Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Triệu chứng học bệnh của hệ thống thân-tiết niệu (Kỳ 7) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.2 KB, 5 trang )

Triệu chứng học bệnh của hệ
thống thân-tiết niệu
(Kỳ 7)
TS. Hà Hoàng Kiệm (Bệnh học nội khoa HVQY)
2.2. Phân tích nước tiểu:
2.2.1. Tính chất vật lý của nước tiểu:
+ Thể tích nước tiểu:
- Đái nhiều (đa niệu): khi số lượng nước tiểu >2000ml/24giờ.
- Đái ít (thiểu niệu): khi số lượng nước tiểu 100-500ml/24giờ.
- Vô niệu: khi số lượng nước tiểu <100ml/24giờ.
+ Màu sắc nước nước tiểu:
- Nước tiểu đục: đái ra mủ; đái ra cặn phosphat, cặn urat, đái ra dưỡng
chấp.
- Nước tiểu có màu đỏ nhạt đến nâu thẫm: đái ra máu.
- Nước tiểu có màu nâu đỏ đến nâu: đái ra hemoglobin; đái ra
myoglobin; đái ra porphyrin.
+ pH nước tiểu:
Phải xét nghiệm nước tiểu tươi (nước tiểu ngay sau khi đi tiểu). pH nước
tiểu có thể thay đổi từ
4,6-8, trung bình là 6. Để lâu, nước tiểu có phản ứng kiềm vì urê phân
huỷ giải phóng ra amoniac.
- Nước tiểu có phản ứng axít kéo dài có thể do: lao thân, sốt kéo dài,
nhiễm axít chuyển hoá, ỉa chảy nặng, đói ăn, nhiễm xeton do đái tháo đường,
tăng urê máu và một số trường hợp nhiễm độc.
- Nước tiểu có phản ứng kiềm kéo dài có thể do: nhiễm khuẩn sinh dục-
tiết niệu, nhiễm kiềm chuyển hoá, dùng nhiều bicacbonat hoặc các chất kiềm
khác, kiềm hô hấp do tăng thông khí.
+ Tỉ trọng và độ thẩm thấu nước tiểu:
- Tỉ trọng nước tiểu là tỉ số giữa trọng lượng của một thể tích nước tiểu
trên trọng lượng của cùng một thể tích nước cất. Như vậy, tỉ trọng nước tiểu phụ
thuộc vào trọng lượng của các chất hoà tan trong nước tiểu. Tỉ trọng nước tiểu phản


ánh khả năng cô đặc nước tiểu của thân. Bình thường, nước tiểu có tỉ trọng 1,015-
1,025. Nước tiểu loãng tối đa có tỉ trọng 1,003; nước tiểu được cô đặc tối đa có
tỉ trọng
1,030.
- Độ thẩm thấu nước tiểu là đại lượng phản ánh số cấu tử chất tan có
trong nước tiểu, các cấu tử này là các phân tử, nguyên tử, các ion. Độ thẩm
thấu nước tiểu không phụ thuộc vào trọng lượng của các chất hoà tan trong nước
tiểu, do đó nó phản ánh khả năng cô đặc nước tiểu của thân tốt hơn là tỉ trọng
nước tiểu. Bình thường, nước tiểu có độ thẩm thấu từ 400-800mOsm/kg H2O.
Nước tiểu loãng nhất có độ thẩm thấu 40-50mOsm/kg H2O, nước tiểu
được cô đặc tối đa có độ thẩm thấu
1200mOsm/kg H2O.
Tỉ trọng nước tiểu và độ thẩm thấu nước tiểu giảm là biểu hiện của
giảm khả năng cô đặc nước tiểu của thân, thường gặp trong các bệnh của ống-
kẽ thân như: viêm thân-bể thân mạn, viêm thân kẽ mạn, thân đa nang, nang tuỷ
thân, giai đoạn đái trở lại của suy thân cấp, sau ghép thân, suy thân mạn.
2.2.2. Phân tích các thành phần sinh hoá nước tiểu:
Phân tích các thành phần sinh hoá nước tiểu để phát hiện các thành
phần bình thường vẫn có trong nước tiểu, nhưng trong bệnh lý của hệ thống
thân-tiết niệu thì các nồng độ này bị thay đổi. Hoặc các thành phần bình
thường không có trong nước tiểu, khi có bệnh lý lại xuất hiện trong nước tiểu.
+ Protein:
- ở người bình thường, chỉ có một lượng rất nhỏ protein trong máu
được lọc qua cầu thân, nhưng được các tế bào ống thân tái hấp thu hoàn toàn
hoặc gần hoàn toàn. Chỉ có <30mg protein
được bài xuất qua nước tiểu trong một ngày, bằng các xét nghiệm sinh
hoá thông thường, không
phát hiện được lượng protein này và cho kết quả âm tính.
- Nếu nước tiểu có trên 30 mg protein/24giờ là chỉ điểm cho thấy có tổn
thương thân (trước khi xét nghiệm cần phải chắc chắn nước tiểu không có

máu, mủ, phải lọc nước tiểu trước khi xét nghiệm):
. Nếu lượng protein từ 30-300 mg/24giờ thì được gọi là microalbumin
niệu. Với lượng protein này, các phương pháp sinh hoá thông thường cho kết
quả âm tính, muốn phát hiện phải xét nghiệm bằng phương pháp miễn dịch
phóng xạ (RIA). Microalbumin niệu là thông số được sử dụng để chẩn
đoán sớm các tổn thương thân (chẳng hạn trong bệnh tăng huyết áp, trong
bệnh đái tháo đường).
. Nếu lượng protein >300mg/24giờ thì các xét nghiệm sinh hoá thông
thường cho kết quả
dương tính, là biểu hiện của tổn thương thân đã rõ.
- Một số trường hợp nước tiểu có protein nhưng không có tổn thương
thân thì cần phân biệt:
. Protein niệu tư thế đứng: có thể gặp ở tuổi dưới 20, protein niệu xuất
hiện khi đứng lâu nhưng khi cho bệnh nhân nằm nghỉ thì protein niệu lại âm
tính, khi đứng lâu > 1giờ protein niệu lại dương tính; không kèm theo hồng cầu
niệu và các triệu chứng khác của bệnh thân.
. Protein niệu Bence-Jone: gặp trong bệnh đa u tuỷ xương, ung thư. Loại
protein này còn được gọi là protein nhiệt tan: khi đun nóng đến 60oC thì nước
tiểu đục do protein kết tủa nhưng khi đun sôi thì protein lại tan làm nước tiểu
trong, để nguội dần thì nước tiểu đục trở lại. Bản chất của protein nhiệt tan là
các chuỗi nhẹ lamda và kappa của gama globulin do các tổ chức bệnh lý tạo ra
và được lọc qua cầu thân.
. Protein niệu do bệnh lý một số cơ quan khác như: suy tim ứ huyết có
thiểu niệu, chấn thương sọ não, chảy máu màng não. Protein niệu trong các
bệnh lý trên thường chỉ xuất hiện tạm thời trong thời gian bị bệnh.

×