Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.63 KB, 5 trang )
Phương pháp khám thận tiết niệu
(Kỳ 3)
3.3. Gõ thận:
- Tư thế bệnh nhân nằm ngửa, ngay ngắn, bộc lộ toàn bộ thành bụng.
- Tư thế thầy thuốc: ngồi cạnh bệnh nhân (bên phải hoặc bên trái).
- Thao tác: tay trái của thầy thuốc đặt song song với khoảng gian sườn
từ V - VI, dùng ngón trỏ bàn tay phải gõ lên ngón giữa bàn tay trái. Tiến hành gõ
liên tục từ vùng gian sườn V - VI xuống vùng hố chậu. Nếu thận to thì gõ vang vì
phía trước thận là các tạng rỗng (ruột non, ruột già); nếu u trong ổ bụng hoặc gan,
lách to thì gõ sẽ đục liên tục từ trên xuống.
3.4. Rung thận:
Người thầy thuốc ngồi phía sau bệnh nhân, bệnh nhân ngồi phía trước
quay lưng về phía thầy thuốc. Bàn tay trái của thầy thuốc đặt lên vùng hố thắt lưng
bệnh nhân, tay phải đấm nhẹ lên mu bàn tay trái, nếu bệnh nhân kêu đau thì gọi là
rung thận (+). Rung thận (+) thường gặp:
- Sỏi niệu quản: khi làm nghiệm pháp rung thận bệnh nhân kêu đau do
di chuyển của hòn sỏi và có thể đái máu đại thể hoặc đái máu vi thể. Khi chưa có
chụp X quang, nghiệm pháp rung thận được sử dụng để chẩn đoán sỏi thận. Sau
khi làm nghiệm pháp rung thận nếu đái máu đại thể hoặc vi thể phải nghĩ đến sỏi
thận.
- Viêm bể thận-thận: đau lưng, sốt, bạch cầu niệu, protein niệu.
- Áp xe quanh thận, viêm tấy quanh thận.
- Thận ứ nước, ứ mủ.
3.5. Khám các điểm niệu quản:
- Điểm niệu quản trên :
Kẻ đường ngang rốn vuông góc với đường trắng giữa. Điểm giao nhau
giữa bờ ngoài của cơ thẳng to và đường ngang rốn là điểm niệu quản trên. Thầy
thuốc đặt bàn tay phải lên thành bụng, dùng ngón trỏ ấn vào điểm niệu quản, quan