Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Phát triển đội ngũ trí thức ở hà tĩnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.65 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển các nền văn minh đã minh chứng rằng: “Trong
mọi thời đại tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là
lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức”. Trong một quốc gia
dân tộc, nguồn lực con người, nguồn lực trí tuệ là yếu tố thúc đẩy sáng
tạo, là nền tảng tiến bộ xã hội, là sức mạnh nội sinh tạo nên sự phồn
thịnh của đất nước.
Thực tế trong tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam,
việc chọn người hiền tài đã luôn được cha ông ta chú trọng. Trên bia tiến
sĩ khoa Nhâm Tuất (1442) đặt tại Văn miếu - Quốc Tử Giám, Thân Nhân
Trung viết: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế
nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy yếu thì thế nước yếu mà thấp
hèn. Vì thế các bậc đế vương thanh minh, không đời nào không coi việc
giáo dục nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí quốc gia làm công
việc cần thiết”. Từ thực tiễn bao đời, ông cha ta đã đúc rút ra thành chân
lý cho mọi thời đại: “Phi nông bất ổn, phi công bất hoạt, phi thương bất
phú, phi trí bất hưng”, hay: “ Tôn tộc đại quy, tôn lộc đại nguy, tôn tài đại
thịnh, tôn nịnh đại nguy”.
Trong giai đoạn hiện nay, khi các nước phát triển đã hoàn thành hai cuộc
cách mạng công nghiệp và đang thực hiện cuộc cách mạng khoa học - công
nghệ hiện đại thì nước ta mới bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đang đứng trước những thời cơ và vận hội
lớn, đồng thời phải đương đầu với những khó khăn, thử thách rất quyết liệt
để giải quyết mâu thuẫn lớn nhất ở nước ta hiện nay là phải dốc sức vào việc
phát triển lực lượng sản xuất bằng cách đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa với tình trạng kinh tế còn nghèo nàn, kém phát triển. Để
đạt được “Mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ
bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi
hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao
nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng


tạo của đội ngũ trí thức”. Cho nên phát triển đội ngũ trí thức cũng “chính
là giải pháp quan trọng để phát triển cá nhân thúc đẩy con người theo
hướng trí tuệ và sáng tạo”.
Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, tỉnh Hà
Tĩnh trong những năm qua đã quan tâm đến sự nghiệp giáo dục cũng như
công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển đội ngũ trí thức. Do đó, đội ngũ trí
1
thức của tỉnh ngày càng lớn mạnh cơ bản đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương đưa Hà Tĩnh ngày càng phát
triển theo guồng máy chung của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu
bức thiết là phải đẩy nhanh tốc độ phát triển để sánh vai với các tỉnh,
thành phố khác trong cả nước thì đội ngũ trí thức Hà Tĩnh còn thiếu về cả
số lượng và chất lượng. Do tỉnh vừa mới được tái lập đội ngũ trí thức bị
phân tán nhiều nên chưa phát huy được sức mạnh tiềm năng trí tuệ của đội
ngũ này trong quá trình phát triển kinh tế. Hà Tĩnh vẫn còn thiếu vắng một
chiến lược tổng thể để có kế hoạch chủ động đào tạo đội ngũ cán bộ có
trình độ cao ở nhiều độ tuổi khác nhau nên sự phát triển của đội ngũ trí
thức Hà Tĩnh thời gian qua còn mang tính tự phát. Nguy cơ thiếu lực
lượng cán bộ trẻ kế cận có đủ năng lực đáp ứng được yêu cầu phát triển
kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Kế hoạch trong công tác đào tạo và
sử dụng đội ngũ trí thức vẫn còn bất hợp lí, chưa gắn với chiến lược phát
triển kinh tế. Trong khi môi trường làm việc, cở sở vật chất chưa tốt để đủ
sức hấp dẫn thu hút trí thức ngoài tỉnh, thì tình trạng con em Hà Tĩnh sau
khi tốt nghiệp đại học đều không muốn trở về quê hương mà ở lại các
thành phố lớn công tác ngày càng tăng. Đó là những lí do, khó khăn gây
ảnh hưởng lớn đến việc tiếp thu khoa học công nghệ mới, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Vì vậy, hơn lúc nào hết, điều quan trọng nhất
của Hà Tĩnh hiện nay là phải chăm lo xây dựng đội ngũ trí thức với những
chính sách đãi ngộ xứng đáng nhằm thu hút trí thức nhân tài để tạo ra một
lực lượng lao động có trình độ cao trên tất cả các hoạt động của sản xuất

và đời sống, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế và là động lực thúc đẩy
công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Để đưa Hà Tĩnh sớm trở thành tỉnh có công
nghiệp và dịch vụ phát triển như nghị quyết của Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII
đã đề ra và góp phần làm cho tình hình Hà Tĩnh “nổi bật lên” như lời Bác
Hồ đã căn dặn. Làm sao để phát huy nguồn lực trí tuệ của tỉnh, làm sao để
xây dựng được đội ngũ trí thức hùng mạnh làm nòng cốt trong sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, đưa Hà Tĩnh ngày càng phát triển tương
xứng với tiềm năng vốn có của mình đang là vấn đề cần sự quan tâm kịp
thời và cấp thiết, là hòn đá tảng để phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở
Hà Tĩnh.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Phát triển đội ngũ trí thức ở Hà
Tĩnh trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa” làm luận văn
thạc sĩ triết học của mình.
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2
Trí thức là một đề tài đã và đang thu hút các nhà khoa học, lý luận, các
học giả ở trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay, ở nước
ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về đội ngũ trí thức với
nhiều khía cạnh, quy mô khác nhau. Trong đó có một số công trình mà tác
giả luận văn cần tham khảo và kế thừa là: “Vấn đề trí thức và cách mạng”
của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nxb Sự thật, 1973; “Trí thức Việt Nam thời
xưa” của giáo sư Vũ Khiêu, Nxb Thuận Hóa; “Trí thức Việt Nam trong sự
nghiệp đổi mới xây dựng đất nước” của Đỗ Mười, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 1995; “Một số vấn đề về trí thức Việt Nam” của Nguyễn Thanh
Tuấn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998 đã giải quyết được các vấn
đề về mối quan hệ giữa trí thức và tiến bộ xã hội, sự phát triển của trí thức
qua các chặng đường lịch sử và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức
Việt Nam hiện nay. “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài kế lớn trăm
năm chấn hưng đất nước” của tác giả Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diệu,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996; “Trí thức Việt Nam trước yêu cầu

phát triển đất nước” của Nguyễn Đắc Hưng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2005; “Trí thức Việt Nam tiến cùng thời đại” của Nguyễn Đắc Hưng,
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008. Thông qua ba công trình trên các
tác giả đã làm rõ được khái niệm, nguồn gốc, sự hình thành vị trí và vai trò
của đội ngũ trí thức Việt Nam trong mối quan hệ hữu cơ công - nông - trí.
Tác giả cũng đã phân tích thực trạng, phương hướng phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam trong tình hình mới. Qua hai công trình:”Trí thức Việt
Nam thực tiễn và triển vọng” Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
và”Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong công nghiệp
hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001 của Phạm Tất
Dong, tác giả đã làm rõ được quan niệm về trí thức, sự hình thành của trí
thức Việt Nam, làm rõ ưu, nhược điểm của đội ngũ trí thức cũng như vai
trò và nhiệm vụ của trí thức đối với sự phát triển của đất nước từ đó đề
xuất những định hướng trong hoạch định chính sách để xây dựng đội ngũ
trí thức Việt Nam giai đoạn 2000 - 2010. “Đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với trí thức nước ta hiện nay” của Ngô Huy Tiếp, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008 tác giả đã làm rõ phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với đội ngũ trí thức. Tác giả còn giải quyết được vấn đề về
thực trạng, mục tiêu, phương hướng và giải pháp đổi mới đối với đội ngũ
trí thức Việt Nam. “Kinh nghiệm của một số nước về phát triển giáo dục
và đào tạo khoa học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức” của
nhóm tác giả Vũ Ngọc Hải, Đặng Ứng Vận, Đào Thái Lai, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2010. Đây là một công trình đồ sộ dày đến 535 trang,
3
công trình đã tổng quan kinh nghiệm phát triển giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ gắn với xây dựng đội ngũ trí thức ở một số nước như:
Đức, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Xingapo, Trung Quốc và Việt Nam.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết về trí thức như: “Quan điểm và chính
sách của V.I. Lênin đối với trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa” của
Trịnh Quốc Tuấn, Nghiên cứu lý luận, số 4 năm 1995; “Những bài học từ

quan điểm của Lênin về trí thức', Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 4 năm
1996; “Bài học từ những quan điểm của Hồ Chí Minh về trí thức”, Tạp chí
Lịch sử Đảng, số 2 năm 2001; “Trí thức trong khối liên minh công - nông - trí
vì sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, tháng 11 năm
1999 “Bài học từ những quan điểm của chủ nghĩa Mác về trí thức” trong
cuốn “Học thuyết Mác với sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội năm 2003 của Phan Thanh Khôi, Trong đó, các tác giả đã
đi sâu nghiên cứu các vấn đề: bản chất giai cấp của trí thức, chính sách sử
dụng các chuyên gia tư sản, cải tạo trí thức cũ, đào tạo trí thức mới, xây dựng
khối liên minh công - nông - trí thức, các giải pháp phát huy vai trò của trí
thức. “Hà Tĩnh với công tác xây dựng đội ngũ trí thức” của Lê Công
Lương Tạp chí Cộng sản số 16 năm 2008. Bên cạnh đó còn có nhiều luận
văn, luận án và công trình khoa học, bài viết được đăng trên các Tạp chí
liên quan ít nhiều đến vấn đề trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa mà tác giả luận văn chưa có điều kiện để tiếp cận.
Những công trình nghiên cứu trên đã đi sâu và làm rõ quan niệm về trí
thức, vai trò vị trí và những định hướng để xây dựng đội ngũ trí thức trong
lịch sử cũng như trong quá trình xây dựng phát triển kinh tế, xã hội ở nước
ta hiện nay. Tuy nhiên, trên thực tế, chưa có một đề tài khoa học, một công
trình nghiên cứu nào đề cập đến đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh dưới góc độ
luận văn thạc sĩ Triết học. Do đó, đề tài nghiên cứu của tôi không trùng
lặp với bất kỳ công trình khoa học nào trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Làm rõ sự cần thiết và đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển đội
ngũ trí thức ở Hà Tĩnh một cách hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Khái quát quan điểm cơ bản của triết học Mác–Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức.

- Làm rõ thực trạng của đội ngũ trí thức Hà Tĩnh hiện nay.
4
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu để phát triển đội ngũ trí thức Hà
Tĩnh, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
trong giai đoạn hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận: Đề tài dựa trên nền tảng lý luận về trí thức và vai trò của
đội ngũ trí thức trong kho tàng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đồng thời,
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh có ý
nghĩa là cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu chủ đề luận văn một cách đúng
hướng và sâu sắc.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp luận
biện chứng duy vật vào nghiên cứu lịch sử xã hội về vấn đề trí thức.
Đồng thời luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung
như: phương pháp lôgic và lịch sử, phương pháp phân tích và tổng hợp,
phương pháp điều tra, thống kê, thu thập và xử lý số liệu Để triển
khai tốt nội dung đề tài, tác giả quán triệt quan điểm lịch sử cụ thể,
khách quan, biện chứng vào trong quá trình nghiên cứu.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về tri thức là quan điểm của của triết học Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức.
Về không gian và thời gian là đội ngũ trí thức đang làm việc trong tỉnh
Hà Tĩnh do tỉnh quản lý từ Đại hội lần thứ VIII năm 1996 của Đảng
Cộng sản Việt Nam cho đến nay.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ một số quan điểm của triết học Mác -
Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức. Luận văn đã
cơ bản xây dựng được khái niệm về đội ngũ trí thức.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính khả thi để xây dựng và phát
triển đội ngũ trí thức Hà Tĩnh hiện nay.

- Luận văn góp phần làm luận cứ khoa học cho việc xây dựng chính
sách đối với đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh và làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
hai chương, năm tiết.
5
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ
CHÍ MINH VÀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
1.1. Quan điểm về đội ngũ trí thức
1.1.1. Khái niệm về trí thức
Các nhà sáng lập và phát triển chủ nghĩa Mác là những người rất quan
tâm đến trí thức và vấn đề tri thức. Cho nên, trong kho tàng lý luận mà các
ông để lại trí thức là một vấn đề rất lớn và phức tạp đã thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà chính trị và khoa học.
Xét về nguồn gốc thì thuật ngữ “trí thức” xuất phát từ tiếng La Tinh -
Intelligentia nghĩa là thông minh có trí tuệ hiểu biết. Trong tiếng Anh trí
thức là một tính từ có nghĩa là: intelltual, còn danh từ gốc của nó là Intellect.
Trong tiếng Đức thì theo V.I.Lênin viết: Tôi dịch người trí thức, tầng lớp trí
thức theo nghĩa Đức là literat, literatentum bao gồm không phải chỉ các nhà
văn hóa, những người làm nghề tự do nói chung, những đại biểu của lao
động trí óc (brain worker như người Anh nói) để phân biệt với những đại
biểu của lao động chân tay.
Từ khi được các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác quan tâm nghiên cứu,
Quan điểm triết học về trí thức và vai trò trí thức đã được bàn đến với góc
độ sâu sắc và toàn diện hơn. Nhìn chung các ông đã đánh giá, phân tích
nhìn nhận về trí thức như một lực lượng có vai trò to lớn trong sự phát
triển xã hội. C.Mác và Ph.Ănghen cho rằng trí thức là kết quả và sản phẩm
của quá trình phân công lao động vật chất và tinh thần tức là sự phân chia

lao động trí óc và lao động chân tay. Tầng lớp trí thức khác với những
người lao động chân tay trước hết chính là ở chỗ phân công lao động xã
hội quy định.
Như vậy trí thức nói riêng hay tầng lớp trí thức nói chung trong phân
công lao động xã hội đó chính là vị trí của những người hoạt động trên
lĩnh vực “lao động tinh thần” khác với đại đa số quần chúng nhân dân lao
động chân tay trên lĩnh vực “sản xuất vật chất”. Chính xuất phát từ vị trí
do phân công lao động xã hội quy định mà chức năng lao động xã hội quy
định trí thức khác với người lao động chân tay. Trong quan niệm của
V.I.Lênin thì trí thức trước hết là những người lao động trí óc phức tạp,
không “chỉ có các nhà trước tác mà thôi mà còn bao hàm tất cả mọi người
có học thức” lao động sáng tạo, khoa hoc, nghệ thuật để sản xuất ra của cải
vật chất và tinh thần có giá trị cho xã hội. Theo V.I.Lênin “Trí thức không
6
hợp thành một giai cấp độc lập về kinh tế” mà là một tầng lớp xã hội được
hình thành từ nhiều giai cấp, tầng lớp khác.
Xã hội càng phát triển thì tầng lớp trí thức càng có vai trò to lớn, nhất
là trong các lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và văn hóa tư tưởng. Do vậy mà
đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà chính trị và khoa học
góp phần phát triển làm phong phú thêm kho tàng lý luận về trí thức của
chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng và kho tàng tư tưởng nhân loại nói chung.
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm trí thức.
Trong từ điển bách khoa triết học tiếng Nga, (1983) định nghĩa “Trí
thức là “tầng lớp” những người làm nghề lao động phức tạp và thường có
học vấn cao tương ứng, có chức năng sáng tạo, phát triển và phổ biến văn
hóa”. Còn trong cuốn từ điển Nga (1991) viết: “Trí thức đó là những
người có học vấn và có kiến thức chuyên môn trong lĩnh vực khoa học, kỹ
thuật, văn hóa và đang làm nghề lao động phức tạp”. Theo sách “Chiến
lược nhân tài của Trung Quốc”, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội
năm 2009, Tác giả trích trong cuốn “Từ hải” thì trí thức là: “Chỉ những

người, lao động bằng trí não, có trí thức về văn hóa, khoa học - kỹ thuật,
công tác văn nghệ, giáo sư, bác sĩ, biên tập, ký giả hình thành trên cơ sở
xã hội xuất hiện sản phẩm thặng dư và phân chia giai cấp.
Ở nước ta, cho đến nay cũng có rất nhiều khái niệm khác nhau về trí
thức. Chẳng hạn, theo “Từ điển tiếng Việt” do Viện ngôn ngữ biên soạn và
Nhà Xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1994 định nghĩa thì: “Trí thức là
người chuyên môn làm việc trí óc và có trí thức chuyên môn cần thiết cho
hoạt động nghề nghiệp của mình”. “Từ điển triết học” viết trí thức là “Tập
đoàn xã hội gồm những người làm nghề lao động phức tạp. Giới trí thức
bao bao gồm: kỷ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo,
người làm công tác khoa học và bộ phận lớn viên chức”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, với cách
tiếp cận khác nhau, mỗi quốc gia mỗi nhà khoa học có những quan niệm
khác nhau về trí thức. Nhưng dù tiếp cận ở góc độ nào tựu trung lại thì các
định nghĩa về trí thức đó thường đề cập tới hai dấu hiệu cơ bản là: thứ nhất
trí thức là lao động trí tuệ, có chuyên môn sâu; Thứ hai trí thức là những
người có học vấn cao.
Hồ Chí Minh, sinh thời người đặc biệt quan tâm đến tầng lớp trí thức.
Vì vậy, Người đã đưa ra quan niệm sâu sắc về trí thức và diễn đạt một
cách mộc mạc, dễ hiểu. Trong “Sữa đổi lối làm việc”, Người viết: “Trí
thức là gì”, “trí thức là hiểu biết, trong thế giới có hai thứ hiểu biết: một là
hiểu biết sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai là hiểu
7
biết đấu tranh dân tộc và đấu tranh xã hội. Khoa học xã hội từ đó mà ra.
Ngoài hai cái đó không có trí thức nào khác”. “Một người học xong đại
học, có thể gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm
công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại:
công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nữa. Trí
thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn
thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng

vào thực tế”. Như vậy là, Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tiêu chí đầu tiên
của người trí thức là người đó phải có trình độ cử nhân “Một người học
xong đại học có thể gọi là có trí thức” nhưng điều này chưa đủ, mà “muốn
thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng
vào thực tế”. Có nghĩa rằng, học vấn đại học mới chỉ là điều kiện cần,
quan trọng là phải sử dụng có hiệu quả tri thức trong đời sống xã hội, phục
vụ dân sinh.
Tiếp thu quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và Hồ Chí Minh về trí
thức. Tại hội nghị Trung ương 7 khóa X, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xây
dựng được khái niệm trí thức như sau: “Trí thức là những người lao động
trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng
lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những
sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng, chúng ta có thể khẳng định: Trí thức
là những người lao động trí óc, có hiểu biết sâu rộng về một hoặc một số
lĩnh vực khoa học - công nghệ, văn hóa - nghệ thuật, quản lí kinh tế - xã
hội, biết vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết những
vấn đề lí luận và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình vì
lợi ích chung của cộng đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân.
Tóm lại, đã có nhiều quan niệm về trí thức nhưng có lẽ vẫn chưa hẳn đã
dừng lại ở đây. Những định nghĩa về trí thức có thể một ngày nhiều hơn và
hoàn chỉnh hơn đó là điều hoàn toàn tự nhiên. Quan niệm của các nhà kinh
điển chủ nghĩa Mác - Lênin về trí thức có ý nghĩa phương pháp luận to lớn
cho việc nghiên cứu, luận bàn công tác tổ chức, lãnh đạo, phát triển đội
ngũ trí thức. Khái niệm về trí thức được Đảng ta đưa ra trong “Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội
ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước” đã giúp chúng ta có hướng nghiên cứu mang tính định hướng cho
sự phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và của tỉnh Hà Tĩnh nói
riêng trong giai đoạn hiện nay.

8
1.1.2. Khái niệm về đội ngũ trí thức
Khái niệm “đội ngũ” được xuất phát từ thuật ngữ quân sự, đó là tổ chức
gồm nhiều người tập hợp thành một lực lượng hoàn chỉnh. Ở nước ta, từ
các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII trở về trước thuật ngữ “tầng lớp trí
thức” được sử dụng phổ biến. Trong các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ
IX, lần thứ X sử dụng thuật ngữ “đội ngũ trí thức” nhằm nhấn mạnh đặc
trưng lao động của trí thức với sự có mặt ngày càng đông đảo của trí thức
trên các lĩnh vực, địa bàn trong các giai tầng xã hội. Từ đó khái niệm “đội
ngũ” được sử dụng rộng rãi trong các tổ chức như đội ngũ cán bộ, đội ngũ
cán bộ khoa học, đội ngũ nghệ sỹ, đội ngũ trí thức….Trong cuốn “Từ điển
tiếng Việt” do Nhà Xuất bản Đà Nẵng ấn hành năm 2009, khái niệm đội
ngũ được hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, là “khối đông người được tập hợp
và tổ chức thành một lực lượng có quy cũ”. Thứ hai, là “tập hợp một số
đông người có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp”. Như vậy, đội ngũ có
thể được hiểu là tập hợp một số đông người có cùng chức năng, nhiệm vụ
và nghề nghiệp, có sự thống nhất về mặt tổ chức. Nhờ thống nhất về mặt
tổ chức nên họ thống nhất về cả mặt hành động và mục tiêu. Hay nói cách
khác, đội ngũ là tập hợp một số người thành một lực lượng thống nhất về
mặt tổ chức, cùng nhau hành động thực hiện một hay một số chức năng,
nhiệm vụ nhất định để cùng đem về kết quả cụ thể nào đó.
Như vậy, ta có thể hiểu: Đội ngũ trí thức là tập hợp những người lao
động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có
năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, thành
một lực lượng đông đảo thống nhất về mặt tổ chức, hành động để cùng
nhau thực hiện mục tiêu đó là tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật
chất có giá trị đối với xã hội một cách có hiệu quả nhất.
Đội ngũ trí thức là một tập hợp mở và đa dạng, không giống bất kì một
giai tầng nào khác trong xã hội như nông dân, công nhân, thợ thủ công,
quân nhân, thương nhân hay người buôn bán nhỏ. Đội ngũ trí thức là tập

hợp tất cả bất kỳ ai trong các giai tầng xã hội miễn là có học vấn cao, có
hiểu biết sâu rộng và tham gia lao động trí óc, có tư duy độc lập, sáng tạo
cống hiến chất xám cho xã hội. Do đội ngũ trí thức là tập hợp số đông
người lao động xuất thân từ nhiều giai tầng khác nhau trong xã hội nên
tính thống nhất về mặt tổ chức của họ không cao. Tuy nhiên, một bộ phận
trí thức nhỏ nào đó cũng có ít nhiều tính giác ngộ về mặt tổ chức nhưng
chịu sự chi phối của giai cấp thống trị.
Khi nghiên cứu sự hình thành các giai tầng khác nhau trong xã hội, lý
luận của chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng: địa vị khác nhau của các tập
9
đoàn người trong mỗi phương thức sản xuất đã tạo nên các giai cấp khác
nhau. Tiền đề xuất hiện của trí thức là sự phân công giữa lao động trí óc và
lao động chân tay, trên cơ sở mở rộng và phát triển những điều kiện sản
xuất vật chất và tình thần của xã hội. Ra đời trong xã hội chiếm hữu nô lệ,
trí thức nhanh chóng trở thành một tầng lớp xã hội đông đảo vào thời kỳ tư
bản chủ nghĩa. Chính sự phát triển của các quan hệ tư bản đòi hỏi tăng
nhanh khối lượng những người làm việc trí óc có trình độ chuyên môn
cao. V.I.Lênin chỉ rõ “Chủ nghĩa tư bản đã nâng cao đặc biệt nhanh số
lượng các viên chức đặt ra yêu cầu rất lớn đối với tầng lớp trí thức”. Nhờ
kết quả của cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật và chỉ từ phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa - nền sản xuất lớn công nhiệp, áp dụng rộng rãi khoa
học - kỹ thuật thì chất xám mới trở thành hàng hóa phổ biến, người trí thức
mới thực sự sống và hoạt động chủ yếu bằng giá trị sản phẩm trí tuệ của
mình. Điều này cũng có nghĩa là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
là yếu tố quyết định đến sự hình thành, phát triển cả về số lượng và chất
lượng của đội ngũ trí thức. Sự ra đời của tầng lớp trí thức mang tính lịch
sử và biểu hiện bước phát triển mới của xã hội. Từ đó, lao động trí óc nằm
trong chỉnh thể không thể thiếu được trong hệ thống lao động xã hội.
Lực lượng trí thức được bổ sung từ nhiều thành phần xã hội khác nhau,
từ cả giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Vì vậy, trong tầng lớp trí thức

xuất hiện những nhóm khác nhau, đại biểu cho quan điểm và quyền lợi
của các giai tầng khác nhau. Trong các xã hội mà còn tồn tại tình trạng áp
bức bóc lột, như xã hội Phong kiến hay xã hội tư bản thì nhìn chung người
trí thức và đội ngũ trí thức thường gắn với tầng lớp thượng lưu và giai cấp
bóc lột, bởi đại bộ phận trí thức đều xuất thân từ những gia đình khá giả,
có điều kiện học tập đến nơi đến chốn và cũng có điều kiện phát triển trí
tuệ một cách tự do. Còn trong xã hội Việt Nam thì phần lớn trí thức xuất
thân từ giai cấp công nhân và nhân dân lao động trở thành những người trí
thức chân chính phục vụ cho lợi ích nhân dân.
Quan niệm về trí thức đã được đặt ra rất sớm trong lịch sử dân tộc Việt
Nam, truyền thống tôn trọng trí thức, nhân tài được tiếp nối từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Đến thời đại Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã kế thừa những giá
trị truyền thống của dân tộc và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác -
Lênin về trí thức trong sự nghiệp cách mạng của Việt Nam. Vì vậy, quan điểm
của người về trí thức, đội ngũ trí thức rất toàn diện và sâu sắc.
Qua nghiên cứu những trước tác của Hồ Chí Minh, có thể rút ra một
số nội dung: Thứ nhất, để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức mới,
theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phải: “Đào tạo đội ngũ trí thức mới, cải tạo trí
10
thức cũ, công nông hóa trí thức, trí thức công nông hóa”. Thứ hai, để sử
dụng nhân tài trí thức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết phải nhìn vào
việc hiểu biết thấu đáo nguyện vọng, khả năng, mặt mạnh và mặt yếu của họ.
Trong chính sách đối với trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện phương
châm: Dân chủ, cởi mở để họ được trân trọng, trọng dụng trong lao động,
sáng tạo. Để sử dụng trí thức theo Hồ Chí Minh phải chú trọng tạo các
điều kiện vật chất cần thiết, đãi ngộ thoả đáng cho nghiên cứu, phát minh
khoa học dưới mọi hình thức. Người luôn luôn coi trọng, động viên,
khuyến khích họ cống hiến được nhiều nhất cho Đảng và nhân dân bên
cạnh đó người cũng không quên nhắc nhở: “Nhưng đôi khi trí thức vì thế
mà kêu ngạo, lên mặt. Chứng kêu ngạo lên mặt rất có hại cho họ. Nó ngăn

trở họ tiến bộ”.
Những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ trí thức
cách mạng vẫn giữ nguyên giá trị đối với chúng ta hôm nay trong việc hoạch
định và thực thi chiến lược đào tạo, sử dụng đội ngũ trí thức, nhân tài cho sự
nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề trí thức, Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm có
những nhận thức đúng đắn về vị trí và vai trò của trí thức trong sự nghiệp
cách mạng và giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ tổ quốc. Coi trí thức là một “động lực” của cách mạng, ngay trong văn
kiện đầu tiên, Đảng đã đặt vấn đề phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản trí
thức, lôi kéo họ về hàng ngũ của giai cấp công nhân, nông dân và nhân dân
lao động, tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo.
Trong Chính sách của Đảng đối với trí thức (1957), Đảng ta đã nêu rõ: trí
thức là vốn quý của dân tộc. Không có trí thức hợp tác với công nông thì
cách mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt
Nam mới không thể hoàn thành được. Quá trình lãnh đạo cách mạng, với sự
tham gia tích cực của đội ngũ trí thức, Đảng ta ngày càng nhận thức đúng
đắn và đánh giá cao vị trí, vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng.
Hội nghị Trung ương lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Khóa X ra Nghị
quyết về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết chỉ rõ: “ hoàn thiện cơ chế chính sách
mới nhằm phát huy hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức”.
1.2. Vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã đánh giá cao vai trò của trí thức, trước hết là
trí thức trong chủ nghĩa tư bản, đối với sự phát triển xã hội. Sự hình thành
11
chủ nghĩa tư bản đã dần tước hết “Vòng hào quang thần thánh” mà chế độ
Phong kiến đã khoác lên cho nhân dân lao động. Trong quá trình phát triển

của chủ nghĩa tư bản, trí thức đã đóng vai trò tích cực. Trí thức tham gia
vào quá trình cách mạng hóa lực lượng sản xuất để hình thành nên nền sản
xuất công nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa. Do vậy, góp phần vào phát triển
văn hóa văn minh nhân loại lên một bước mới.
Tất nhiên, vai trò của trí thức đối với phát triển xã hội trong chủ nghĩa
tư bản bị hạn chế rất nhiều. Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”
C.Mác và Ph.Ăngnghen viết: “Bác sĩ, luật gia, tu sĩ, thi sĩ, bác học đều bị
giai cấp tư sản biến thành những người làm thuê được trả lương của nó”.
Ngày nay, trong các nước tư bản chủ nghĩa, số lượng trí thức tăng lên
nhiều. Thành phần trí thức phong phú và phân hóa phức tạp hơn. Nhưng
trong thực tế chỉ có một số lượng trí thức đã tư sản hóa, còn lại phần lớn là
những người lao động làm thuê và bị giai cấp tư sản bóc lột không kém
phần nặng nề. Nói chung trí thức vẫn là một lực lượng cách mạng xã hội.
C.Mác - Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin còn đặc biệt đánh giá cao vai trò, vị
trí của tầng lớp trí thức trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ
xây dựng chủ nghĩa xã hội V.I.Lênin cho rằng, cùng với việc tạo dựng
tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của giai cấp công nhân là phải
tiến hành cải tạo lực lượng trí thức của chế độ cũ. Bởi vì, chủ nghĩa xã hội
cần một lực lượng trí thức lớn hơn cả chủ nghĩa tư bản để không chỉ điều
hành bộ máy nhà nước, mà còn xây dựng và quản lý toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Những người Cộng sản phải biết học tập tiếp thu những tinh hoa
của chủ nghĩa tư bản, phải biết sử dụng các chuyên gia tư sản trong quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. V.I.Lênin sẵn sàng đổi một tá người
Cộng sản không biết làm việc lấy một chuyên gia tư sản giỏi. Từ việc xác
định tầm quan trọng của trí thức trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
V.I.Lênin chủ trương phải xây dựng một đội ngũ trí thức từ giai cấp công
nhân và nhân dân lao động, đồng thời cải tạo tầng lớp trí thức củ theo
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thấm nhuần quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin
về vai trò của trí thức đối với sự phát triển xã hội, Hồ Chí Minh không

những khẳng định, trí thức là một bộ phận trong lực lượng cách mạng mà
“trí thức còn là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở
Việt Nam càng như thế”. Không có trí thức hợp tác với công nông thì cách
mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam
mới sẽ không hoàn thành được.
12
Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ trí thức ngày càng khẳng định được
vai trò to lớn của mình và được thể hiện những điểm sau:
Thứ nhất: Đội ngũ trí thức xây dựng những luận cứ khoa học góp
phần quan trọng trong việc hoạch định, phản biện và hoàn thiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần
làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề
phát sinh trong sự nghiệp đổi mới
Thứ hai: Trí thức là lực lượng có vai trò quan trọng, quyết định trong
sự nghiệp giáo dục và đào tạo, trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng
cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài
Thứ ba: Trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần thực hiện nội dung
của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Thứ tư: Trí thức là lực lượng trực tiếp góp phần duy trì và phát triển
những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu nền văn hóa, văn
minh nhân loại
Thứ năm: Trí thức là lực lượng hàng đầu đóng vai trò thực hiện tư
vấn giám định xã hội về khoa học và công nghệ để giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Do nhận thức được tầm quan trọng của tri thức con người đối với sự
phát triển xã hội mà vấn đề trí thức và vai trò của trí thức đều được các
nhà kinh điển chủ nghĩa Mác-Lênin quan tâm nghiên cứu từ rất sớm.
Trong mọi thời đại trí thức luôn đóng vai trò đặc biệt quan trọng cho sự
phát triển. Trí thức không chỉ có vai trò quan trọng trong cuộc cách mạng

dân tộc dân chủ mà càng có vai trò to lớn trong cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Xã hội càng phát triển thì vai trò của trí thức càng quan trọng, điều
đó cũng có nghĩa là trách nhiệm của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển
xã hội càng nặng nề hơn. Đội ngũ trí thức là tầng lớp duy nhất có khả năng
giúp giai cấp thống trị nói chung, giúp Đảng và Nhà nước ta nói riêng
trong hoạch định đúng chủ trương, đường lối, chính sách cách mạng. Dĩ
nhiên khi nói đến đội ngũ trí thức là chỉ bao gồm những trí thức đã giác
ngộ cách mạng.
Vì thế, quan tâm hơn nữa đến xây dựng đội ngũ trí thức vẫn là trách
nhiệm lớn lao và lâu dài của Đảng và nhà nước, nhân dân ta nói chung, Hà
Tĩnh nói riêng.
13
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY
2.1. Khái quát về lịch sử, kinh tế - xã hội Hà Tĩnh
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng Duyên hải Bắc Trung Bộ, có tọa độ địa lý
từ 17
0
53'50'' đến 18
0
45'40'' vĩ độ Bắc và 105
0
05'50'' đến 106
o
30'20'' kinh
độ Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Nghệ An

. Phía Nam giáp Quảng Bình


. Phía
Đông giáp biển. Phía Tây giáp với nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Lào. Nằm trong dãi đất hẹp của “khúc ruột miền trung”, Hà Tĩnh không
phải là một tỉnh có diện tích lớn. Với hơn 6025,6 km
2
chiếm 1,8% và
đứng thứ 20 trong 64 tỉnh thành của cả nước, trong đó chiếm gần 80%
diện tích là đồi núi nhưng vị trí của Hà Tĩnh có nhiều tiềm năng phát
triển và mở rộng mối quan hệ liên vùng.
Hà Tĩnh là một địa phương giàu truyền thống văn hóa, truyền thống
yêu nước và cách mạng, là quê hương của nhiều danh nhân văn hóa - lịch
sử nổi tiếng và nhiều lãnh tụ xuất sắc của Đảng. Con người Hà Tĩnh thật
thà, chất phác, cần cù, chịu khó. Cuộc sống sản xuất, đấu tranh với thiên
tai, giặc dã khiến con người nơi đây vừa gan dạ, vừa lạc quan yêu đời, gắn
với một nền văn nghệ dân gian dồi dào mà đậm đà chân chất. Tuy nhiên
có lẽ cũng do hoàn cảnh khó khăn về mặt tự nhiên, thiên nhiên không có
sự ưu đãi cho vùng đất này. Nên đã hình thành ở con người Hà Tĩnh một
lối sống chịu khổ hơn là chịu khó, người dân chỉ quen với cách thức làm
ăn nhỏ lẽ theo lối tiểu nông và tư tưởng bằng lòng với hoàn cảnh, ít có sự
vươn lên. Trong hoàn cảnh khó khăn thì bằng nổ lực khắc phục, nhưng khi
hoàn cảnh đã có những thuận lợi nhất định thì sinh ra thói tự mãn, bằng
lòng với những gì đã có. Cái mới, cái tiến bộ rất khó xâm nhập vào vùng
đất này, bởi tư tưởng bảo thủ, cục bộ. Chính những thói quen trong tư
tưởng đó cũng góp phần làm cho sự kém phát triển của địa phương.
Bên cạnh đó, có thể khẳng định, hiếu học là truyền thống quý báu, được tiếp
nối liên tục, không hề đứt đoạn, từ xưa đến nay của con người Hà Tĩnh. Trong
suốt chiều dài lịch sử, bất kỳ ở thời đại nào, cùng với những anh hùng hào kiệt
của dân tộc. Hiện nay truyền thống hiếu học đang được phát huy mạnh mẽ ở
mọi gia đình, dòng họ, thôn, xã, vùng, miền trong phạm vi toàn tỉnh.
Kể từ ngày tái lập (9/1991), trải qua hai thập kỷ xây dựng và phát triển.

Hà Tĩnh đã tạo được những chuyển biến to lớn, tương đối toàn diện trên
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, công tác xây dựng Đảng,
xây dựng hệ thống chính trị. Mức tăng trưởng bình quân: giai đoạn 2001 -
14
2005 đạt 8.85% và giai đoạn 2005 - 2010 là 9,6%. Trong tương lai không
xa Hà Tĩnh sẽ trở thành một trung tâm công nghiệp ở khu vực miền trung.
Vì vậy, Hà Tĩnh cần phải đầu tư xây dựng và phát triển nguồn nhân lực
nói chung và đội ngũ trí thức nói riêng để đáp ứng được với yêu cầu phát
triển của nền kinh tế.
2.2. Thực trạng đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh hiện nay
2.2.1. Về số lượng, chất lượng và cơ cấu
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, đội ngũ trí thức Hà Tĩnh đã có
sự trưởng thành nhanh chóng cả về số lượng lẫn chất lượng. Nếu như năm
1996 toàn tỉnh chỉ mới có khoảng 4123 người có trình độ đại học trở lên,
trong đó cử nhân là: 4056, thạc sĩ: 56, tiến sĩ: 9, phó giáo sư: 2 thì đến 2009
đã có 26.720 người có trình độ cử nhân 568 thạc sĩ, 30 tiến sĩ, 5 giáo sư và
phó giáo sư. Bên cạnh đó, còn một lực lượng khá đông có trình độ tương
đương bằng con đường tự học tạo ra xu hướng trí thức hóa lãnh đạo, trí thức
hóa công nhân, trí thức hóa nông dân và giới kinh doanh ngày càng rõ rệt.
Ngoài ra hàng năm đội ngũ trí thức Hà Tĩnh còn được bổ sung bởi lực lượng
sinh viên tốt nghiệp đại học ngày càng tăng. Tuy vậy, so với yêu cầu của sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì với số lượng đó của đội
ngũ trí thức Hà Tĩnh vẫn chưa đủ đáp ứng.
Bên cạnh, sự tăng lên về số lượng thì chất lượng của đội ngũ trí thức
Hà Tĩnh cũng có bước chuyển biến rõ rệt. Số trí thức có trình độ thạc sĩ,
tiến sĩ, phó giáo sư ngày càng tăng, nếu như năm 1999 mới chỉ có 97
thạc sĩ và 14 tiến sĩ thì đến năm 2009 đã tăng lên 568 thạc sĩ và 30 tiến sĩ
và 5 giáo sư và phó giáo sư. Thêm vào đó, trình độ chuyên môn, kỹ năng
ngoại ngữ, tin học cũng không ngừng được nâng cao. Tuy vậy, Năng lực
đội ngũ trí thức Hà Tĩnh chưa đáp ứng được đòi hỏi của tiến trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa. “Cơ cấu đội ngũ trí thức thiếu cân đối giữa
các khối, các ngành nghề”. Khối đảng, đoàn thể: Tổng biên chế 1136
người, trong đó trí thức có trình độ đại học 751 người, sau đại học và thạc
sĩ 15 người, tiến sĩ 2 người; Khối quản lý hành chính: Tổng biên chế 2248
người, trong đó trí thức có trình độ đại học 1.754 người, sau đại học và
thạc sĩ 40 người, tiến sĩ 3 người; Khối sự nghiệp nhà nước: Tổng biên chế
22609 người, trong đó đại học 6.181 người, sau đại học và thạc sĩ 197
người, tiến sĩ 13 người. Qua đó cho ta thấy sự phân bố cán bộ khoa học có
trình độ cao vẫn còn bất hợp lý. Bên cạnh đó, sự phân bố đội ngũ trí thức
trong từng ngành cũng không đồng đều nhau. Trí thức ở ngành giáo dục và
y tế chiếm tới 72%. Sự mất cân đối trong giới tính và nhóm tuổi cũng gây
khó khăn trong công tác sử dụng, phát triển đội ngũ trí thức, phát huy tối
15
đa sức mạnh của các cá nhân trong việc góp phần thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội trong tỉnh. Năm 2009 đội ngũ trí thức nam giới (chiếm 61,2%)
cao hơn đội ngũ trí thức nữ giới (chiếm 38,8%), điều này cho thấy tỉ lệ nữ
trí thức Hà Tĩnh còn thấp gây ra sự mất cân đối trong sử dụng và tạo ra sự
mất bình đẳng về giới trong xã hội, hạn chế vai trò của phụ nữ.
2.2.2. Về đào tạo đội ngũ trí thức
Công tác đào tạo đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh trong thời gian qua, đặc
biệt là từ sau nghị quyết 27 khóa X của Bộ chính trị (8/2008) đã được tỉnh
quan tâm. Nhờ đó đội ngũ trí thức Hà Tĩnh đã có sự phát triển vượt bậc về
số lượng, chất lượng, có nhiều cống hiến, đóng góp vào sự phát triển kinh
tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh nhà.
Đội ngũ trí thức của Hà Tĩnh thời gian qua được đào tạo theo nhiều
nguồn khác nhau, phương thức đào tạo đa dạng. Trước đây chưa có trường
đại học đội ngũ trí thức Hà Tĩnh được đào tạo chủ yếu ở ngoài tỉnh. Sau
nhiều năm chuẩn bị, năm 2007, Đại học Hà Tĩnh đã được thành lập, là cơ
sở để phát triển nguồn nhân lực nói chung và đội ngũ trí thức nói riêng
Tuy nhiên, do thiếu sự quy hoạch đào tạo lâu dài, lại mới tách tỉnh nên

đội ngũ trí thức bậc cao vừa ít lại vừa cao tuổi, điều này sẽ dẫn đến sự hụt
hẫng khi lớp cán bộ trẻ kế cận chưa đáp ứng được. “Số đông trí thức được
đào tạo theo cơ chế cũ, vừa học vừa làm hụt hẫng về kiến thức hệ thống,
do vậy đòi hỏi cần phải tiếp tục đào tạo, đào tạo lại trong thời gian tới”.
2.2.3. Về sử dụng đội ngũ trí thức
Thực hiện chủ trương của Bộ chính trị, Đảng bộ Hà Tĩnh trong thời
gian qua cũng rất quan tâm đến công tác sử dụng đội ngũ trí thức, nhằm
phát huy nguồn lực trí tuệ để phát triển. Tuy nhiên, trước yêu cầu đẩy
mạnh công nghiệp hóa và hội nhập kinh tế, thì vấn đề sử dụng trí thức ở
Hà Tĩnh hiện nay còn nhiều bất cập, hạn chế. Chưa phát huy hết được
nguồn lực trí tuệ để phát triển kinh tế - xã hội. Nguyên nhân của hạn chế
trên là do chưa coi trọng công tác tập hợp, tổ chức trí thức thành một đội
ngũ nòng cốt để phát triển lực lượng sản xuất. Hiện nay, trong nhiều lĩnh
vực số cán bộ được làm công việc đúng chuyên môn, chuyên ngành đào
tạo không nhiều do vậy đã phần nào ảnh hưởng tới sự phát huy năng lực
cá nhân của họ. Cùng với quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra ngày càng
mạnh mẽ thì thực tế hiện nay đội ngũ trí thức trẻ có năng lực, được đào tạo
cơ bản ít được làm việc trong các cơ quan Đảng và Nhà nước. Mặt khác,
trong công tác quản lí và sử dụng đội ngũ trí thức còn rất lỏng lẻo. Một số
cán bộ của Đảng và chính quyền chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò cũng
như chưa đánh giá, sử dụng đúng trình độ, năng lực của trí thức đã làm
16
hạn chế sự cống hiện của đội ngũ trí thức cho xã hội. Hiện nay, lĩnh vực
khoa học xã hội và nhân văn tỉnh vẫn không thu hút được nhiều trí thức, dẫn
đến tình trạng thừa cứ thừa nhưng thiếu vẫn cứ thiếu. Trong khi đó, đội ngũ
trí thức thuộc lĩnh vực khoa học kỹ thuật, tự nhiên của tỉnh vẫn còn mỏng.
Điều này một mặt gây ra sự thất thoát đội ngũ trí thức, mặt khác làm giảm
hiệu quả sử dụng lực lượng trí thức. Việc triển khai thực hiện chính sách đãi
ngộ, tôn vinh đối với trí thức, khai thác trí thức Việt kiều chưa được thực
hiện một cách thực sự hiệu quả. Để khắc phục được những hạn chế này, tỉnh

đã ban hành nhiều chủ trương chính sách và bước đầu đã đạt được những
kết quả khả quan. Qua thực hiện chính sách khuyến khích đào tạo, bồi
dưỡng, thu hút nhân tài của tỉnh bước đầu đã khuyến khích được một bộ
phận cán bộ, công chức tích cực học tập nâng cao trình độ về lý luận chính
trị, chuyên môn, nghiệp vụ và năng lực quản lý. Đã thu hút được một số
sinh viên tốt nghiệp đại học loại giỏi, thạc sĩ về công tác tại tỉnh.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách đào tạo,
thu hút sử dụng cán bộ vẫn còn một số tồn tại, hạn chế nhất định. Chính
sách “chiêu hiền, đãi sĩ” của tỉnh trong những năm vừa qua mặc dù đã có
những đổi mới nhưng chỉ mới dừng ở một vài chính sách cơ bản, chỉ dừng
lại ở phong trào hô hào là chính, nhất thời tại từng thời điểm, không
thường xuyên liên tục, chưa thực sự đi vào cuộc sống, chưa có một quy
hoạch xây dựng, thu hút đội ngũ trí thức mang tầm quy mô và chiến lược.
Chính sách đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu
số có kết quả chưa cao. Tỉnh cũng chưa thu hút được lực lượng cán bộ có
học hàm, học vị cao như giáo sư, tiến sĩ, cán bộ chuyên môn giỏi, chuyên
gia đầu ngành về công tác tại tỉnh do điều kiện phát triển kinh tế của tỉnh
còn nhiều khó khăn, môi trường hoạt động ở tỉnh chưa phù hợp với ngành
nghề và mức thu nhập thấp. Vì vậy, trong vấn đề sử dụng đội ngũ trí thức
của tỉnh hiện nay đang tồn tại nhiều bất cập: từ công tác quản lý, công tác
đào tạo đến việc sử dụng. Hiện nay rất nhiều sinh viên con em của tỉnh tốt
nghiệp đại học vẫn chưa kiếm được việc làm. Đây là một sự lãng phí lớn
về nguồn nhân lực qua đào tạo của tỉnh.
2.2.4. Đánh giá về đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh hiện nay
“Cùng với sự phát triển về kinh tế - xã hội của tỉnh nhà, đặc biệt là về
giáo dục và đào tạo, số lượng trí thức Hà Tĩnh được bổ sung nhanh chóng.
Đến năm 2009, thì toàn tỉnh đã có đến 26720 có trình độ đại học, 568 thạc
sĩ, 30 tiến sĩ và 5 giáo sư và phó giáo sư. Từ quan điểm phát triển của triết
học ta thấy rằng, đội ngũ trí thức Hà Tĩnh phát triển tuần tự từ năm 1992
đến năm 2002, bắt đầu tăng nhanh từ 2002 đến 2006. Và phát triển mạnh

17
mẽ từ năm 2007 - 2009, khi mà các điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi nền
kinh tế tăng trưởng mạnh, đầu tư cho việc xây dựng nguồn nhân lực của
tỉnh được chú trọng, lúc này tỉnh đã có những chính sách để bồi dưỡng,
khuyến khích thu hút nhân tài.
Đội ngũ trí thức Hà Tĩnh có phẩm chất đạo đức, lối sống lành mạnh,
gắn bó với Đảng và nhân dân. Trí thức Hà Tĩnh có truyền thống yêu nước,
truyền thống hiếu học, đặc biệt là tinh thần vượt khó, chịu đựng gian khổ,
vươn lên trong học tập, lao động sáng tạo. Trước những khó khăn chung
của đất nước và của tỉnh nhà, đại đa số trí thức vẫn giữ được tinh thần
nhiệt huyết cách mạng, đoàn kết cùng nhau đóng góp trí tuệ và sức lực vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quê hương. Trí thức Hà Tĩnh đã có
những đóng góp quan trọng trong việc tổng kết thực tiễn, phát triển lý
luận, tham gia hoạch định các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, quốc
phòng an ninh của tỉnh nhà trong thời kỳ mới.
Tuy nhiên, nhìn một cách toàn diện chúng ta thấy rằng, đội ngũ trí thức Hà
Tĩnh còn nhiều bất cập, hạn chế. Bên cạnh việc số lượng chưa đáp ứng đủ yêu
cầu của sự phát triển thì đội ngũ trí thức Hà Tĩnh hiện nay vẫn có cơ cấu chưa
đồng bộ. Trí thức tập trung chủ yếu vào hai ngành chính là giáo dục - đào tạo
và y tế. Trí thức bậc cao làm việc tại Hà Tĩnh lại không nhiều và đang thiếu
các chuyên gia giỏi, nhất là ở các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngoại ngữ, tin học.
Một điều đáng quan tâm nữa là do tỉnh vừa mới tái lập, nên đội ngũ trí thức bị
phân tán nhiều. “Trí thức Hà Tĩnh chưa có sự phối hợp cao trong các hoạt
động khoa học công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn, từ đó khó tập trung
được năng lực trí tuệ tập thể để hoàn thành tốt nhiệm vụ. Một bộ phận trí thức
chưa yên tâm với công việc, thiếu sự say mê sáng tạo, thậm chí còn có những
hiện tượng kìm giữ nhau, làm suy giảm lòng tin đối với cấp trên và nhân
dân”. Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của việc đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, đòi hỏi Hà Tĩnh phải đầu tư xây dựng nguồn nhân lực chất
lượng cao, đa dạng hóa, về lĩnh vực, phong phú về ngành nghề nhằm góp

phần vào việc phát triển đội ngũ trí thức cho tỉnh. Hy vọng rằng, những chính
sách chiêu hiền, đãi sĩ của tỉnh và sự thành công của các chương trình, dự án
kinh tế trọng điểm sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đội ngũ trí thức
Hà Tĩnh trong những năm tới.
2.3. Một số giải pháp chủ yếu để phát triển đội ngũ trí thức Hà Tĩnh
hiện nay
2.3.1. Nhóm giải pháp về sự lãnh đạo của Đảng đối với trí thức
Trong thời gian tới, để thực hiện tốt công tác lãnh đạo trí thức của
Đảng bộ tỉnh, tác giả luận văn xin đưa ra một số giải pháp cụ thể sau:
18
Thứ nhất, nâng cao sự lãnh đạo của toàn Đảng bộ đối với trí thức
Thứ hai, tăng cường công tác tư tưởng của Đảng trong các tập thể trí
thức
Thứ ba, nâng cao vị trí, vai trò của các hội trí thức, đặc biệt là Liên
hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật, Liên hiệp các Hội Văn học và nghệ
thuật của tỉnh trong việc vận động, tập hợp, đoàn kết trí thức ở trong
nước và trí thức người Việt Nam ở nước ngoài.
Thứ tư, lãnh đạo các cấp cần có sự quan tâm chỉ đạo kịp thời để từ đó
có những điều chỉnh hợp lý nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của đội ngũ trí thức.
Thứ năm, Trong quá trình lãnh đạo trí thức cần có kiểm tra, đánh
giá, tổng kết, rút kinh nghiệm
2.3.2. Nhóm giải pháp về nhận thức
Thứ nhất, cần nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên về
vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí thức
Thứ hai, bản thân đội ngũ trí thức Hà Tĩnh và từng người trí thức cần
thấy rõ hơn trọng trách của mình trước sự nghiệp cách mạng của nhân
dân và yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
2.3.3. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế, giải quyết việc làm
Phát triển kinh tế xã hội để tăng cường đầu tư tài chính, các biện pháp

hỗ trợ kinh tế và giải quyết việc làm được xem là một trong những giải
pháp quan trọng để phát triển đội ngũ trí thức.
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung và Hà Tĩnh
nói riêng trong thời đại hiện nay phải được gắn bó chặt chẽ với sự phát
triển của nền kinh tế tri thức
Thứ 2, thực hiện có hiệu quả các chương trình kinh tế trọng điểm giải
quyết được nhiều việc làm cho trí thức
2.3.4. Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
Đào tạo và sử dụng là hai mặt của một quá trình phát triển trí thức. Nếu
trong quá trình phát triển đội ngũ trí thức mà tách rời đào tạo và sử dụng thì
sẽ ảnh hưởng đến quá trình phát triển trí thức và nó sẽ ảnh hưởng đến sự
phát triển nền kinh tế của tỉnh.
- Về đào tạo và bồi dưỡng trí thức, đây là giải pháp then chốt trong
việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Trong những năm trước mắt cần
tiếp tục đổi mới công tác giáo dục - đào tạo theo hướng nâng cao chất
lượng có trọng tâm và trọng điểm, điều chỉnh cơ cấu đào tạo, trong đó tập
trung phát triển đội ngũ cán bộ có trình độ khoa học cao trong các lĩnh
vực, đủ sức giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra.
19
Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức cần tập trung vào
một số vấn đề sau đây:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng nguồn đào tạo
Thứ hai, đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo
Thứ ba, điều chỉnh cơ cấu đào tạo cho phù hợp với yêu cầu phát triển của
tỉnh
Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức, các chuyên ngành đào tạo gắn liền
với nâng cao chất lượng đào tạo
- Về công tác sử dụng trí thức, như đã nói ở trên đào tạo và sử dụng trí
thức là một quá trình phát triển trí thức. Đào tạo mà không sử dụng, hoặc sử
dụng sai chuyên ngành cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển đội ngũ trí

thức. Từ thực trạng sử dụng đội ngũ trí thức như đã phân tích ở trên. Để nâng
cao công tác sử dụng đội ngũ trí thức cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tuyển dụng trí thức phải công khai minh bạch
Thứ hai, thực hiện dân chủ trong sử dụng trí thức
Thứ ba, thu hút trí thức ngoài tỉnh, đặc biệt ưu tiên các trí thức giỏi là
con em Hà Tĩnh về quê hương công tác
Thứ tư, tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá
những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến
bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí
2.3.5. Nhóm giải pháp về tạo động lực
Để phát huy tối đa vai trò của đội ngũ trí thức cần phải có những
giải pháp động viên, kích lệ, đánh giá đúng vai trò đóng góp của họ và
được xã hội thừa nhận. Chính vì vậy, để tạo động lực có ý nghĩa quyết
định trong việc phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Hà Tĩnh trong giai
đoạn hiện nay cần sử dụng một số giải pháp sau:
Thứ nhất, đãi ngộ vật chất và tinh thần cho trí thức là những động lực
quan trọng sáng tạo, góp phần vào việc phát triển đội ngũ trí thức của
tỉnh nhà
Thứ hai, hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt
động của trí thức
Thứ ba, đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất
lượng hoạt động các hội của trí thức
2.3.6. Nhóm giải pháp về chính sách
Trên cơ sở những chủ trương, chính sách của Đảng, nhà nước ta về xây
dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 2011 -2020. Từ
thực tiễn công tác trí thức cũng như thực trạng đội ngũ trí thức Hà Tĩnh hiện
20
nay. Trong thời gian tới, để phát triển được một đội ngũ trí thức như mục
tiêu của tỉnh đã đề ra thì cần phải thực hiện đồng bộ những chính sách sau:
Thứ nhất, phải có những cơ chế, chính sách yêu cầu về trình độ đối với

từng cương vị công việc
Thứ hai, xây dựng các cơ chế về tổ chức, chính sách và tài chính phù
hợp với điều kiện của tỉnh cho công tác trí thức và chính sách để phát huy
vai trò đội ngũ trí thức khoa học, công nghệ và giáo dục - đào tạo.
Thứ ba, xây dựng đề án quy hoạch và phát triển đội ngũ trí thức cấp
tỉnh, trong đó chú ý đến việc đào tạo và sử dụng đội ngũ trí thức
Thứ tư, xây dựng chính sách thu hút trí thức nhân tài và sử dụng đội
ngũ trí thức trong, ngoài tỉnh
Thứ tư, Xây dựng chính sách đãi ngộ và tôn vinh những trí thức có
nhiều đóng góp tích cực trong nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học và
công nghệ
Thứ năm, xây dựng chính sách đoàn kết, tập hợp trí thức
Thứ sáu, ban hành chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi
mới thiết bị và ứng dụng các sáng tạo khoa học công nghệ, góp phần tạo
lập và phát triển khoa học công nghệ tỉnh.
Thứ bảy, hoàn chỉnh cơ chế thành lập trung đào tạo chất lượng cao
ở bậc trung học và đại học
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Trên cơ sở lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, những quan điểm
của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, về vai
trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong tiến trình phát triển của xã hội loài
người nói chung và trong sự nghiệp công nhiệp hóa, hiện đại hóa ở nước
ta hiện nay nói riêng, chương 2 của luận văn chỉ ra những thành tựu và hạn
chế của đội ngũ trí thức cũng như công tác phát triển đội ngũ trí thức ở Hà
Tĩnh hiện nay. Từ đó chương 2 đã đề xuất một số nhóm giải pháp mang
tính khả thi nhằm phát triển đội ngũ trí thức ở Hà Tĩnh trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là: Nhóm giải pháp về sự lãnh đạo
của Đảng đối với trí thức; Nhóm giải pháp về nhận thức ; Nhóm giải pháp
về phát triển kinh tế, giải quyết việc làm; Nhóm giải pháp về đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng ; Nhóm giải pháp về tạo động lực ; Nhóm giải pháp về

chính sách .
Với hệ giải pháp trên, việc vận dụng vào thực tiễn phát triển đội ngũ trí
thức Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay và trong thời gian tới là rất cần thiết với
21
mong muốn đội ngũ trí thức sẽ đóng góp trí tuệ vào sự phồn thịnh của quê
hương, đất nước.
KẾT LUẬN
Ngày nay, nhân loại đang chứng kiến sự phát triển như vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ với những thành tựu hết sức to lớn. Sự
phát triển ấy đã đưa nền kinh tế thế giới chuyển sang giai đoạn mới - kinh
tế tri thức. Trong đó, tri thức, khoa học và công nghệ không chỉ trở thành
lực lượng sản xuất trực tiếp mà còn là động lực quan trọng hàng đầu của
sự phát triển kinh tế, xã hội và trở thành nguồn tài nguyên quý giá hơn
nhiều so với các nguồn tài nguyên khác. Sự xuất hiện và phát triển của
kinh tế tri thức là một bước nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất và nền
văn minh nhân loại. Tỷ trọng của cải tri thức trong tài sản quốc gia của các
nước cũng ngày càng tăng. Vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong
mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.
Sự thay đổi này đang đặt ra cho mỗi quốc gia trên thế giới trước những
thời cơ và thách thức mới. Trong xu thế phát triển của nhân loại nói chung
và của nền kinh tế tri thức nói riêng, hiện nay lao động trí óc đang ngày
càng chiếm ưu thế, lao động chân tay đang thu hẹp dần. Mặt khác, trong
nền kinh tế tri thức, ranh giới của tầng lớp trí thức với các giai cấp, tầng
lớp khác trong xã hội cũng không còn tách biệt rõ ràng như trước đây. Đã
xuất hiện những bộ phận của giai cấp công nhân, nông dân và của các tầng
lớp khác được trí thức hóa, lao động theo những đặc điểm của lao động trí
thức. Nhiều quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội được tự động hóa,
tin học hóa, đòi hỏi người sản xuất phải có trình độ tri thức, chuyên môn
cao, kỹ năng nghề nghiệp và phẩm chất đạo đức, làm việc theo phương

thức sáng tạo. Do vậy, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao đang là
một trong những vấn đề chiến lược, có tính ưu tiên hàng đầu đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển. Để thực
hiện tốt chiến lược này, mỗi một quốc gia đều quan tâm tới việc phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình phát triển đất nước.
Hơn nữa, xu thế toàn cầu hóa đang mài mòn dần khái niệm “chảy máu
chất xám” để thay vào đó bằng sự xuất hiện của một khái niệm mới - “lưu
thông chất xám”, cũng là lúc cạnh tranh về trí thức, nhân tài giữa các nước
trở nên gay gắt chưa từng có. Cái gọi là “lưu thông chất xám” chính là
thực tế chất xám sẽ chuyển đến nơi mà nó có điều kiện phát triển tốt nhất.
Do đó, các nhà lãnh đạo cần phải có chính sách đãi ngộ để thu hút nhân tài
trí thức. Ở mọi thời kỳ phát triển của đất nước, để có được lực lượng trí
22
thức, nhân tài đông đảo, đóng góp xứng đáng cho sự nghiệp dựng nước và
giữ nước đều đặt ra yêu cầu từ hai phía: Các nhà lãnh đạo cần có chính
sách đúng để đào tạo và trọng dụng nhân tài và ngược lại, trí thức nêu cao
trách nhiệm trước đất nước, nhân dân để cống hiến tài năng vì sự hùng
cường của Tổ quốc và hạnh phúc của nhân dân.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
về trí thức, vai trò của đội ngũ trí thức trong tiến trình phát lịch sử nhân
loại. Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm
nhận thức được vai trò và vị trí quan trọng của đội ngũ trí thức trong mọi
giai đoạn cách mạng. Từ đó, Đảng ta từng bước đổi mới phương thức lãnh
đạo đối với đội ngũ trí thức nhằm xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh đủ
sức giải quyết những vấn đề của đất nước và thời đại. Trong thời gian gần
đây, cùng với những cải cách quan trọng trong chính sách phát triển kinh
tế - xã hội, Đảng ta đã có nhiều chính sách đổi mới trong công tác đối với
trí thức. Trong nhận thức mới, Đảng đã khẳng định trí thức là một tầng lớp
xã hội độc lập và là một chủ thể bình đẳng trong khối liên minh công nhân -
nông dân - trí thức, là động lực cơ bản để phát triển đất nước. Những nhận

thức đúng đắn đó đã tạo tiền đề cho việc hoạch định các chính sách của
Đảng đối với trí thức. Có thể nói rằng, mục tiêu các chính sách của Đảng
đối với trí thức trong giai đoạn hiện nay là tạo điều kiện và môi trường
thuận lợi để sử dụng và phát huy cao nhất năng lực của đội ngũ trí thức, mở
rộng đào tạo, bồi dưỡng để nhanh chóng xây dựng một đội ngũ trí thức có
trình độ chuyên môn cao, bản lĩnh chính trị vững vàng, có ý chí phấn đấu vì
sự nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cùng nằm trong guồng máy chung của cả nước, Hà Tĩnh đang bước
vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã
hội chủ nghĩa với rất nhiều thời cơ và thách thức. Yêu cầu phát triển mạnh
mẽ nguồn nhân lực có chất lượng cao, trong đó có đội ngũ trí thức đang
đặt ra hết sức bức thiết. Cùng với đội ngũ trí thức cả nước, trí thức Hà
Tĩnh đã được phát triển lớn mạnh và có những đóng góp to lớn trong sự
nghiệp đấu tranh giải phóng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc cũng như trong
công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, trước yêu cầu mới
của sự phát triển thì nguồn nhân nhân lực nói chung và đội ngũ trí thức
của tỉnh nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tỉnh cần thường xuyên
quan tâm chăm lo xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, đặc biệt là đội
ngũ các nhà khoa học, kỷ thuật, công nghệ mũi nhọn tiêu biểu, vừa có đức,
vừa có tài để đóng vai trò nòng cốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã
hội của tỉnh. Phấn đấu đến năm 2020 phải xây dựng được đội ngũ trí thức
đông về số lượng, cao về chất lượng, có cơ cấu hợp lý, có năng lực chuyên
23
môn và phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần say mê nghiên cứu khoa học,
lao động sáng tạo. Bằng và vượt tỷ lệ trí thức bình quân của cả nước như
mục tiêu, phương hướng của tỉnh đã đề ra.
Để làm được điều đó, Hà Tĩnh cần phải tiến hành nhiều đồng bộ nhiều
giải pháp. Phải mạnh dạn đổi mới cách đầu tư cho phù hợp với khuynh
hướng chung của thế giới: Từ chú trọng về kinh tế chuyển sang tăng mạnh
đầu tư cho con người, cho văn hóa, xã hội. Sự đầu tư đó trước hết cần tập

trung giải quyết hai vấn đề là số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức của
tỉnh. Cần phải đổi mới nhận thức để xây dựng được những cơ chế, chính
sách sao cho thực sự giải phóng mọi lực lượng sản xuất, phát huy sáng tạo,
khuyến khích trí thức làm giàu trong khuôn khổ luật pháp. Tuy nhiên, việc
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Hà Tĩnh không bó hẹp trong cách
hiểu đơn giản là phải có những chính sách cụ thể đối với việc phát triển đội
ngũ trí thức của tỉnh, mặc dù điều đó rất quan trọng và cần thiết. Do những
yêu tố khách quan và chủ quan nên việc phát triển đội ngũ trí thức được thể
hiện trong chính sách giáo dục và đào tạo của tỉnh. Vì như đã phân tích, trí
thức Hà Tĩnh xuất thân từ nhiều tầng lớp xã hội, đa số hiện nay đang trên
ghế nhà trường. Vì vậy, phải quan tâm phát triển từ khi trí thức đang còn là
học sinh. Có như thế thì mới đảm bảo cho chất lượng đội ngũ trí thức sau
này. Cốt lõi của việc phát triển đội ngũ trí thức là phát triển giáo dục, phát
triển toàn diện con người. Do đó, phải chú trọng đầu tư cho sự nghiệp giáo
dục đào tạo, coi việc phát triển giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu. Việc đào tạo phải cải cách theo hướng hiện đại, hướng
ra thế giới và hướng tới tương lai, tăng nhanh về số lượng và coi trọng chất
lượng đào tạo, chú ý tới việc giáo dục đạo đức, nhân cách, lý tưởng cho
người học và gắn với chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh. Phải từng bước
xây dựng trường Đại học Hà Tĩnh trở thành trung tâm học tập nghiên cứu đa
ngành, đa lĩnh vực. Phải đầu tư xây dựng các trung tâm công nghệ cao của
tỉnh. Đối với đội ngũ trí thức nói chung, cần có chế độ ưu đãi đặc biệt nhằm
động viên, khuyến khích tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho họ làm
việc, cống hiến; Có giải pháp cụ thể, tiêu chí và chế độ rõ ràng; Thu hút đầu
tư của trí thức trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài cho xây dựng và
phát triển quê hương; Tăng cường hợp tác quốc tế trong nghiên cứu và đào
tạo trí thức chuyên gia hàng đầu. Cân đối việc đào tạo và sử dụng đội ngũ trí
thức một cách hợp lý, tránh tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” gây lãng phí
nguồn nhân lực như hiện nay. Đây là vấn đề then chốt để tỉnh Hà Tĩnh phát
triển bền vững trong những năm tiếp theo.

Tin rằng trong thời gian tới, tỉnh Hà Tĩnh sẽ quan tâm hơn nữa trong
việc đào tạo, bồi dưỡng, phân phối sử dụng trí thức. Đồng thời có những
24
giải pháp cụ thể, tạo điều kiện tốt cho trí thức các ngành phát huy, nâng
cao năng lực của mình để phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
25

×