Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đại cương sốt (Kỳ 3) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.02 KB, 5 trang )

Đại cương sốt
(Kỳ 3)
5. Các nguyên nhân gây sốt.
Có rất nhiều nguyên nhân gây sốt, có thể tổng hợp vào 3 nguyên nhân chủ
yếu gây nên các trạng thái bệnh lý là: các bệnh nhiễm khuẩn, các bệnh không phải
nhiễm khuẩn và rối loạn điều hoà thân nhiệt.
5.1. Các bệnh nhiễm khuẩn:
Đa số các bệnh sốt là những bệnh nhiễm khuẩn. Chính vì vậy, trước một
bệnh nhân có sốt, đầu tiên người thầy thuốc phải nghĩ tới bệnh nhiễm khuẩn. Tuy
vậy, các nhiễm khuẩn khác nhau cũng có những đặc điểm sốt khác nhau mà dựa
vào các đặc điểm đó mà thầy thuốc lâm sàng có thể chẩn đoán được căn nguyên.
+ Nhiễm virus: đa số các bệnh do virus gây ra đều có sốt đột ngột hoặc
tương đối đột ngột và thời gian sốt thường chỉ kéo dài 2-7 ngày hoặc tới 10 ngày.
Sốt do virus còn gọi là sốt cấp tính hay sốt ngắn ngày (để phân biệt với sốt kéo
dài). Tuy vậy cũng có một số virus gây sốt kéo dài như: Epstein-Barr, virus hợp
bào, Coxackie nhóm B, virus sốt chim, vẹt nhưng nhìn chung đây là những bệnh
ít phổ biến.
+ Nhiễm vi khuẩn: có rất nhiều vi khuẩn gây bệnh, do vậy bệnh do vi
khuẩn gây ra cũng là bệnh thường gặp. Sốt do nhiễm các vi khuẩn rất đa dạng và
không có một đặc điểm chung nhất. Tuy nhiên, căn cứ vào cơ quan tổn thương và
tính chất của sốt cũng có thể chẩn đoán được căn nguyên gây bệnh. Ví dụ như một
bệnh nhân có ho, tức ngực, khạc đờm màu socola và có sốt cấp tính kèm những
cơn rét run thì căn nguyên sẽ là phế cầu khuẩn; một bệnh nhân có sốt cao tăng dần
hình cao nguyên và có tổn thương đường tiêu hoá (đi ngoài phân lỏng màu nâu)
thì nghĩ ngay căn nguyên là do trực khuẩn thương hàn. Bệnh nhân sốt kèm theo
mụn mủ lớn (viêm nang lông sâu) ngoài da là do căn nguyên tụ cầu vàng v.v
Nhiễm khuẩn khu trú ở sâu gây các ổ áp xe (trong ổ bụng, trong gan, não,
lách, thận, tử cung v.v ) sẽ có sốt kéo dài và có những cơn rét run.
Nhiễm khuẩn huyết (sepsis) sẽ có biểu hiện sốt cao dao động, có những cơn
rét run, kéo dài nhiều ngày và thường có biểu hiện thiếu máu rõ.
+ Nhiễm ký sinh trùng: đa số các bệnh do ký sinh trùng gây ra đều sốt nhẹ


và sốt vừa, ít khi có sốt cao, trừ một số đơn bào như sốt rét do Plasmodium, bệnh
do Leishmania. Sốt do ký sinh trùng sốt rét Plasmodium có đặc điểm rất riêng đó
là: sốt cao đột ngột, thành cơn (rét, nóng, vã mồ hôi), có chu kỳ (hàng ngày, cách
nhật hoặc cách 2 ngày tùy từng loại Plasmodium), thường tái phát. Leishmania
gây sốt kéo dài, kèm theo là hội chứng gan, lách to và thiếu máu. Với amíp
(Entamoeba histolytica) nếu gây bệnh đường ruột (lỵ amíp) chỉ gây nên sốt nhẹ,
nhưng nếu gây áp xe ở gan, não thì có thể gây sốt cao, rét run và kéo dài. Ngoài
ra, bệnh do Toxoplasma và Trypanosoma cũng gây sốt cao kéo dài nhưng chưa
tìm thấy bệnh này ở nước ta.
+ Nhiễm rickettsia: Các rickettsia gây ra những bệnh thường có ổ bệnh
thiên nhiên và là nhóm bệnh từ động vật lây sang người. Sốt trong các bệnh do
ricketsia gây nên có đặc điểm chung là dao động, có chu kỳ, kéo dài và tái phát. Ví
dụ về một số bệnh do ricketsia:
- Sốt mò (sốt do ấu trùng mò Scrub týphus): bệnh do Ricketsia
Tsutsugamushi gây nên được truyền qua vật chủ trung gian là ấu trùng mò. Sốt mò
là những bệnh gặp ở những vùng đồi núi và trung du nước ta, một số nơi có ổ bệnh
thiên nhiên. Sốt trong bệnh sốt mò có đặc điểm là khởi phát tương đối đột ngột,
sốt nóng là chủ yếu, sốt tăng dần và kéo dài, đa số các trường hợp bệnh có sốt theo
kiểu hình cao nguyên kéo dài 2-3 tuần hoặc hơn. Bệnh thường tái phát sau khi đã
chấm dứt sốt đợt đầu 5-10 ngày, kể cả khi đã được điều trị đặc hiệu bằng
chlorocid.
- Sốt phát ban thành dịch (Epidemic týphus fever): còn gọi là sốt phát ban
chấy rận do Rickettsia prowazeki gây nên. Triệu chứng sốt của bệnh thường xảy ra
đột ngột, sốt cao có rét run kéo dài 2 tuần hoặc hơn. Sau khi hết sốt một thời gian
dài, mặc dù đã hết chấy rận nhưng ở một số bệnh nhân vẫn có sốt tái phát (tái phát
xa).
- Sốt Q (Q Fever): bệnh do Rickettsia burneti gây nên. Bệnh thường biểu
hiện bằng sốt cao đột ngột và kéo dài khoảng 2 tuần sau đó giảm dần. Có thể tái
phát 2-3 lần nhưng những lần sau ngắn hơn. Một số trường hợp kéo dài thành mãn
tính (viêm màng trong tim mãn tính, viêm não, viêm gan mãn tính).

5.2. Các bệnh không nhiễm khuẩn có sốt:
Có rất nhiều bệnh lý không phải nhiễm khuẩn có triệu chứng sốt. Có thể kể
đến những nhóm bệnh thường gặp sau:
- Các bệnh của hệ thống tạo máu: các bệnh Leucose, Hodgkin, u lympho
không phải Hodgkin, tăng tổ chức bào ác tính là những bệnh thường xuyên có sốt.
Đôi khi triệu chứng sốt xuất hiện sớm nhất khi chưa có biểu hiện gì khác, nhưng
thông thường sốt xuất hiện vào giai đoạn muộn hơn khi đã có một số triệu chứng
kèm theo.
Trong bệnh nhược tủy, suy tủy, sốt xuất hiện muộn và là hậu quả của giảm
bạch cầu hạt dẫn đến nhiễm khuẩn.
Nhìn chung, sốt trong các bệnh lý của hệ thống tạo máu thường kéo dài và
rất đa dạng, không mang đặc điểm riêng nên khó chẩn đoán nếu chỉ dựa vào
chúng.
- Các bệnh mô liên kết: các bệnh luput ban đỏ hệ thống, viêm khớp dạng
thấp, viêm động mạch, viêm tắc tĩnh mạch, viêm nút quanh động mạch, viêm động
mạch tế bào khổng lồ đều có thể có sốt. Các bệnh mô liên kết thường gây sốt cao
kéo dài và chủ yếu là sốt nóng.
Các bệnh lý u, đặc biệt là u ác tính cũng là nguyên nhân gây sốt kéo dài.
Tuy vậy, sốt trong bệnh lý u thường là muộn và đa số các trường hợp sốt xuất hiện
khi đã phát hiện ra khối u trước đó.
- Một số bệnh lý có sốt khác: Nhiều bệnh lý khác cũng có sốt như: tắc mạch
phổi rải rác, sốt do tan máu bởi các nguyên nhân khác nhau, sốt do phản ứng với
thuốc v.v

×