người, trong đó thanh niên chiếm hơn
12.700 người. Đây là lực lượng nòng cốt cho sự phát triển kinh tế - xã hội của
huyện nhà nói riêng và của đất nước nói chung.
Theo suốt chiều dài lịch sử và truyền thống văn hoá của dân tộc, Lệ
Thủy nổi tiếng là vùng "đất học", "địa linh, nhân kiệt", với những tên người,
tên đất lẫy lừng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Thần hầu Nguyễn Hữu
Cảnh Trong hai cuộc kháng chiến , dưới sự lãnh đạo của Đảng, lớp lớp các
thế hệ thanh niên Lệ Thủy đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giành
độc lập. Thời kỳ đổi mới, thế hệ thanh niên Lệ Thủy đã có những cống hiến to
lớn với những tấm gương anh hùng trong chiến đấu, học tập, lao động sản
xuất. Kinh tế thị trường, toàn cầu hóa một mặt đã tạo điều kiện cho thanh niên
huyện Lệ Thủy năng động, sáng tạo và hội nhập. Mặt khác, nó cũng làm cho
một số bộ phận thanh niên suy thoái về đạo đức, coi trọng giá trị vật chất dẫn
đến thanh niên rơi vào các tệ nạn xã hội. Chính vì vậy giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên huyện Lệ Thủy là một vấn đề cấp thiết, nảy sinh từ thực
tiễn đòi hỏi phải được quan tâm, nghiên cứu một cách hệ thống. Chính những
lí do trên, tôi chọn đề tài " Kinh tế thị trường và vấn đề giáo dục đạo đức
cách mạng cho thanh niên huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình hiện nay" để
làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đạo đức và đạo đức của thanh niên trong nền
kinh tế thị trường là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả nghiên cứu.
Ví dụ như: "Giáo dục lý tưởng cách mạng cho thanh niên hiện nay", Hà Nội,

2001 của Phạm Đình Nghiệp; "Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế
thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện
nay" Hà Nội, 1999 của Nguyễn Chí Mỳ; "Quan hệ kinh tế và đạo đức với việc
xây dựng đạo đức mới cho thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam" Luận văn thạc sĩ
của Nguyễn Đình Quế, năm 2000. "Mấy vấn đề đạo đức trong điều kiện
KTTT ở nước ta hiện nay", Nguyễn Trọng Chuẩn - Nguyễn Văn Phúc (đồng
chủ biên), Nxb CTQG, Hà Nội, 2003.
Nghiên cứu các khía cạnh tác động của đạo đức và giáo dục, rèn luyện
đạo đức với sự phát triển con người, nhân cách nói chung và thanh niên nói
riêng cũng có nhiều tác giả đã đề cập. Trong các tạp chí có những bài: "Quan
hệ kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay" của
Nguyễn Thế Kiệt, Tạp chí Triết học số 6, 1996; "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh và vấn đề giáo dục, rèn luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của
Hoàng Trung, Tạp chí Triết học số 5, 1998.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Mục đích của khóa luận là góp phần làm rõ một số vấn đề
lý luận và thực tiễn về đạo đức, về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và sự tác động qua lại giữa hai lĩnh vực này, chỉ ra và luận giải thực
trạng đạo đức của thanh niên huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình hiện nay để
trên cơ sở đó đề xuất phương hướng và những giải pháp cho việc xây dựng
đạo đức của họ trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên khóa luận cần thực hiện những nhiệm vụ
sau:
- Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về kinh tế thị trường, đạo đức
cách mạng của thanh niên.
- Phân tích thực trạng đạo đức của thanh niên dưới tác động của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa .
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp để giáo dục đạo đức cách
mạng cho thanh niên huyện Lệ Thủy, Tỉnh Quảng Bình đáp ứng yêu cầu phát

triển nền kinh tế thị trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Nền kinh tế thị trường và việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh
niên huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của khóa luận là sự tác động của nền kinh tế thị
trường đối với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình hiện nay. Các số liệu chủ yếu từ năm 2010 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Khóa luận chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức,
về phát triển nền kinh tế thị trường, về thanh niên và giáo dục đạo đức cách
mạng của thanh niên.
* Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận đã vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp phương pháp lịch sử và lôgíc,
phân tích và tổng hợp. Ngoài ra luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể
như: so sánh, thống kê để thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của khóa luận
Khóa luận góp phần nâng cao nhận thức về những biểu hiện đặc thù
trong đạo đức của thanh niên, thực trạng đạo đức của thanh niên huyện Lệ
Thủy, tỉnh Quảng Bình trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường hiện
nay và cách thức để xây dựng đạo đức mới cho thanh niên trong điều kiện đó.
Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho các
cán bộ, các tổ chức làm công tác Đoàn, công tác giáo dục đạo đức và hoạch
định chính sách phát triển thanh niên trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận

được bố cục thành 2 chương, 4 tiết.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Kinh tế thị trường và kinh tế thị trường định hướng XHCN
1.1.1 Kinh tế thị trường
Trong lịch sử nhân loại đã trải qua nhiều mô hình kinh tế khác nhau,
nhưng chúng ta có thể khái quát hai loại hình kinh tế cơ bản là “kinh tế tự
nhiên” và “kinh tế hàng hóa”. Trong hai loại hình kinh tế này thì kinh tế hàng
hóa tỏ ra có ưu thế vượt trội hơn. Kinh tế hàng hóa là loại hình kinh tế tồn tại
trong nhiều hình thái kinh tế xã hội, đó là kiểu kinh tế tiến bộ. Kinh tế thị
trường là một trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó toàn bộ các
yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” đều thông qua thị trường. Đến nay, không ai phủ
nhận vị trí, vai trò cũng như tầm quan trọng của kinh tế thị trường trong quá
trình sản xuất xã hội. Kinh tế thị trường tồn tại một cách khách quan ở nhiều
hình thái kinh tế xã hội khác nhau. Đảng ta đã khẳng định: “ Sản xuất hàng hóa
không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà là thành tựu của nền văn minh nhân loại,
tồn tại khách quan và cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả
khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng” [3;97]. Hiện nay không còn ai cho rằng
kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản nữa mà coi nó là một
thành tựu của văn minh nhân loại. Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó
các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao
đổi mua bán. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa
trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất. Trong lịch sử, hình thái kinh tế hàng
hóa phát triển từ thấp đến cao qua các loại hình: kinh tế hàng hóa giản đơn, kinh
tế thị trường tự do cổ điển và kinh tế thị trường hiện đại. Kinh tế thị trường nói
chung là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Nó không đối lập với
kinh tế hàng hóa mà giống nhau về mặt bản chất. Kinh tế thị trường là hình thức
kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều diễn ra trên thị trường, chịu sự chi phối
của quy luật kinh tế thị trường vốn có hay chịu sự chi phối của kinh tế thị
trường tự điều chỉnh. Nền kinh tế thị trường tự do dựa trên kỹ thuật cơ điện gắn

liền với nền văn minh công nghiệp, dựa vào tư hữu nhỏ và tư hữu lớn, ứng với
nó là cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp và tiên tới nông - công nghiệp - dịch vụ.
Kinh tế thị trường tự do phát triển lên mức cao hơn là kinh tế thị trường hiện
đại, đây là hình thức phát triển cao nhất của kinh tế hàng hóa. Ở đó tất cả các
quan hệ kinh tế đều được xử lý trên nguyên tắc của cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước. Kinh tế thị trường hiện đại không chỉ có sự điều khiển của
“bàn tay vô hình” nữa mà lúc này còn có thêm “bàn tay hữu hình” - sự quản lý
vĩ mô của Nhà nước. Và cho đến nay, dù ở những mức độ, phạm vi và tính chất
khác nhau nhưng tất cả cá nước trên thế giới đều đang vận hành theo cơ chế
kinh tế thị trường hiện đại. Nền kinh tế thị trường hiện đại dựa trên kỹ thuật
điện tử tin học, gắn liền với nền văn minh hậu công nghiệp hay là văn minh trí
tuệ. Kinh tế thị trường hiện đại tồn tại các hình thức sở hữu nhà nước, sở hữu cổ
phần và sở hữu quốc tế. Dựa trên cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông
nghiệp, hoạt động dưới sự điều khiển của bàn tay vô hình và bàn tay hữu hình.
Như vậy, chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế thị trường là một hình thức
phát triển cao của kinh tế hàng hóa, mang tính chất phổ biến trong xã hội tư bản.
Nhưng chúng ta không đồng nhất kinh tế thị trường với kinh tế tư bản chủ
nghĩa, nó không còn là sản phẩm riêng của chủ nghĩa tư bản như một số người
trước đây vẫn thường nghĩ. Nay, kinh tế thị trường là sản phẩm chung của nền
văn minh nhân loại. Trong xã hội tư bản, kinh tế thị trường chiếm ưu thế, đó là
nền kinh tế thị trường tự do, quan hệ giữa người với người là quan hệ kinh tế,
mọi người đều mưu cầu lợi ích kinh tế. Quan hệ giữa các cá nhân, các chủ thể
trong nền kinh tế thị trường là quan hệ cạnh tranh nhằm mục đích đạt được lợi
ích của bản thân mình.
Trên thế giới có nhiều quốc gia phát triển kinh tế theo mô hình kinh tế thị
trường, mặc dù về quy mô và tính chất có sự khác nhau giữa các quốc gia,
nhưng chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm mang tính phổ biến như sau:
Một là, trong kinh tế thị trường, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế là rất
cao. Các chủ thể kinh tế chấp nhận những chi phí và chịu trách nhiệm về kết
quả sản xuất cũng như kinh doanh của mình. Họ được tự do liên kết, liên doanh,

tự do tổ chức sản xuất theo luật định. Đây là một đặc điểm rất quan trọng của
kinh tế thị trường.
Hai là, kinh tế thị trường có số lượng hàng hóa rất phong phú, người mua
và người bán tự do hoạt động kinh doanh sản xuất và họ gặp nhau ở giá cả. Sự
phong phú của hàng hóa, nên kinh tế thị trường phản ánh một trình độ sản xuất
cao, mức độ của quan hệ trao đổi và cả trình độ phân công lao động xã hội. Ưu
thế của kinh tế thị trường đã phản ánh trình độ phát triển của khoa học - kỹ thuật
công nghệ. Nói đến kinh tế thị trường là nói đến một nền sản xuất với trình độ
cao.
Ba là, trong kinh tế thị trường, quy luật giá cả là quy luật trao đổi và mua
bán hàng hóa. Để hình thành kinh tế thị trường cần tôn trọng giá cả thị trường.
Nhà nước không nên có sự can thiệp trực tiếp vào giá cả mà chỉ nên can thiệp
gián tiếp ở mức độ nhất định.
Bốn là, cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Trong kinh tế thị
trường, cạnh tranh diễn ra một cách phổ biến cả trong sản xuất và lưu thông.
Cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất bao gồm cạnh tranh nội bộ ngành và cạnh
tranh giữa các ngành với nhau. Còn cạnh tranh trong lĩnh vực lưu thông bao
gồm cạnh tranh giữa những người tham gia trao đổi mua bán hàng hóa và dịch
vụ trên thị trường.
Năm là, kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở, nó rất đa dạng và phức
tạp. kinh tế thị trường được điều hành bằng hệ thống tiền tệ và hệ thống pháp
luật của nhà nước.
Kinh tế thị trường có những ưu điểm như: Nó kích thích việc áp dụng
thiết bị khoa học kĩ thuật, tăng năng suất lao động nâng cao trình độ sản xuất.
Kinh tế thị trường lấy lợi nhuận làm động lực cho mọi hoạt động. Để thu giữ
được nhiều lợi nhuận đòi hỏi các nhà doanh nghiệp thường xuyên áp dụng kĩ
thuật mới, hợp lý sản xuất làm cho năng suất lao động xã hội và năng suất lao
động cá biệt tăng lên. Kinh tế thị trường có tính năng động và khả năng thích
nghi nhanh chóng. Ở đây tồn tại nguyên tắc ai đưa được hàng hóa ra thị trường
trước tiên sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn. Mặt khác nếu nhận thức được sản

phẩm của mình không có người mua hay lượng cầu đang giảm dần, người sản
xuất sẽ không sản xuất nữa. Điều đó dẫn đến sự tiết kiệm hao phí lao động. Vì
vậy kinh tế thị trường luôn diễn ra sự đổi mới.Trong kinh tế thị trường có nhiều
hàng hóa và dịch vụ, đó là một nền kinh tế dư thừa chứ không phải là một nền
kinh tế thiếu hụt. Do vậy nền kinh tế thị trường tạo điều kiện vật chất để thỏa
mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất, văn hóa và sự phát triển toàn diện con
người. Bên cạnh những ưu thế của nền kinh tế thị trường cũng có những khuyết
tật : thường xảy ra tình trạng khủng hoảng, thất nghiệp, phân hóa giàu nghèo, ô
nhiễm môi trường, tiêu cực và tệ nạn xã hội phát triển
Để phát huy những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực của kinh tế
thị trường nhà nước cần có sự can thiệp vào nền kinh tế thị trường đảm bảo sự
ổn định, công bằng và hiệu quả. Trên thế giới đã tồn tại nhiều mô hình nền kinh
tế thị trường có sự quản lý của nhà nước như: Kinh tế thị trường theo kiểu tự do
của Mỹ , mô hình kinh tế thị trường ở Nhật Bản, mô hình kinh tế thị trường ở
các nước Bắc Âu, ở Cộng hòa liên bang Đức
1.1.2 Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một kiểu tổ chức, một
kiểu vận hành nền kinh tế mà một mặt tuân theo những quy luật kinh tế thị
trường, mặt khác dựa trên cơ sở bản chất và nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội,
được chi phối bởi nguyên tắc, bản chất của của chủ nghĩa xã hội trên cả ba mặt
của nền kinh tế: Sở hữu, quản lý và phân phối. Đặc trưng chủ yếu của mô hình
kinh tế này là: Kinh tế công hữu, kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác là chủ đạo
và kinh tế quốc dân làm chủ đạo. Chủ thể là nói về quy mô, mặt định lượng là
chính. Kinh tế cá thể, kinh tế tư doanh cùng kinh tế doanh nghiệp nước ngoài
được coi là thành phần kinh tế bổ sung cần thiết Về phân phối, thực hiện phân
phối theo lao động là chính, các hình thức phân phối khác là bổ sung. Mở rộng
một cách hợp lý khoảng cách trong thu nhập, nhưng không phân hóa theo hai
cực, từng bước thực hiện mục tiêu đẩy lùi nghèo đói cùng nhau làm giàu.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, có một thời gian dài
nước ta đã có nhận thức chưa đúng về vai trò của sản xuất hàng hoá, của kinh tế

thị trường. Chúng ta chưa thấy được quy luật cung cầu và chỉ chủ trọng vào
xem xét mặt tiêu cực của kinh tế thị trường mà chưa đánh giá hết những giá trị
mà kinh tế thị trường mang lại. Tuy nhiên, Đảng và nhân dân ta đã kịp thời nhìn
nhận lại và có những sửa đổi nhất định. Sau khi nhìn lại những sai lầm trong
quá trình thực hiện cơ chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, tại Đại hội Đảng
lần thứ VI, Đảng ta thừa nhận đã có những thành kiến đối với nền kinh tế hàng
hoá và đề ra chủ trương: quá trình sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá
trình chuyển hoá kinh tế còn nhiều tính chất tự cấp, tự túc thành nền kinh tế
hàng hoá…việc sử dụng đầy đủ và đúng đắn quan hệ hàng - tiền đòi hỏi nền sản
xuất gắn liền với thị trường. Đây là một bước tiến quan trọng trong quá trình
nhận thức, trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000,
Đảng ta đã cụ thể hoá quan niệm về kinh tế thị trường. Đảng ta khẳng định: “
Thị trường hoàn chỉnh ở nước ta sẽ dần hình thành bao gồm cả thị trường lao
động, thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Đó sẽ là thị trường thông suốt trong
cả nước và thị trường thế giới, thị trường đó sẽ đóng vai trò trực tiếp hướng dẫn
các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vực hoạt động, mặt hàng, quy mô, công nghệ và
hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong môi
trường hợp tác và cạnh tranh”. Đến đại hội lần thứ VIII (6/1996) Đảng ta đã xác
định rõ hơn về vai trò của kinh tế thị trường: Cơ chế thị trường đã phát huy tác
dụng tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập
mà còn là một nhân tố khách quan, cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường xã hội chủ nghĩa” [5; 26]. Như vậy, trải qua quá trình đổi
mới, quan niệm về vai trò của kinh tế thị trường đã được khẳng định một cách
đúng đắn. Thực tiễn qua 15 năm đổi mới đất nước, ta có thể nhận thấy: Quá
trình chuyển sang kinh tế thị trường định hướng XHCN là một quá trình tất yếu
và phải trải qua quá trình đấu tranh phức tạp và gian khổ.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam chấp nhận
quy luật cạnh tranh nhưng không dã man, tăng trưởng kinh tế luôn đi đôi với
công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu gắn liền với xoá đói giảm nghèo, gia
tăng về mức sống nhưng luôn giữ gìn đạo đức và bản sắc văn hoá dân tộc, kinh

tế thị trường gắn với xã hội chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta thể hiện ở những điểm sau:
Một là, phát triển kinh tế hàng hoá kinh tế thị trường với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế, với sự đa dạng của các hình thức sở hữu, hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hai là, phát triển nền kinh tế hàng hóa vận động theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước, đảm bảo sự thống
giữa sự phát triển, tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
Ba là, xây dựng nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường hội nhập vào
khu vực và thế giới với nhiều hình thức khác nhau.
Như vậy chúng ta thấy rằng, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hoạt động trong môi trường đa dạng của các quan hệ sở hữu,
chế độ công hữu giữ vai trò quan trọng làm nền tảng của nền kinh tế quốc dân,
kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế chủ đạo. Cơ chế thị trường sự quản lý
của nhà nước xã hội chủ nghĩa là sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế
nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động. Cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong sự phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, vấn đề công bằng xã hội
không chỉ là phương tiện mà còn là mục tiêu của xã hội mới. Sự thành công của
nền kinh tế không chỉ là tăng trưởng kinh tế mà còn là mức sống của người dân,
y tế, giáo dục cùng được phát triển và khoảng cách giàu nghèo ngày càng giảm,
mỗi cá nhân ngày càng có điều kiện tốt hơn để phát triển chính mình.
Về vấn đề phân phối, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đảm bảo tốt các vấn đề xã hội. Lợi nhuận kinh doanh sản xuất và vấn đề xã hội
luôn đi đôi với nhau, kết hợp chặt chẽ nguyên tắc phân phối của chủ nghĩa xã
hội với nguyên tắc của nền kinh tế thị trường, giảm bớt sự chênh lệch giàu
nghèo và bảo vệ thu nhập chính đảng của mọi thành viên trong xã hội. Bàn về
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh những thành
tựu đã đạt được còn những vấn đề làm chúng ta chưa yên tâm, chưa hài lòng.

1.2 Đạo đức và đạo đức cách mạng
1.2.1 Đạo đức
Danh từ đạo đức bắt nguồn từ tiếng La tinh là Mos - lề thói (morolia) -
nghĩa là có liên quan với lề thói, đạo nghĩa. Còn luân lý được xem như đồng
nghĩa với đạo đức có gốc từ tiếng Hy Lạp là ethicos - lề thói, tập tục. Khi nói
đến đạo đức là nói đến lề thói và tập tục, biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa
người với người trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta
thường phân biệt hai khái niệm: Mozal là đạo đức, còn ethicos là đạo đức học. ở
phương Đông, các học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại xuất
hiện sớm, lần đầu tiên xuất hiện trong "Kim văn" đời nhà Chu và từ đó trở đi nó
được người Trung Quốc cổ đại sử dụng nhiều để chỉ những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
Quan điểm duy tâm tôn giáo coi đạo đức là những nguyên tắc, những
chuẩn mực được rút ra từ trong đầu óc thiếu cơ sở thực tiễn lịch sử, chẳng hạn
như thượng đế, ý niệm tuyệt đối, tự ý thức, hoặc một bản tính người trừu tượng
nào đó, rồi đem áp đặt vào đời sống hiện thực của con người.
Với thế giới quan duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, dựa trên sự kế
thừa có chọn lọc những quan niệm về đạo đức trước đó, đồng thời đặt nền tảng
khoa học cho một nền đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa, quan điểm
mác xít cho rằng: Đạo đức là sản phẩm của điều kiện kinh tế - xã hội, trong đó
nhân tố quy định đạo đức là các quan hệ kinh tế, lợi ích là cái chi phối trực tiếp,
là cơ sở khách quan của đạo đức, " lợi ích hiểu một cách đúng đắn là nguyên
tắc của toàn bộ đạo đức". Dưới góc độ nhận thức luận, đạo đức là một hiện
tượng tinh thần, một hình thái đặc biệt của ý thức xã hội, là tính thứ hai so với
tồn tại xã hội. Tính chất đặc biệt của đạo đức thể hiện trong quá trình hình thành
các quy tắc đạo đức, đó là do sự thừa nhận của số đông trong xã hội hay sự thừa
nhận của một giai cấp nhất định.
Dưới góc độ chức năng, đạo đức điều chỉnh hành vi của con người bằng
những chuẩn mực và quy tắc đạo đức theo yêu cầu của xã hội. Mục đích là
nhằm đảm bảo lợi ích chung của xã hội hay lợi ích cơ bản của giai cấp đã đề ra

chuẩn mực, quy tắc đạo đức ấy. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, đạo
đức có chức năng nhận thức thông qua sự phản ánh tồn tại xã hội. Qua đó đem
lại tri thức, ý thức đạo đức cho chủ thể, hình thành đạo đức cá nhân và trở thành
cơ sở để cá nhân điều chỉnh hành vi, hiện thực hoá đạo đức. Với chức năng giáo
dục, đạo đức giúp cho con người hình thành những quan điểm, nguyên tắc, quy
tắc, chuẩn mực cơ bản để đánh giá hành động đạo đức xã hội và những hành vi
đạo đức của bản thân mỗi con người.
Cách tiếp cận tiếp theo là xem xét đạo đức với tính cách là hệ giá trị. Sự
hình thành, phát triển và hoàn thiện hệ thống giá trị đạo đức không tách rời sự
phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh đạo đức. Nếu hệ
thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ thì hệ thống ấy sẽ mang
tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, hệ thống ấy sẽ là tiêu cực, phản
động, phản nhân đạo nếu nó đi ngược lại với sự phát triển, sự tiến bộ. Như vậy,
" Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc,
chuẩn mực xã hội, nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người
trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm
tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội" [2;8]. Là yếu tố
cốt lõi của tính cách con người, đạo đức có vai trò hết sức quan trọng trong đời
sống xã hội, là một trong những phương thức cơ bản để điều chỉnh hành vi con
người, làm cho cá nhân và xã hội cùng tồn tại và phát triển. Chính vì thế mà các
giai cấp, các tập đoàn xã hội tiến bộ, cách mạng bao giờ cũng xem đạo đức như
là một trong những công cụ cơ bản, động lực nhằm thúc đẩy sự phát triển của xã
hội. Có thể nói, lịch sử tư tưởng nhân loại cũng là lịch sử phát triển của đạo đức.
Đạo đức xã hội nguyên thủy dựa trên nguyên tắc về sự bình đẳng, hợp tác,
nhưng ở trình độ rất thấp, đạo đức còn mang tính sơ khai, song nó có ý nghĩa là
tiền đề cho sự hình thành và phát triển đạo đức sau này. Kế tiếp đạo đức xã hội
nguyên thủy là các kiểu đạo đức của xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong
kiến, đạo đức tư sản và sau nó là đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa.
Đây là những nấc thang phát triển về chất trong lịch sử đạo đức nhân loại.
1.2.2 Đạo đức cách mạng

Về mặt lịch sử, đạo đức mới đã tồn tại và phát triển trước khi tồn tại xã
hội XHCN, nó được hình thành từ cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công
nhân chống lại giai cấp tư sản, nhằm thiết lập địa vị thống trị của mình. Chính
nội dung của cuộc đấu tranh đó quy định sự phát triển nội dung của đạo đức
mới. Trong quá trình xây dựng CNXH, đạo đức mới của giai cấp vô sản ngày
càng trở thành đạo đức chung của nhân dân. Và trong tương lai trở thành đạo
đức chung của nhân loại là đạo đức cộng sản sau khi đã qua giai đoạn trung
gian của nó là đạo đức XHCN.
Để nhấn mạnh vai trò nhân tố tinh thần của đạo đức mới góp phần vào
thắng lợi của cách mạng XHCN; để phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt
Nam; trong khóa luận này chủ yếu sử dụng khái niệm "đạo đức cách mạng"
theo quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh. "Đạo đức cách mạng" theo Chủ
tịch Hồ Chí Minh là đạo đức mới - đạo đức cộng sản chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh, không những khác mà còn đối lập với
đạo đức của các giai cấp bóc lột thống trị xã hội. Đạo đức cách mạng được nảy
sinh, tồn tại và phát triển trên cơ sở của chế độ công hữu về tư liệu sản xuất;
nó được hình thành, phát triển cùng với quá trình vận động, phát triển sự
nghiệp cách mạng của nhân dân. Đồng thời nó kế thừa và phát triển tinh hoa
đạo đức truyền thống dân tộc và của nhân loại. Đặc biệt là đạo đức Mác Lênin.
Đạo đức cách mạng Việt Nam được hình thành, phát triển gắn liền với
thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nó là sự phản ánh quá trình đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp tiến bộ khác nhằm
giành độc lập dân tộc và đưa đất nước đi lên xây dựng CNXH. Vì vậy, tiếp cận
khái niệm "đạo đức cách mạng", cũng cần phải xem xét dưới góc độ nhận thức
luận, chức năng cơ bản và giá trị nhân cách. Cũng như các hệ thống lý luận
đạo đức khác, lý luận đạo đức cách mạng là kết quả của sự phản ánh tồn tại xã
hội. Nhưng với tính cách là trình độ phản ánh cao nhất của ý thức đạo đức -
một hình thái ý thức xã hội đặc biệt - lý luận đạo đức phản ánh bản chất của
tồn tại xã hội mà cụ thể là các quan hệ sản xuất, biểu hiện ra là các quan hệ lợi
ích. Cho nên đạo đức cách mạng kế thừa đặc điểm chung của hệ thống lý luận

đạo đức trong lịch sử, phản ánh quan hệ lợi ích các giai cấp, các tầng lớp khác
nhau trong xã hội. Sự khác nhau căn bản giữa đạo đức cách mạng với các kiểu
đạo đức trước đây được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, đạo đức cách mạng mang tính cách mạng và khoa học. Đạo
đức cách mạng là đạo đức phản ánh lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân,
mang bản chất giai cấp công nhân, giai cấp có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách
mạng Việt Nam đi đến thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc,
dân chủ và đi lên CNXH. Mục tiêu lý tưởng đó phù hợp với quy luật vận động
phát triển của lịch sử xã hội, đồng thời phù hợp với quy luật tiến bộ của đạo
đức nhân loại, vì nó hướng tới mục tiêu giải phóng triệt để con người khỏi sự
áp bức bất công trong xã hội. C.Mác đã từng nhấn mạnh: "phải lật đổ tất cả
những quan hệ biến con người thành một sinh vật bị làm nhục, bị nô dịch, bị
bỏ rơi, bị khinh rẻ" [10;581]. Mặt khác chính sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân đòi hỏi lý luận nói chung và lý luận đạo đức nói riêng phải đạt
đến trình độ khoa học mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cải tạo xã hội
do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiến hành. Tính cách mạng và
khoa học của lý luận đạo đức cách mạng không chỉ thể hiện ở sự phản ánh
sáng tạo thực tiễn cách mạng Việt Nam với tư cách là nguồn gốc chủ yếu của
nó, mà còn thể hiện ở sự phê phán, chọn lọc, kế thừa tinh hoa truyền thống đạo
đức của dân tộc và nhân loại trong quá trình hình thành và phát triển. Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã từng khái quát: "Học thuyết Khổng Tử có ưu điểm của nó là
sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Jêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái
cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện
chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó phù hợp với
điều kiện nước ta Tôi cố gắng làm người học trò nhỏ của các vị ấy" [16;92].
Tư tưởng đó đã thể hiện thái độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với các di sản
tư tưởng trong lịch sử. Nắm vững phép biện chứng duy vật của Mác, dựa trên
cơ sở thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người đã có thái độ khoa học và cách
mạng đối với đạo đức cũ trong việc kế thừa, cải biến những yếu tố hợp lý góp
phần hình thành nên lý luận về đạo đức cách mạng ở Việt Nam. Sự khác nhau

giữa các kiểu đạo đức không phải ở hình thức ngôn ngữ mà thực chất là ở nội
dung - kết quả của sự phản ánh hiện thực đạo đức chứa đựng trong ngôn ngữ
với tư cách là hình thức biểu hiện của nó. Nội dung cơ bản của đạo đức cách
mạng được thể hiện ở: Chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác sáng tạo, chủ nghĩa
yêu nước kết hợp với chủ nghĩa quốc tế và chủ nghĩa nhân đạo XHCN Trong
các nội dung đó, đạo đức cách mạng thể hiện rõ tính chất cách mạng và khoa
học, là tiêu chí quan trọng để phân biệt sự khác nhau căn bản giữa đạo đức
cách mạng với các kiểu đạo đức trước đây bao gồm: Đạo đức trong xã hội
nguyên thủy, đạo đức trong xã hội chiếm hữu nô lệ, đạo đức phong kiến, đạo
đức tư sản, đạo đức tiểu tư sản, đạo đức tôn giáo Bởi vì, khi xem xét phẩm
chất đạo đức là xem xét ở khía cạnh tốt - xấu, tích cực - tiêu cực, thiện - ác,
cao thượng hay thấp tức là thẩm định giá trị. Khác với các hệ giá trị đạo đức
cũ, đạo đức cách mạng là hệ giá trị đạo đức tiên tiến, phù hợp với sự phát triển,
sự tiến bộ của con người và xã hội. Thực tiễn cách mạng nước ta cũng đã
khẳng định những giá trị đạo đức của xã hội Việt Nam hơn nửa thế kỷ qua.
Mặc dù tính cách mạng và khoa học của đạo đức mạng được thể hiện trong hệ
thống những nguyên tắc cơ bản trên, song nó không mang tính cố định, giáo
điều mà đòi hỏi phải được bổ sung, phát triển cho phù hợp với sự vận động
của thực tiễn cách mạng. ở mỗi thời kỳ, giai đoạn khác nhau của cách mạng,
trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Đảng ta đã bổ sung, phát triển những nội dung cụ thể. Từ "tư cách
người cách mệnh" đến "đạo đức cách mạng" rồi đến "Di chúc" coi như những
cột mốc đánh dấu sự phát triển về nội dung đạo đức cách mạng, làm cho nội
dung ấy ngày càng đúng đắn, sâu sắc và phong phú hơn. Tính cách mạng và
khoa học của lý luận đạo đức cách mạng còn được thể hiện ở chiến lược và
sách lược nhằm hiện thực hóa những yêu cầu của đạo đức cách mạng trong đời
sống thực tiễn, biến nó thành phẩm chất nhân cách của người cách mạng trong
đời sống thực tiễn. Đó là thông qua giáo dục và rèn luyện từ thực tiễn cách
mạng, bằng đấu tranh tự phê bình và phê bình, xây đi đôi với chống, nêu
gương về đạo đức thông qua "ngườitốt việc tốt" Chính bằng phương pháp đó

mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tạo nên một thế hệ những người cách
mạng với những tấm gương sáng ngời về đạo đức trong sự nghiệp đấu tranh
giành độc lập cho dân tộc.
Thứ hai, đạo đức cách mạng ra đời từ thực tiễn, nhằm đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn đấu tranh giành độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên CNXH. Vì
vậy, đạo đức cách mạng là đạo đức mang tính thực tiễn có chức năng chỉ đạo
hành vi, cải tạo xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Làm cách mạng để
cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng
là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian
khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải
có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang"
[14;282-293]. Như vậy, đạo đức cách mạng chính là cơ sở đảm bảo cho hoạt
động "cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới" của người cách mạng. Chức năng
chỉ đạo hành vi trong hoạt động cải tạo xã hội của đạo đức cách mạng là một
đặc trưng cơ bản để phân biệt với đạo đức duy tâm, tôn giáo và đạo đức của
các giai cấp thống trị bóc lột đã có trong lịch sử. Trong chừng mực nhất định,
đạo đức duy tâm, tôn giáo là đạo đức thể hiện sự bất lực của con người, nó
không những không chống lại sự thống trị tàn bạo của bọn bóc lột mà còn bào
chữa, che đậy cho những hành vi vô đạo đức của kẻ đi áp bức, bóc lột. Chức
năng chỉ đạo hành vi trong hoạt động cải tạo xã hội của đạo đức cách mạng
cũng khác về chất so với đạo đức của giai cấp thống trị phản động, là thứ đạo
đức trói buộc con người trong vòng cương tỏa của những khuôn phép bảo vệ
cho lợi ích cơ bản của thiểu số người thống trị, chà đạp lên lợi ích của đa số
người lao động. Tính thực tiễn của đạo đức cách mạng phải là "công cụ phá
hoại xã hội cũ của kẻ bóc lột, và đoàn kết toàn thể quần chúng lao động chung
quanh giai cấp vô sản là người sáng lập ra xã hội mới của người cộng sản"
[8;369-371]. Đạo đức cách mạng hướng con người, trước hết là những đại
biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu
tranh xóa bỏ trật tự xã hội cũ của bọn thực dân phong kiến, thực hiện độc lập
dân tộc và xây dựng một xã hội mới - xã hội XHCN ở Việt Nam. Do đó tính

tiên phong, tinh thần xóa bỏ cái lạc hậu, xây dựng cái mới là đặc trưng nổi bật
của đạo đức cách mạng.
Thứ ba, đạo đức cách mạng là sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất
chính trị và phẩm chất đạo đức. Sự thống nhất giữa phẩm chất chính trị và
phẩm chất đạo đức bắt nguồn từ nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp. Đây vừa là mục tiêu lý tưởng chính trị, vừa là mục tiêu lý tưởng đạo đức
của giai cấp công nhân Việt Nam. Sự thống nhất đó được thể hiện sinh động ở
nhân cách Hồ Chí Minh, cả cuộc đời của Người, toàn bộ động cơ, ý chí và
hành động đều vì quyền lợi của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân và góp
phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người mà trước hết là những
người cùng khổ, bị áp bức, bóc lột. Ngay từ khi bước vào con đường cách
mạng, Hồ Chí Minh đã ý thức rất rõ ràng và sâu sắc vai trò của đạo đức cách
mạng đối với sự nghiệp cách mạng. Người coi đạo đức cách mạng là gốc, là
nền tảng của người cách mạng: "Cũng như sông thì có nguồn mới có nước,
không có nguồn thì sông cạn. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân" [12;252-253].
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành
được nhiệm vụ cách mạng. Đạo đức cách mạng phải chuyển hóa thành phẩm
chất nhân cách của người cách mạng, giữ vị trí là yếu tố cơ bản của nhân cách.
Chỉ như vậy, đạo đức cách mạng mới thể hiện được vai trò cải tạo xã hội thông
qua hoạt động của con người với tư cách là chủ thể cách mạng. Thực hiện sự
chuyển hóa những yêu cầu của đạo đức cách mạng thành phẩm chất nhân cách
của người cách mạng, được Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng ngay từ những
năm 20 của thế kỷ XX, khi Người tiến hành đào tạo lớp cán bộ ở Quảng châu -
Trung Quốc nhằm chuẩn bị tiền đề cho cách mạng Việt Nam. Nội dung đào
tạo được mở đầu bằng "tư cách một người cách mệnh", trong đó Hồ Chí Minh
quy thành ba vấn đề cơ bản: Đối với mình, đối với người và đối với công việc.
Trước hết đối với mình, người cán bộ cách mạng phải cần, kiệm, liêm chính,
chí công, vô tư, kiên trì, ham học, không hiếu danh, không kiêu ngạo, nói đi
đôi với làm, trung thành với lý tưởng, hy sinh phấn đấu, không tham lam, biết

giữ bí mật. Đối với người, nghĩa là trong quan hệ với mọi người, với đoàn thể,
người cán bộ cách mạng phải thể hiện lòng vị tha, khoan dung, yêu thương, ý
thức kỷ luật, trách nhiệm. Đối với công việc, người cán bộ cách mạng phải có
nguyên tắc, sát thực tiễn, tinh thần kỷ luật, dũng cảm, quyết đoán. Người cán
bộ cách mạng phải có tư cách như vậy thì mới có thể tiếp nhận và vận dụng
được đường lối cách mạng. "Tư cách một người cách mệnh" là sự mở đầu cho
việc xây dựng đạo đức cách mạng, biến yêu cầu của đạo đức cách mạng thành
phẩm chất nhân cách của người cách mạng. Theo góc độ giá trị - nhân cách,
thì đạo đức cách mạng là hệ thống những phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng
nhân cách, cùng với năng lực là hai yếu tố cơ bản tạo lập nên phẩm giá của
người cán bộ cách mạng. Giá trị nhân cách của người cán bộ cách mạng được
thể hiện qua thái độ, hành vi đối với Đảng, đối với Tổ quốc, đối với cách
mạng, đối với nhân dân, đối với đồng chí, đối với gia đình, đối với bản thân và
đối với kẻ thù - đó là suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng tận trung
với nước, tận hiếu với dân, ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng,
hết lòng phục vụ giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Và vì Đảng, vì dân
mà đấu tranh quên mình gương mẫu trước mọi việc. Những phẩm chất đạo đức
trên là cơ sở, điều kiện đảm bảo cho hoạt động của người cách mạng đạt hiệu
quả, chất lượng cao trong thực hiện nhiệm vụ, đồng thời là cái tạo nên đặc
trưng của đạo đức cách mạng, đó là sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm chất
chính trị và phẩm chất đạo đức. Nhấn mạnh đức, nhưng Hồ Chí Minh và Đảng
ta luôn gắn chặt đức với tài, đó là hai yếu tố cơ bản cấu thành nhân cách của
người cách mạng. Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: " Công việc thành công
hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" [12;273]. Cán bộ tốt hay kém chính là
chất lượng người cán bộ, trong đó bao gồm cả đạo đức cách mạng và tài năng
so với yêu cầu, nhiệm vụ. Thiếu một trong hai yếu tố cơ bản là đức hoặc tài,
người cán bộ cách mạng không thể thực hiện tốt được vai trò, chức năng xã
hội của họ, bởi vì: " Có tài phải có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có
hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp
ích gì được ai" [13;184]. Như vậy, nhu cầu khách quan của nhiệm vụ cách

mạng đòi hỏi người cán bộ cách mạng phải có đức, đồng thời phải có tài, phải
vừa hồng vừa chuyên. Đó là điều kiện cơ bản đảm bảo cho người cán bộ cách
mạng hoàn thành vai trò, chức năng xã hội của họ, là người tổ chức và lãnh
đạo nhân dân làm cách mạng. Trong mối quan hệ biện chứng giữa đức và tài
thì đức là gốc, là nền tảng - theo nghĩa đạo đức cách mạng là cơ sở hướng đích
của tài năng, đồng thời là động lực, là sự thôi thúc nội tâm, thúc đẩy tài năng
phát triển. Đạo đức cách mạng làm cho mỗi người cán bộ hiểu rõ ý nghĩa giá
trị của mỗi việc làm, của từng nhiệm vụ mà họ được phân công đảm nhận, từ
đó hướng toàn bộ tài năng, sức lực của mình để hoàn thành. Đạo đức cách
mạng còn đóng vai trò là động lực bên trong thôi thúc người cán bộ không
ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của thực tiễn cách mạng. Tài năng là điều kiện cực kỳ quan
trọng để hiện thực hóa mục tiêu và lý tưởng của đạo đức. Thiếu tài năng, người
cán bộ không có đủ điều kiện, cơ sở khoa học để thể hiện đạo đức cách mạng
trong thực tiễn. Đạo đức cách mạng ở Việt Nam do Hồ Chí Minh khởi xướng
và cùng Đảng ta xây dựng, bồi dưỡng cho các thế hệ cách mạng nước ta. Xét
về tính giai cấp và mục đích, nó thống nhất với đạo đức của giai cấp vô sản,
đạo đức cộng sản mà C.Mác, Ăngghen là những người đặt nền móng và Lênin
là người kế thừa, phát triển. Đạo đức cách mạng, đạo đức cộng sản đều mang
tính giai cấp công nhân. Mục đích cuối cùng là góp phần giải phóng triệt để
con người, trước hết là giai cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi áp
bức, bất công xã hội. Do vậy, nó là đạo đức trong hành động và cải tạo xã hội,
khẳng định phẩm chất cao quý của người lao động trong sự nghiệp đấu tranh
giải phóng mình Lênin từng nhấn mạnh, đạo đức đó giúp loài người tiến lên
cao hơn, thoát khỏi ách bóc lột lao động. Đạo đức cách mạng ở Việt Nam là
một đặc thù của đạo đức cộng sản. Tính đặc thù này được quy định bởi thực
tiễn cách mạng Việt Nam, truyền thống đạo đức dân tộc và dấu ấn sắc thái Hồ
Chí Minh.
Đạo đức cách mạng được tiếp cận từ góc độ nhận thức luận, chức năng
cơ bản và giá trị nhân cách nổi lên những đặc trưng như đã phân tích trên - đó

là những thành phần cơ bản cấu thành nội hàm khái niệm đạo đức cách mạng,
là cơ sở để luận văn đưa ra quan niệm về đạo đức cách mạng như sau: Đạo đức
cách mạng là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh thực tiễn cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động, là sự thống nhất hữu cơ giữa phẩm
chất chính trị và phẩm chất đạo đức tạo nên nền tảng nhân cách của người cách
mạng, là động lực cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới nhằm thực hiện lợi ích cơ
bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam là
giành độc lập dân tộc, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Nội dung của khái
niệm đạo đức cách mạng được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hòa những phẩm
chất chính trị - đạo đức, đó là lòng trung thành vô hạn với mục tiêu, lý tưởng
cách mạng, chủ nghĩa tập thể, lao động tự giác sáng tạo, chủ nghĩa yêu nước
kết hợp với chủ nghĩa quốc tế XHCN, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản chủ nghĩa
và những phẩm chất đạo đức cá nhân như tính trung thực, khiêm tốn, dũng
cảm, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư Những phẩm chất đạo đức cách
mạng trên thống nhất hữu cơ trong nhân cách của người cách mạng.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆC GIÁO
DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG THANH NIÊN HUYỆN LỆ THỦY,
QUẢNG BÌNH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XHCN
2.1 Thực trạng đạo đức của thanh niên huyện Lệ Thủy, Quảng Bình
hiện nay
2.1.1 Vài nét về tự nhiên, văn hóa, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến đạo
đức của thanh niên huyện Lệ Thủy, Quảng Bình
2.1.1.1 Điều kiện tự nhiên
Hiện nay đạo đức với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, mối quan hệ
với tồn tại xã hội, là cái phản ánh tồn tại xã hội. Vì vậy, khi nghiên cứu và giải
quyết các vấn đề về đạo đức cũng như việc giáo dục đạo đức phải gắn với tác
động của điều kiện tự nhiên, văn hóa, điều kiện kinh tế - xã hội.
Lệ Thủy là một huyện phía Nam của tỉnh Quảng Bình. Phía Nam huyện
giáp huyện Vĩnh Linh (thuộc tỉnh Quảng Trị), phía Bắc giáp huyện Quảng Ninh

(Quảng Bình), phía Tây giáp tỉnh Khammouan của Lào, phía Đông giáp Biển
Đông.Ở vị trí địa lý này huyện Lệ Thủy nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió
mùa Nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23- 24
0
C. Lượng mưa trung bình
năm từ 1.600 - 1.800 mm. Lượng mưa lớn, ánh sáng dồi dào là những điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển nông, lâm, ngư nghiệp. Khí hậu có 2 mùa rõ rệt,
mùa nóng trùng với mùa mưa và mùa lạnh trùng với mùa khô. Vào mùa khô có
những đợt nắng nóng kéo dài, vào mùa mưa có những đợt rét đậm, rét hại và
hàng năm thường xuyên chịu ảnh hưởng của gió, bão vào tháng 9, tháng 10,
tháng 11.
Là huyện có số diện tích tự nhiên 1.416,11 km
2
Địa hình phức tạp, có bề
ngang hẹp, thấp dần từ Tây sang Đông, có 3 dạng địa hình chủ yếu là vùng đồng
bằng ven biển, vùng gò đồi và vùng núi. Do đó Lệ Thủy là huyện có hệ thống
giao thông như quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam chạy suốt vùng đồng bằng,
đường Hồ Chí Minh chạy qua vùng trung du.Với tổng diện tích đất nông nghiệp
gồm 127.490,53 ha trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 22.454,11ha
và diện tích đất lâm nghiệp là 104.683,20ha. Có nhiều diện tích đất có khả năng
chuyển đổi sang trồng cao su, diện tích đất rừng trồng tập trung tại các xã vùng
núi và vùng gò đồi như Văn Thủy, Phú Thủy, Trường Thủy, Sơn Thủy, Sen
Thủy, Thái Thủy, Kim Thủy, Ngân Thủy.Nguồn nước mặt phong phú với con
sông Kiến Giang và có nhiều hồ đập, trạm bơm trên địa bàn huyện. Chất lượng
nước khá tốt thích hợp cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng.Thiên nhiên
ở Lệ Thủy đa dạng, phong phú, muôn hình, muôn vẻ tạo cho con người nhiều
điều kiện thuận lợi nhưng cũng không ít khó khăn trong quá trình sử dụng cải
tạo và chinh phục tự nhiên để tồn tại và phát triển kinh tế - xã hội.
Cuộc đấu tranh giữa con người và thiên nhiên ở đây luôn diễn ra gay gắt.
Con người Lệ Thủy luôn phải vật lộn với thiên tai, đã hao tổn biết bao sức lực

và trí tuệ để chế ngự được phần nào những khó khăn do thiên nhiên gây ra,
đồng thời khai thác và sử dụng các nguồn lực do thiên nhiên ưu đãi. Chính cuộc
đấu tranh gian khổ giữa con người với tự nhiên đã góp phần hun đúc nên tinh
thần lao động cần cù, sáng tạo, chịu thương, chịu khó, ý chí tự lực, tự cường,
tình yêu con người với con người, con người với thiên nhiên Chính đây là môi
trường tự nhiên đã góp phần tạo nên ý chí, bản lĩnh nghị lực và nhiều phẩm chất
tốt đẹp cũng như những mặt còn hạn chế của con người và tuổi trẻ huyện Lệ
Thủy.
2.1.1.2 Truyền thống lịch sử, văn hoá
Lệ Thủy nổi tiếng trong lịch sử về "địa lợi, nhân hoà", với vùng đất "địa
linh, nhân kiệt", những truyền thống dân tộc và của địa phương được con người
Lệ Thủy giữ gìn và phát huy. Lịch sử đã để lại cho Lệ Thủy những bậc tài danh
như tiến sĩ Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh , Vũ Xuân Hán, Nguyễn Đăng
Hành Người Lệ Thủy tự hào về Dương Văn An, tự Tỉnh Phủ, người làng Tuy
Lộc, thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy sinh năm 1514, thi đậu tiến sĩ năm
Đinh Mùi (1547), dưới thời nhà Mạc. Người đã để lại cho đời sau tác phẩm nổi
tiếng “ Ô châu cân lục”. Không có nó, bây giờ lấy gì cho người đời sau biết về
Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý về phong thổ, con người, văn hóa lối sống của ngày
đầu mở cõi. Người Lệ Thủy tự hào về Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã có
công giúp nhà Nguyễn di dân khai hoang mở cõi, dàn xếp biên cương, tạo lập
nên vùng Sài Gòn - Gia Định cùng miền Tây Nam bộ. Đem theo ông là dân xứ
Quảng cùng tên gọi của các địa danh gợi nhớ quê hương Tân Bình (tên tỉnh
Quảng Bình xưa) nay vẫn còn đó ở Sài Gòn như Bình Dương, Bình Đông, Bình
Tây, Bình Tiên, Bình Trị, Bình Long, Tân Mỹ, Tân Phước, Tân Thạnh Và
chính quê hương Lệ Thủy là nơi sinh ra người học trò xuất sắc nhất của Bác
Hồ, một vị tướng làm rạng danh đất nước, nổi tiếng năm châu bốn bể - đó là Đại
Tướng Võ Nguyên Giáp. Cả cuộc đời của Đại Tướng đã cống hiến hết mình cho
sự nghiệp chiến đấu, bảo vệ đất nước trước hai kẻ thù xâm lược đó là thực dân
Pháp và Đế quốc Mỹ.
Trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, dưới sự lãnh đạo

của Đảng, kế thừa truyền thống quê hương anh hùng, nhân dân Lệ Thủy một
lòng dốc hết sức lực cùng với nhân dân cả nước đấu tranh giành lại độc lập cho
nước nhà. Những trang sử hào hùng đã ghi lại chiến công của con người Lệ
Thủy một thời bom đạn như làng anh hùng Xuân Bồ hay đại đội pháo binh Ngư
Thủy Chiến tranh đã đi qua, huyện Lệ Thuỷ được phong tặng đơn vị Anh
hùng LLVT. Hơn 30 năm sau ngày giải phóng, trên dải đất hẹp này, dù chiến
tranh tàn phá nặng nề, nhưng bằng cái truyền thống hăng say lao động, quen với
gian khổ nên Lệ Thuỷ đã có những bước tiến dài trong sự nghiệp phát triển kinh
tế văn hóa xã hội. Đảng bộ và nhân dân Lệ Thủy, đã biến mảnh đất hoang tàn
sau chiến tranh thành một vùng đất đầy tiềm năng. Nói đến Lệ Thủy, là nói đến
xứ sở của những làn điệu hò khoan nổi tiếng. Hò khoan Lệ Thủy là hình thức
hát xướng, hát đối đáp, nó ra đời trong quá trình lao động sản xuất, chiến đấu.
Hò khoan là tiếng lòng của người lao động Lệ Thủy, là động lực để con người
lao động, lắm khi nó còn là thứ vũ khí sắc bén để người Lệ Thủy đối diện với

×