Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

kinh nghiệm đổi mới phương pháp giảng dạy ngữ văn theo phương pháp dạy học tích cực

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.94 KB, 7 trang )

I. Đặt vấn đề
Đổi mới phơng pháp dạy học theo hớng tích cực thầy chủ đạo học trò chủ
động đã làm cho giờ học sôi nổi hơn, giáo viên thoải mái hơn so với trớc đây: Thầy
đọc, trò chép, trò thụ động tiếp thu kiến thức. Trong thực tế trớc kia và cả bây giờ,
dù đã đổi mới nhiều nhng chỉ chủ yếu ở các phân môn: Văn học và Tiếng Việt còn
Tập làm văn đặc biệt là các giờ thực hành: Luyện viết đoạn văn, luyện nói trong giờ
tập làm văn hay tiết trả bài còn ít. Chính vì vậy các giờ chuyên đề hoặc thi giáo viên
dạy giỏi các cấp thờng không đề cập tới.Trong phạm vi bài viết nàytôi muốn đề cập
đến một vấn đề rất nhỏ Làm thế nào để dạy tốt tiết luyện nói trong Tập làm văn?
Đặc điểm học sinh nơi tôi dạy, các em khá giỏi đã chọn vào lớp A, còn laị các
em lớp tôi là lớp cha thật xuất sắc thì vấn đề nàylại càng rất khó khăn và cứ đến giờ
luyện nói là các em lo lắng, băn khoăn rụt rè, chỉ sợ mình bị cô giáo gọi lên nói trớc
lớp. Bản thân tôi là một giáo viên trực tiếp giảng dạy, đứng trớc thực tế đó tôi không
khỏi lo lắng, chán nản và rất buồn vì hiệu quả bài nói kém, biến giờ luyện nói nh
một giờ tập làm văn không chú ý đến vấn đề nói. Từ hạn chế trên tôi đã thử làm qua
nhiều năm thực hiện ở các lớp, tôi thấy hiệu quả tiết dạy có cải thiện hơn.
II. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
Từ những trăn trở trên, tôi đã nghĩ ra một cách nhằm nâng cao chất lợng giờ
dạy luyện nói trong phân môn Tập làm văn
Muốn thực hiện tốt tiết luyện nói này, giáo viên cần nắm vững mục tiêu bài
dạy là luyện nói là chính, còn nội dung bài nói cần xếp loại thứ yếu sau kĩ năng
nói. Giáo viên luyện từ chỗ học sinh nói còn ngập ngừng vấp váp đến chỗ nói lu
loát, ngừng nghỉ đúng chỗ,hơn nữa nói có kết hợp với ánh mắt cử chỉ, thái độ, tình
cảm Đặc biệt, ở mỗi một lớp, mỗi khối học, giáo viên yêu cầu mức độ nói khác
nhau (lớp cao yêu cầu hơn lớp thấp) để làm thế nào từ lớp 6 đến lớp 9 kĩ năng nói
của các em đợc dần dần nâng cao hơn. Bên cạnh xác định đợc mục tiêu trên, để
chuẩn bị cho tiết luyện nói đạt kết quả tốt thì cần phải tiến hành nh sau:
1. Bớc chuẩn bị
Giáo viên xem trớc chơng trình để dặn dò các em chuẩn bị bài luyện nói trớc
cho tốt. Giáo viên cần dặn trớc từ 5 đến 7 ngày vì đây là những lớp đa số học lực
trung bình (cha kể học sinh yếu, kém) nên những lần đầu tiên dù có căn dặn trớc


một tuần nhng đa số các em vẫn không chuẩn bị ở nhà, điều này làm cho giờ luyện
nói khó có thể mà thành công đợc.
Điều thuận lợi cho tôi thực hiện đợc ý định đó là ở trờng tôi có dạy 2
buổi/ngày. Tôi sẽ tiến hành kiểm tra bài chuẩn bị của học sinh vào một tiết buổi
chiêù. Học sinh nào cha chuẩn bị, tôi yêu cầu chuẩn bị(gọi từng em và hỏi rõ lí do
tại sao không chuẩn bị) Học sinh đợc một vài lần kiểm tra sát sao các em sẽ phải
chuẩn bị đầy đủ (dù sự chuẩn bị có thế nào vẫn hơn là không chuẩn bị)Trong giờ
kiểm tra, giáo viên nói các nội dung cơ bản phần thân bài bài luyện nói cho học
sinh biết về chỉnh sửa bài chuẩn bị của mình
2. Bớc luyện nói
Đến phần luyện nói trên lớp. giáo viên cho học sinh xem lại bài chuẩn bị của
mình trong 5-7 phút sau đó đến luyện nói.(có thể luyện nói cá nhân, theo nhóm hay
thi giữa các tổ)
Trớc tiên giáo viên yêu cầu học sinh nhắc lại yêu cầu của một giờ luyện nói:
Nội dung bài luyện nói: Bài đủ ý ngắn gọn rõ ràng.câu văn đúng ngữ pháp.
không cầu kì nh bài văn viết trên giấy
Hình thức: Bài viết đủ 3 phần
o Mở đầu: Giới thiệu tên, lớp, bài nói của mình cho thầy cô và các bạn
nghe
o Nội dung chính : Đủ 3 phần bài Tập làm văn (MB-TB-KB )
o Kết thúc : Có lời cảm ơn cảm ơn thầy, cô đã lắng nghe
Khi nói có kết hợp giọng điệu ,nét mặt, ánh mắt cử chỉ phù hợp nội dung bài
nói để bài nói thêm sinh động và hấp dẫn hơn.
Sau khi học sinh trình bày giáo viên củng cố , chốt lại một lần nữa
Trong một giờ giáo viên chỉ cần gọi 6 em lên trình bày bài nói của mìnhgọi 2
em khá- 2 em trung bình -2 em yếu để xem mức độ tiếp thu của các em nói đến
đâu, ở các trình độ khác nhau. Mỗi lần một học sinh nói xong bài nói của mình,
giáo viên gọi một học sinh khác lên nhận xét. Lời nhận xét này giáo viên coi nh là
một bài luyện nói nhỏ( có đầy đủ các yêu cầu về nội dung và hình thức). Cuối cùng
giáo viên chốt lại cho điểm.

Nếu khi theo nhóm, giáo viên sẽ cho điểm ở cuối tiết sau khi đã gọi các em
học sinh nói hết.
Cách làm này, khiến cho tiết học sôi nổi, học sinh hứng thú không còn sợ sệt
và e ngại nh trớc. Các em tự nhiên nói đợc nhiều hơn, lu loát hơn và ngày càng tự
tin hơn. Phơng pháp này tôi áp dụng ở khoá thứ hai có kết qủa rõ dệt ở lớp 6c năm
trớc và năm nay là lớp 7C.
Ví dụ:
Tiết 122
Luyện nói: Bài văn giải thích một vấn đề
A. Mục tiêu bài học
Giúp học sinh:
1. Kiến thức:
- Nắm vững và vận dụng thành thạo hơn các kĩ năng làm bài văn lập luận giải
thích
- Củng cố kiến thức văn học có liên quan đến bài học
2. Kĩ năng:
- Biết cách trình bày miệng một vấn đề (văn học hay xã hội)
- Kĩ năng nói trớc đông ngời
3. Tích hợp
- TLV: Các bớc làm bài văn giải thích
- VB: Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu, Sống chết mặc bay
- TV: Dùng cụm chủ vị để mở rộng câu
B. Chuẩn bị:
GV:
- Giao đề chọn cho học sinh : đề b (SGK-Tr98)làm chuẩn bị trớc ở nhà
- Soạn bài thật kĩ. Ghi bảng phụ những ý chính là bài luyện nói phải trình bày.
- Kiểm tra bài chuẩn bị của học sinh trớc 2 ngày
HS: Chuẩn bị theo yêu cầu của giáo viên thật kĩ ở nhà
C. Tiến trình các hoạt động luyện nói
Hoạt động 1

Giáo viên kiểm tra việc chuẩn bị bài của học sinh một lần nữa (qua báo cáo
của lớp trởng)
Học sinh nhắc lại yêu cầu của bài luyện nói này.
Hoạt động của
giáo viên
GV đa phim hoặc
bảng phụ để HS tự
theo dõi dàn ý khi
nói.
Hoạt động của học sinh
(trình bày nh đã nêu ở trên)
- Hình thức: Giọng nói, điệu bộ, cử chỉ ngữ điệu có mở
đầu, có kết thúc
- Nội dung: gồm 3 phần
1. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm Những trò lố hay là Va- ren và
Phan Bội Châu là tác phẩm khắc hoạ hai tính cách đại diện
cho hai thế lực xã hội.
- Nêu vấn đề cần giải thích: Tại sao lại đặt tên cho tác
phẩm là trò lố?
2. Thân bài
a. Giải thích
-Những trò lố là gì? Là những trò giả dối, bịp bợm,
kệch cỡm, đáng buồn cời
- Vì sao những trò mà Va-ren bày ra với Phan Bội Châu
lại đợc gọi là Những trò lố? Vì: Những việc làm, hành
động, lời nói của Va-ren đều là trò lừa bịp, giả dối, kệch
cỡm.
Hứa chăm sóc nửa chính thức cho Phan Bội Châu
Thả tự do cho Phan Bội Châu vôứi điều kiện Trung

thành với nớc Pháp; xúi dục đồng bào nổi dậy hợp
tác với nớc Pháp, từ bỏ lí tởng của mình.
Va-ren có lời khuyên với Phan Bội Châu một kẻ
phản bội có lời khuyên với kẻ yêu nớc, bao nhiêu
triệu ngời kính phục.
Lấy gơng mình(gơng một kẻ phản bội) để Phan Bội
Châu soi vào.
* Tất cả đều giả dối kệch cỡm đáng cời. Tất cả không phải
vì Phan Bội Châu, vì nớc Nam nh lời hắn nói mà vì chính
nớc Pháp
3. Kết bài
Khẳng định vấn đề cần giải thích
Trò của Va-ren là lố bịch nên Nguyễn Aí Quốc đặt tên
cho tác phẩm của mình là Những trò lố
Giá trị tác phẩm
o Vạch trần bộ mặt Va-ren, nớc Pháp
o Khẳng định ý chí kiên cờng bất khuất của
Phan Bội Châu, của dân tộc Việt Nam.
Hoạt động 2: Luyện nói
GV: Cho học sinh xem lại 5 phút dàn ý trên phim một
lần nữa.
(Tiết này giáo viên yêu cầu trình bày cá nhân)
- Gọi 2 em khá, 2 em trung bình, 2 em yếu lên trình bày.
- Sau mỗi lần các bạn trình bày, GV gọi một học sinh
khác lên nhận xét, góp ý
GV: Chốt lại cho điểm
Học sinh lần lợt trình
bày
Hoạt động 3: Củng cố dặn dò
Cuối giờ GV bớt lại khoảng 5 phút

GVnói: Các em nghe các bạn trong lớp
nói tiết này
Em cho cô biết: Để nói một bài tốt ta
cần những yếu tố gì?
GVnói: Đó là 2 yếu tố mà các em phải
làm tốt hơn nữa trong giờ luyện nói sau.
Các yếu tố quan trọng không thể thiếu
trong giờ luyện nói là:
- Chuẩn bị tốt, kĩ bài nói (hiểu kĩ bài
đang nói)
- Luôn có sự tự tin
Về nhà: Viết lại bài luyện nói thành bài
văn vào vở.
III. Kết quả
Qua một số giờ luyện nói, hiệu quả tiết dạy ngày càng cao, các em nói tự
nhiên hơn, say sa hơn. Nếu các tiết đầu tiên ở lớp 6C giờ luyện nói, cả tiết không đ-
ợc một học sinh nào nói một bài hoàn chỉnh. Hầu nh học sinh đứng lên đọc diễn
cảm bài chuẩn bị của mình rất bị động, nếu dời bài chuẩn bị ra học sinh sẽ không
nói đợc thêm một lời nào. Hoặc có học sinh nói đợc phần mở bài sau đó lúng túng,
im bặt không thể nói đợc nữa. Tất cả điều đó là do học sinh không đợc thờng xuyên
thuyết trình một vấn đề gì đó trớc lớp nên không quen. Thứ nữa sự chuẩn bị bài ở
nhà cha kĩ (học sinh cha nắm chắc bài mình sẽ nói gì) vậy nên trớc lớp đông ngời,
học sinh lúng túng mất tự tin và sẽ chẳng nói đợc gì. Bằng cách này, tôi đã luyện
các em đ ợc nói trong các giờ, các khối lớp theo đúng trình độ của các em.
Lớp 6:
Yêu cầu nói vấn đề đơn giản không nặng về nội dung câu cú, từ ngữ nên các em
cảm thấy mình có thể làm đợc và muốn làm, cố gắng làm để đạt kết quả tốt
hơn.Một tiết gọi đợc 4 học sinh lên nói, trong số đó không đạt 50% nói đạt yêu cầu.
Đến lớp 7 một tiết luyện nói có thể gọi 6-8 học sinh lên trình bày. Trong số đó có 70
- 80% nói lu loát, đạt yêu cầu, thậm chí có em xung phong đợc nói.

IV. Kết luận
Qua bài viết này, tôi cũng mạo muội đề xuất một vài ý kiến rất nhỏ với mục
đích để việc giảng dạy của chúng ta có hiệu quả hơn. Tuy nhiên mỗi giờ luyện nói ở
các lớp 6,7,8,9 là khác nhau ở mức độ yêu cầu. Mức độ yêu cầu ngày càng nâng cao
hơn, hoàn thiện hơn, để đến lớp 9 các em có một trình độ thuyết trình nhất định.
Tuy nhiên đây là ý kiến của riêng cá nhân tôi, dù thế nào cũng chỉ là chủ quan. Tôi
rất mong sự góp ý, bổ sung ý kiến của các đồng nghiệp để giờ dạy ngày càng đạt
kết quả cao hơn.
Tôi xin trân thành cảm ơn!
Đông Mĩ, ngày tháng năm
Ngời viết


×