Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.31 KB, 3 trang )
ĐỀ BÀI 05
Ông A và bà B có ba người con chung là C, D, E. C cư trú tại quận N thành phố H, D
và E cư trú tại quận P thành phố Q. Năm 2005 ông bà A, B chết không để lại di chúc.
Ông bà A, B có một mảnh đất diện tích 500m
2
(không có tài sản trên đất) tại quận M
thành phố H. Sau khi ông bà A, B chết, C, D xảy ra tranh chấp về việc phân chia tài sản
thừa kế. C đã khởi kiện ra tòa án yêu cầu chia thừa kế mảnh đất trên. Xác định phương
án xử lí trong hai tình huống sau :
a) Sau khi nhận đơn khởi kiện của C, Tòa án đã không thụ lí với lí do mảnh đất diện
tích 500m
2
của ông bà A, B chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở
và cũng không có một trong các loại giấy tờ theo qui định tại khoản 1,2 và 5 điều
50 Luật đất đai. Hỏi việc không thụ lí giải quyết vụ việc trên của tòa án nhân dân
là đúng hay sai? Tại sao?
b) Giả sử vụ việc thuộc thẩm quyền về dân sự của tòa án. Hãy xác định tòa án cụ thể
có thẩm quyền giải quyết vụ án này?
BÀI LÀM
1. Tình huống thứ nhất :
Cần khẳng định rằng việc Tòa án đã không thụ lí đơn khởi kiện của C là đúng.
Ta thấy rằng, trong vụ việc này các anh chị C, D, E đang tranh chấp với nhau về
quyền thừa kế tài sản do cha mẹ để lại, tuy nhiên, đây lại là một loại tài sản rất đặc biệt :
quyền sử dụng đất (không có tài sản trên đất). Vì vậy, để giải quyết được vụ việc trên
không những ta phải dựa vào Bộ luật Tố tụng dân sự (TTDS) mà còn phải căn cứ vào
luật nội dung là Luật đất đai. Theo qui định tại điều 136 Luật đất đai năm 2003 : “1.
Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật
này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Toà án nhân dân giải quyết”. Những
tranh chấp về quyền sử dụng đất mà không có các loại giấy tờ hợp pháp hoặc hợp lệ kể
trên thì Tòa án sẽ không thụ lí mà thẩm quyền giải quyết những tranh chấp này thuộc hệ