Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.15 KB, 4 trang )
Cường giáp
(Phần 3)
Iodine phóng xạ
Iodine phóng xạ có thể dùng bằng đường uống (dạng thuốc viên hay thuốc
nước) một lần mỗi ngày. Iodine phóng xạ được tế bào tuyến giáp bắt giữ làm phá hủy
tế bào tại chỗ mà không lan rộng sang tế bào khác. Iodine phóng xạ sử dụng an toàn
trên 50 năm nay, và chỉ cấm dùng ở phụ nữ có thai và cho con bú.
Phương thức điều trị này được chọn lựa cho bệnh Graves tái phát, người bệnh
có bệnh tim nặng, tuyến giáp đa nhân hay nhân độc tuyến giáp và những bệnh nhân
không dung nạp thuốc kháng giáp. Iodine phóng xạ cần phải cẩn thận khi sử dụng ở
bệnh nhân cường giáp có liên quan đến bệnh mắt. Các nghiên cứu trước đây cho thấy
rằng bệnh ở mắt có thể xấu đi khi điều trị.
Thường, trên 80% bệnh nhân được chữa khỏi bằng iodine phóng xạ đơn thuần.
Bệnh nhân uống từ 8 đến 12 tuần đến khi tuyến giáp trở về bình thường. Có thể xãy ra
biến chứng nhược giáp do điều trị, thường kéo dài dưới 6 tháng sau khi điều trị bằng
iodine phóng xạ. Nếu suy giáp kéo dài trên 6 tháng, thì cần phải bắt đầu điều trị thay
thế bằng hormon tuyến giáp.
Phẫu thuật
Phẫu thuật cắt bỏ một phần tuyến giáp đồng thời với điều trị cường giáp. Mục
đích là cắt bỏ mô tuyến giáp sản xuất quá nhiều hormone.
Vì vậy, nhiều mô được lấy đi sẽ làm giảm sản xuất hormone tuyến giáp ( nhược
giáp). Trong trường hợp này ( nhược giáp), người ta điều trị thay thế bằng hormone
tuyến giáp (Levoxyl). Biến chứng chủ yếu của phẫu thuật là tổn thương mô lân cận
bao gồm dây thần kinh thanh âm, tuyến phó giáp ở cổ, tuyến này có tác dụng điều hoà
lượng canxi trong cơ thể. Tai biến này làm giảm lượng canxi trong máu, đòi hỏi phải
điều trị bổ sung canxi.
Với việc điều trị cường giáp bằng iodine phóng xạ, thuốc kháng giáp và phẫu
thuật thì không giống nhau. Mỗ dành cho bệnh nhân đang mang thai và cho trẻ em vì
những người này có những phản ứng bất lợi khi dùng thuốc kháng giáp. Mỗ dành cho