Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.69 KB, 5 trang )
Triệu chứng học bệnh của hệ
thống thân-tiết niệu
(Kỳ 11)
TS. Hà Hoàng Kiệm (Bệnh học nội khoa HVQY)
2.3.2. Thăm dò chức năng ống thân:
Có nhiều nghiệm pháp để thăm dò chức năng ống thân: có nghiệm pháp
thăm dò chức năng từng đoạn ống thân, có nghiệm pháp thăm dò chức năng
toàn bộ ống thân. Chúng tôi chỉ trình bày một số nghiệm pháp thăm dò chức
năng toàn bộ ống thân thường được sử dụng trong lâm sàng. Sau
đây là một số phương pháp thăm dò khả năng cô đặc nước tiểu của ống
thân.
+ Phương pháp đo độ thẩm thấu nước tiểu mẫu sáng sớm:
Đây là phương pháp rất đơn giản, dễ áp dụng, có giá trị trong lâm sàng
để đánh giá khả năng cô
đặc nước tiểu của thân. Cách tiến hành như sau:
Bệnh nhân ăn, uống và sinh hoạt bình thường. Tối hôm trước, bệnh nhân
không được dùng các chất có tác dụng lợi tiểu, trước khi đi ngủ bệnh nhân
phải đi tiểu hết bãi, trong đêm không được uống thêm nước, không được
truyền dịch. Nếu đi tiểu trong đêm thì không lấy mẫu nước tiểu này. Nước tiểu
của lần đi tiểu đầu tiên buổi sáng sớm lúc ngủ dậy (từ 4giờ đến 7giờ sáng)
được gọi là mẫu nước tiểu sáng sớm. Mẫu nước tiểu này được đựng trong bô
sạch, lấy 1ml để đo độ thẩm thấu. Kết quả độ thẩm thấu nước tiểu mẫu sáng
sớm:
- Giá trị bình thường: 800 ± 30mOsm/kg H2O.
- Nếu ≥ 600mOsm/kg H2O: khả năng cô đặc nước tiểu của thân là bình
thường; không cần phải làm thêm bất kỳ một nghiệm pháp thăm dò khả năng cô
đặc nào khác.
- Nếu <600mOsm/kg H2O: khả năng cô đặc nước tiểu của thân giảm;
muốn kết luận chính xác cần làm lại xét nghiệm 3 lần hoặc làm nghiệm pháp
nhịn khát của Wolhard.
+ Phương pháp đo hệ số thanh thải nước tự do: