Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh (Kỳ 2) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.98 KB, 5 trang )

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh
(Kỳ 2)
3.1.3. Hình ảnh tổn thương trên phim chụp X quang vú:
Trên mỗi phim X quang chụp vú có thể phát hiện được những biến đổi bất
thường của hệ thống hạch nách, của da và của núm vú (tình trạng dày lên và co
kéo đầu núm vú.
+ Các biến đổi bất thường trên phim chụp vú:
Các biển đổi bất thường có thể phát hiện được trên phim chụp vú nhưng
không phát hiện được qua thăm khám lâm sàng gồm 3 nhóm:
- Tổn thương là các hạt vôi hoá đơn thuần. Có thể là một đám vôi hoá rộng
hoặc chỉ là những điểm vôi hoá vi thể trong tổ chức tuyến vú.
- Tổn thương biểu hiện bằng một khối dày có tỉ trọng cao: một khối bệnh
lý, những rối loạn về mặt cấu trúc của tuyến vú và sự mất cân xứng giữa hai vú.
- Các thương tổn bao gồm sự phối hợp cả hai yếu tố trên, có nghĩa là vừa có
những nốt vôi hoá và vừa có những bất thường về mặt tỉ trọng của tuyến vú.
Một tổn thương có tỉ trọng cao, có vôi hoá, gồ ghề như có gai, có những
đường phân nhánh tách ra từ đám vôi hoá là những dấu hiệu hay gặp của ung thư
vú.


Hình 4.12: Hình ảnh vôi hóa trên phim chụp vú.
3.2. Chẩn đoán các bệnh vú bằng chụp nhiệt (thermography):
Chụp nhiệt cho phép ghi nhận những bức xạ hồng ngoại do cơ thể phát ra,
hiện nó thành những màu sắc khác nhau tùy theo cường độ nhiệt ở từng điểm,
từng vùng.
Phương pháp chụp nhiệt dựa trên nguyên lý: khối ung thư vú thường
"nóng" hơn so với tổ chức xung quanh. Theo Terenchev: sở dĩ tổ chức ung thư
"nóng" hơn so với những vùng khác là do tốc độ phát triển nhanh của u sẽ sản sinh
ra nhiều nhiệt lượng. Do tính chất vô hại của nó nên lúc đầu người ta coi chụp
nhiệt như là một phương pháp có triển vọng để phát hiện sớm ung thư vú.
Qua thực tế, kết quả chụp nhiệt tỏ ra kém nhậy cảm và kém đặc hiệu hơn


chụp X quang vú, nên hiện nay người ta không coi phương pháp chẩn đoán bằng
chụp nhiệt là một phương tiện chẩn đoán sớm ung thư vú mà thường được áp dụng
để theo dõi vú còn lại sau mổ. Nghiên cứu trên 1284 bệnh nhân bị tăng sản tổ chức
tuyến vú do rối loạn hormon, Mazurin nhận thấy: chụp nhiệt cho phép chẩn đoán
kịp thời ung thư vú và tách được nhóm có nguy cơ cao là các phụ nữ bị tăng sản
vú do rối loạn hormon. Theo Ozerova: chụp nhiệt là một phương pháp chẩn đoán
vô hại, có thể sử dụng cho các bệnh nhân có thai, đang cho con bú và các phụ nữ
dưới 35 tuổi, để thay thế cho phương pháp chụp X quang vú trong các trường hợp
không có chỉ định nói trên.
Nhược điểm của phương pháp chẩn đoán các bệnh vú bằng chụp nhiệt là
không cho phép thu được hình ảnh của đối tượng nghiên cứu, mà chỉ phản ánh
được gián tiếp những biến đổi sản nhiệt của các dòng máu tại chỗ dưới dạng
những "ổ sinh nhiệt bệnh lý ".
Phương pháp chụp nhiệt để chẩn đoán các bệnh vú có độ nhậy cao nhưng
có độ đặc hiệu tương đối thấp nên không có ý nghĩa để chẩn đoán độc lập do tỉ lệ
dương tính giả khá cao. Mức độ sinh nhiệt tương đối cao trong ung thư vú cho
phép phân biệt được tổ chức ung thư với các cấu trúc lành tính ở quanh nó.
Để khắc phục nhược điểm của phương pháp chụp nhiệt, một số tác giả như
Terenchep, Abelevitr, Sizmina đã nghiên cứu đo sự biến đổi nhiệt độ tại các điểm
có độ sâu từ 3 - 7 cm trong tổ chức tuyến vú nhờ phương pháp đo bức xạ nhiệt
bằng loại nhiệt kế có độ chính xác tới ± 0,1°C. Nhiệt kế này rất nhậy, có thể đo
trực tiếp sự tăng nhiệt độ khu trú nên đã khắc phục được những nhược điểm của
phương pháp chụp nhiệt truyền thống là chỉ phản ánh được một cách gián tiếp
những quá trình chuyển hoá ở trong các mô ở sâu.
3.3. Phương pháp chẩn đoán các bệnh của vú bằng siêu âm:
Chẩn đoán các bệnh của vú bằng siêu âm là một phương pháp chẩn đoán
hiện đại, có nhiều ưu điểm như: tính thông tin cao, vô hại, khả năng phục vụ lớn,
sử dụng tương đối đơn giản và không có phản chỉ định. Siêu âm vú có thể cho
phép xác định một cách chính xác được vị trí, kích thước, đường viền, vang cấu
trúc của cơ quan nghiên cứu. Siêu âm còn cho phép theo dõi quá trình biến đổi của

khối u vú khi áp dụng các biện pháp điều trị khác nhau, cho phép phân biệt một
quá trình bệnh lý là lành hay ác tính và mức độ lan toả của quá trình ác tính. Một
ưu điểm đặc biệt của siêu âm là cho phép phân biệt chính xác 100% các cấu trúc
lỏng và rắn, rỗng và đặc.
Siêu âm cho phép xác định dễ dàng các nang tuyến vú có đường kính tối
thiểu là 0,3cm vì có những tiêu chuẩn rõ rệt như: cấu trúc có hình tròn vang âm
với những đường viền rõ nét, phẳng phiu. Theo Ostrovskaia: chẩn đoán các bệnh
nang vú bằng siêu âm cho nhiều thông tin hơn chẩn đoán bằng X quang. Chẩn
đoán siêu âm cho phép xác định chính xác các nang có kích thước lớn nhưng
không sờ thấy trên lâm sàng cũng như không có biểu hiện trên phim chụp X quang
vú do nang bị che lấp bởi tổ chức nhu mô tuyến dày đặc ở các phụ nữ trẻ. Chẩn
đoán bằng siêu âm cho phép xác định chính xác vị trí của nang để chọc dò.
Tuy vậy, siêu âm không thể thay thế X quang khi chẩn đoán có hay không
có sùi trong lòng nang của một nang nhú ác tính hoá. Siêu âm có khả năng phát
hiện được một u xơ vú đơn độc với kích thước tối thiểu là 0,9 cm. Siêu âm có ưu
thế đặc biệt hơn hẳn phương pháp chẩn đoán X quang trong phân biệt một quá
trình bệnh lý ở vú là lành hay ác tính bởi tính nhậy cảm cao của phương pháp này
đối với carcinoma. Các dấu hiệu siêu âm của một carcinoma vú là: sự tương phản
khác nhau của mô vú và mô liên kết, các đường viền bị "xoá nhoà", không đều
đặn, không phẳng phiu; cấu trúc không cùng loại. Thành trước của cấu trúc không
hiện rõ nét, thành sau không thấy được.
Tuy vậy, nhiều nghiên cứu cũng chỉ rõ những nhược điểm của phương pháp
chẩn đoán bằng siêu âm các bệnh vú như: kém chính xác so với phương pháp chụp
X quang vú, không phát hiện được các nốt vôi hoá, tốn nhiều thời gian và chi phí
cao.

×