Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác đánh giá cán bộ doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (310.01 KB, 19 trang )

V ậ n d ụ ng t ư t ưở ng H ồ Chí Minh trong công tác đánh giá cán b ộ
15:05 | 03/10/2007 Nếu nói cán bộ là một trong những khâu quan trọng quyết định thành công
hay thất bại của công tác, thì đánh giá là khâu rất quan trọng trong việc sử dụng cán bộ.
Đánh giá cán bộ chính xác là cơ sở cho việc bố trí, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã dạy, mỗi lần xem xét lại nhân lực, một mặt thì tìm thấy những nhân
tài mới, mặt khác sẽ tìm ra những cán bộ thiếu năng lực và tư cách
Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về Chiến lược cán
bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã xác định: "Trách nhiệm đánh
giá cán bộ thuộc về cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp
của cán bộ và bản thân cán bộ tự đánh giá". Đồng thời, Nghị quyết cũng yêu cầu "Cán bộ được
thông báo ý kiến nhận xét của cơ quan có thẩm quyền về bản thân mình, được trình bày ý kiến,
có quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp trên, nhưng phải chấp hành ý kiến kết luận của cơ quan có
thẩm quyền".
Thời gian qua, chúng ta đã triển khai tương đối đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ như đánh
giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ.
Qua sơ kết, tổng kết công tác cán bộ của các địa phương, ban, ngành và trong cả nước thời gian
qua cho thấy, công tác này có những chuyển biến trong nhận thức, trong quan điểm về đánh giá
cán bộ. Đánh giá cán bộ không đơn thuần chỉ căn cứ vào thành tích cũ, quá trình công tác, trình
độ học lực, thành phần lý lịch, mà đã chú trọng hơn về tiêu chuẩn cán bộ, nhất là về phẩm chất
chính trị, đạo đức, năng lực, kiến thức, lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ, chức trách được giao
trong điều kiện công tác cụ thể làm thước đo chủ yếu. Công tác đánh giá cán bộ đã có sự phối
hợp chặt chẽ hơn với các cấp ủy và đã thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập thể, dân chủ, công khai
tự phê bình và phê bình; cá nhân được đánh giá đã nghiêm túc tự đánh giá, quần chúng bước đầu
tham gia đánh giá cán bộ, đánh giá cán bộ có văn bản; một số nơi cán bộ được thông báo ý kiến
nhận xét của cơ quan có thẩm quyền
Song nhiều nơi đều thừa nhận công tác đánh giá cán bộ là một khâu rất khó và còn nhiều yếu
kém. Đại hội X của Đảng cũng nêu rõ: "Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm
được khắc phục Chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ nhiệm, miễn
nhiệm, từ chức đối với cán bộ". Vì khó và yếu nên nhiều nơi nhận xét, đánh giá cán bộ chưa thật
sự khách quan, đầy đủ, chính xác.
Quan điểm và phương pháp đánh giá cán bộ một số nơi chưa đổi mới. Trong nhận xét, đánh giá


cán bộ lãnh đạo, quản lý theo nhiệm kỳ hằng năm và cuối nhiệm kỳ, hay trước khi bổ nhiệm, một
số nơi chưa căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, năng lực thực tế, hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ,
phẩm chất đạo đức, chưa đúng quy trình, có nơi chưa thành nền nếp, còn biểu hiện hình thức,
chủ quan, tình cảm, nể nang, nhất là chưa phát huy được nguyên tắc tập trung dân chủ.
Có những nơi cấp ủy, tổ chức đảng nơi cán bộ sinh hoạt, thậm chí là người lãnh đạo, quản lý trực
tiếp và cơ quan quản lý cấp trên chưa sâu sát, chưa nắm chắc, chưa quản lý chặt chẽ, thiếu thông
tin và chưa thực sự hiểu biết toàn diện, sâu sắc về cán bộ. Có những nơi, những người có trách
nhiệm đánh giá cán bộ, nhưng chưa thật sự công tâm, khách quan, vì động cơ cá nhân, hoặc định
kiến, chấp nhặt đối với cán bộ, nên đánh giá cán bộ nhiều lúc, nhiều nơi vẫn nặng về ý chí, chủ
quan, cảm tính của người đứng đầu. Do vậy, đánh giá không thể đúng đắn, chính xác về cán bộ,
không ít trường hợp đánh giá hoàn toàn không đúng về cán bộ.
Nhiều nơi, nhiều người chưa thực hiện chế độ tự phê bình và phê bình một cách thành khẩn, ráo
riết, thường xuyên, còn tình trạng nể nang, ngại đụng chạm, "bằng mặt nhưng không bằng lòng",
không dám đấu tranh; hoặc cũng có tình trạng lợi dụng phê bình để hạ bệ, bôi nhọ, công kích
nhau bằng cả những thủ đoạn đê hèn, những thông tin thiếu chuẩn xác, thậm chí đơm đặt, dựng
chuyện không được điều tra xác minh cụ thể, hoặc có thì cũng làm lỡ nhịp hay cơ hội để đề bạt
sử dụng.
Có những nơi hằng năm đều tiến hành nhận xét, đánh giá cán bộ nhưng qua loa, chiếu lệ. Không
ít nơi chưa thực hiện dân chủ, công khai trong thảo luận, bàn bạc, nhận xét cán bộ; gần như kết
quả đánh giá cán bộ của cơ quan có thẩm quyền được giữ kín, không thông báo cho cán bộ được
đánh giá. Vì vậy, nhiều cán bộ thực sự không biết được cấp trên đã nhận xét, đánh giá về bản
thân mình như thế nào; cho nên họ cũng không có cơ hội trình bày ý kiến khi có nhận xét chưa
chính xác về mình, tạo ra sự hoài nghi, hoang mang, không yên tâm và mất lòng tin ở cán bộ .
Từ chỗ đánh giá, nhận xét cán bộ chưa chính xác, nên có những nơi đại đa số cán bộ đều đạt xuất
sắc hoặc tiên tiến, nhưng nhiệm vụ chung của đơn vị lại chưa có chuyển biến tích cực, hoặc chưa
hoàn thành. Một số cán bộ được đề bạt, bổ nhiệm nhưng phát huy tác dụng không cao; cán bộ bất
tài, kém đức, cơ hội, trục lợi cá nhân chậm bị thay đổi, hoặc được điều chuyển đến vị trí tốt hơn,
thậm chí được nhanh chóng "thăng quan tiến chức", còn những người thực đức, thực tài thì bị bỏ
sót, không được trọng dụng, thậm chí bị vùi dập bởi những thủ đoạn khác nhau. Tệ hơn nữa, có
người đã phải thốt lên rằng, khuyết điểm chính của người nọ, người kia không được trọng dụng

là vì "bộc lộ trình độ hơn sếp".
Để làm tốt hơn công tác đánh giá cán bộ, thiết nghĩ chúng ta cần trở lại với tư tưởng Hồ Chí
Minh, hiện thực hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và quan tâm thực hiện tốt một số vấn đề
sau đây:
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý, đội ngũ làm công tác tổ chức cán bộ
vững mạnh.
Đây là đội ngũ có vai trò rất quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, trong việc đánh giá, sắp
xếp, bố trí, bổ nhiệm, đề bạt cán bộ. Do vậy, đội ngũ này phải thật sự là những người hội đủ cả
đức lẫn tài, phải vừa có tâm vừa có tầm; phải biết nhìn xa, trông rộng, phải hiểu biết về con
người, thực sự quan tâm và yêu thương cán bộ, phải thật sự vô tư trong sáng, phải có tư chất của
người làm công tác tổ chức cán bộ, phải được đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ về công tác này
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, đội ngũ này phải tránh những chứng bệnh "tự cao, tự đại", "ưa
nịnh", "do lòng yêu ghét của mình mà đối với người", "Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật
hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau". Theo Người, cán bộ lãnh đạo mà phạm một trong
bốn bệnh đó thì cũng như mắt đã mang kính màu, không bao giờ thấu rõ mặt thật của những cái
mình trông. Bởi vì, người lãnh đạo mà không khiêm tốn, luôn tự cao, tự đại thì không nhìn thấy,
không thừa nhận người khác tài giỏi hơn mình; thậm chí có nhìn thấy nhưng lại sinh lòng đố kỵ,
sợ người khác hơn mình, nên muốn dìm người giỏi, hại người ngay.
Bệnh thích xu nịnh dễ đưa đến lựa chọn lầm lẫn, cất nhắc nhầm kẻ xấu, bất tài, lại giỏi nịnh hót
người trên, không muốn cất nhắc, đề bạt hoặc bỏ sót người ngay thẳng, tài giỏi thật sự. Đối xử
với cán bộ mà dựa vào tình cảm cá nhân, vị kỷ cũng khiến nhìn người không đúng. Hơn nữa, xét
người phải có cái nhìn rộng rãi, thoáng đạt, không nên nhìn mọi người theo một khuôn khổ chật
hẹp, suy nghĩ nông cạn, phiến diện, chủ quan.
Muốn hiểu biết đúng những phải trái ở người khác, hiểu biết cán bộ, thì đội ngũ lãnh đạo và làm
công tác tổ chức cán bộ, trước hết phải biết rõ sự phải trái của mình, không hiểu được mình thì
khó mà có thể hiểu người. Đội ngũ này phải biết sửa chữa khuyết điểm của mình vì "mình càng
ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng", và mình phải là những người "độ lượng vĩ
đại"; phải thật sự công tâm, khách quan, phải xác định rõ công tác cán bộ không phải là việc
riêng ai, mà là việc chung cho nhân dân, cho đất nước; phải có bản lĩnh và am hiểu, thực hiện
đúng quy trình, quy chế trong công tác đánh giá cán bộ.

Thứ hai, đánh giá cán bộ một cách toàn diện, chú trọng lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ
theo chức trách được giao làm thước đo
Để làm tốt việc đánh giá cán bộ, trước hết từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị phải
trên cơ sở tiêu chuẩn chung để xác định tiêu chuẩn về mọi mặt cho từng chức danh cán bộ; cán
bộ căn cứ vào đó tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu; đồng thời phải có cơ chế phân công, giao trách
nhiệm rõ ràng trên tinh thần "cá nhân phụ trách". Trên cơ sở những tiêu chuẩn đó, cũng như hiệu
quả hoàn thành nhiệm vụ công tác thực tế theo chức trách được giao của cán bộ mà xem xét đánh
giá. Chỉ có dựa vào tiêu chuẩn, hiệu quả của toàn bộ công việc mà xét chất lượng người cán bộ,
mới thấy rõ mặt mạnh, mặt yếu, mặt đúng và mặt chưa đúng ở cán bộ.
Đánh giá năng lực cán bộ nên lưu ý các khía cạnh về kiến thức, sự hiểu biết và sự vận dụng kiến
thức đó vào cuộc sống. Ngăn ngừa, khắc phục những biểu hiện chưa đúng đắn, những tác động,
chi phối không cần thiết trong đánh giá cán bộ; tránh những định kiến chủ quan trong đánh giá
cán bộ. Điều này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhắc nhở "phê bình việc" chứ không phải "phê
bình người", tức là nhận xét, đánh giá công việc cán bộ làm, chứ không phải kẻ vạch, công kích
vào tính cách riêng của bản thân người cán bộ.
Trong thời kỳ mới, phải đặc biệt quan tâm giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên để họ thật sự là
tấm gương sáng về phẩm chất đạo đức. Khi đánh giá về đạo đức phải xem xét ở các khía cạnh về
lối sống, sinh hoạt, đối nhân xử thế, ý thức kỷ luật Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: việc nhận
xét cán bộ phải bao quát mọi mặt, từ công tác, sinh hoạt đến cách đối xử của họ. Người nói:
"Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ. Chẳng những
xem xét cách viết, cách nói của họ, mà còn phải xem xét việc làm của họ có đúng với lời nói, bài
viết của họ hay không. Chẳng những xem xét họ đối với ta thế nào, mà còn phải xem xét họ đối
với người khác thế nào Phải biết ưu điểm của họ, mà cũng phải biết khuyết điểm của họ".
Để làm được như lời chỉ dẫn ấy, đòi hỏi người làm công tác này phải tiến hành công việc một
cách công phu, thận trọng, luôn sâu sát, am hiểu cán bộ, khắc phục bệnh quan liêu của cơ quan
lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan lãnh đạo, cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ để
không còn tình trạng quản lý cán bộ lỏng lẻo, nắm cán bộ không sát, thiếu thông tin chính xác
Công tác đánh giá cán bộ nhất thiết còn phải thực hiện nghiêm túc theo yêu cầu của Đại hội X
của Đảng là "lấy hiệu quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm chất và năng lực
cán bộ. Đánh giá cán bộ lãnh đạo phải căn cứ vào hiệu quả công tác, khả năng đoàn kết, quy tụ,

phát huy sức mạnh của tập thể, tạo ra sự tiến bộ và kết quả cụ thể trong ngành, lĩnh vực, địa
phương, đơn vị mình phụ trách; không tham nhũng, lãng phí, quan liêu và kiên quyết chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu".
Thứ ba, đánh giá cán bộ phải xem xét cả một quá trình.
Khi đánh giá cán bộ không thể chỉ xét một lúc, một thời điểm, một thời gian ngắn, hoặc chỉ thấy
hiện tại, mà cần có thời gian dài, có một quá trình. Bởi vì, mọi việc đều có sự biến chuyển, con
người cũng có sự thay đổi về nhiều mặt, cho nên nhận xét về một con người không thể cố định
bất biến mà phải trong quá trình vận động, biến đổi. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: "Trong
thế giới, cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ,
quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa
Một người cán bộ khi trước có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến
nay chưa bị sai lầm, nhưng chắc gì sau này không phạm sai lầm? Quá khứ, hiện tại và tương lai
của mọi người không phải luôn giống nhau".
Muốn đánh giá cán bộ đúng đắn, chính xác, người có trách nhiệm phải kiên nhẫn tìm hiểu, theo
dõi cán bộ trong một thời gian dài. Do đó, người làm công tác này phải có kế hoạch thật chặt
chẽ, hợp lý trong quản lý cán bộ, phải có các bước đánh giá phù hợp, khoa học, phải hợp lực với
nhiều người, tham khảo ý kiến số đông trong đánh giá cán bộ. Muốn vậy, phải thực hành dân chủ
rộng rãi trong Đảng và quần chúng.
Thứ tư, mở rộng dân chủ, công khai, minh bạch trong đánh giá cán bộ.
Để cho tập thể và quần chúng tham gia đánh giá cán bộ. Mỗi một con người có nhiều mối
quan hệ ngang dọc, trên dưới, trong ngoài. Cán bộ là một thành viên của một tập thể, một cộng
đồng, cùng làm việc, cùng sinh hoạt với nhau, nên cũng có rất nhiều mối liên hệ. Công việc mà
cán bộ phụ trách thường liên quan đến nhiều việc, nhiều người. Do vậy, khi đánh giá cán bộ, bên
cạnh ý kiến nhận xét của cán bộ lãnh đạo quản lý, của cơ quan tham mưu, còn phải coi trọng ý
kiến của tập thể cán bộ và ý kiến của đông đảo quần chúng. Nếu chỉ riêng ý kiến nhận xét, đánh
giá của cán bộ lãnh đạo quản lý, cán bộ phụ trách công tác tổ chức cán bộ thì sẽ không thể thấy
hết mọi mặt của người cán bộ, mọi vấn đề có liên quan đến cán bộ. Những đồng nghiệp cùng làm
việc với cán bộ từng thường xuyên cộng tác, gánh vác, chia sẻ trách nhiệm với nhau, gần gũi,
trao đổi với nhau nhiều việc, nhiều vấn đề, cho nên họ hiểu nhau hơn là giữa cán bộ lãnh đạo với
cấp dưới. Mỗi cán bộ cũng có nhiều mối quan hệ với quần chúng qua công tác, qua sinh hoạt và

nhiều hoạt động khác. Quần chúng là đối tượng mà cán bộ hướng tới phục vụ. Vì vậy, ý kiến
nhận xét của đông đảo quần chúng thường rất xác đáng. Ngoài việc mình nhận xét họ tốt hay
xấu, còn phải xét số nhiều người khác đánh giá về họ như thế nào? Đối với cán bộ trong các
ngành có đối tượng phục vụ đông đảo rất cần quan tâm đến ý kiến của đối tượng ấy. Chẳng hạn
như ngành giáo dục - đào tạo, ngành y, các tổ chức đoàn thể khi đánh giá cán bộ không thể
không tham khảo ý kiến nhận xét của học sinh, sinh viên, học viên, bệnh nhân, các cộng đồng xã
hội
Thứ năm, để cán bộ tự đánh giá và thực hiện công khai hóa kết quả đánh giá cán bộ.
Không ai có thể hiểu mình hơn chính bản thân mình. Do đó, trong công tác này phải để cho cán
bộ tự đánh giá. Người lãnh đạo phải biết cách gợi mở, động viên, khuyến khích cán bộ tự đánh
giá, đồng thời phải thực sự trân trọng, tin tưởng ở cán bộ, biết lắng nghe cán bộ. Có như vậy cán
bộ mới cảm thấy yên tâm, không có điều gì băn khoăn, e ngại, và thực sự tự giác, bình tĩnh,
thành khẩn trong nhận xét những ưu khuyết điểm ở mình. Trước khi đề bạt, bổ nhiệm, cất nhắc
cán bộ cũng nên tạo cơ hội cho cán bộ tự nhận xét, đánh giá khả năng của mình trong việc đảm
đương nhiệm vụ mới sắp tới. Các nơi cần thực hiện tốt hơn công khai hóa việc đánh giá cán bộ
cho tập thể cơ quan, đơn vị đều biết. Cá nhân cán bộ được đánh giá nhất thiết phải được biết ý
kiến đánh giá của tập thể, của những người có thẩm quyền, của lãnh đạo cấp trên về mình. Đồng
thời cán bộ phải được có ý kiến phản hồi về những nhận xét chưa chính xác, chưa đúng đắn và
có quyền đòi hỏi phải được điều chỉnh, sửa đổi, nhận xét lại về mình.
Mở rộng và phát huy dân chủ, thực hiện công khai và minh bạch trong đánh giá cán bộ sẽ huy
động được tối đa trí tuệ của tập thể một cách thực chất, khắc phục những ảnh hưởng của ý chí,
chủ quan của cá nhân, đồng thời góp phần đắc lực vào việc phát huy hiệu quả yếu tố cán bộ -
quyết định mọi thắng lợi của công cuộc cách mạng nói chung, công tác cụ thể của từng cơ quan,
tổ chức nói riêng.
Thứ sáu, sáng suốt, tinh tường trong phân định cán bộ tốt và cán bộ kém. Đội ngũ cán bộ
nói chung là lực lượng chủ chốt của cách mạng, là tài sản quý báu của đất nước. Nhưng trong
thực tế không phải người người đều tốt, mọi việc đều hay, không ít trường hợp "trắng - đen, vàng
- thau" lẫn lộn; kẻ gian giảo lại quá khéo léo tinh vi che đậy những suy nghĩ, hành vi chưa đúng
của mình, người chính trực lại thật thà, bộc trực dễ làm mất lòng người khác Thực tế muôn
vàn phức tạp đó làm cho người lãnh đạo dễ bị nhầm lẫn, khó có thể xác định người tốt, kẻ xấu,

huống chi trường hợp người lãnh đạo lại thiếu công tâm, khách quan.
Có nhiều cách thức, kinh nghiệm khác nhau khi nhìn nhận về con người. Những ai đã từng trải
nghiệm, lăn lộn với cuộc sống, từng cộng tác, tiếp xúc, va chạm với nhiều hạng người thường
tích lũy những kinh nghiệm hay về nhìn nhận con người. Vốn là người đã từng bôn ba khắp năm
châu, bốn biển, rất có kinh nghiệm về việc này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giúp chúng ta nhận
diện những tính cách, hành vi của từng loại cán bộ, của người tốt, kẻ xấu:
"Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau
lưng thì trái mệnh lệnh, hay công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế,
tuy họ làm được việc, cũng không phải cán bộ tốt"
"Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang, ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết
điểm của mình, không ham việc dễ, tránh việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh
của Đảng, vô luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù
công tác kém một chút cũng là cán bộ tốt".
Hoặc là, khi nói chữ chính trong các đức tính của con người Việt Nam thời đại mới, Người cũng
giải thích rõ rằng, trên quả đất có hàng muôn triệu người và có thể chia làm hai hạng là người
thiện và kẻ ác; trong xã hội tuy có trăm công nghìn việc, song những công việc ấy có thể chia
làm hai thứ là việc chính và việc tà. "Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà là người ác",
"siêng năng (cần), tần tiện (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện. Lười biếng, xa xỉ, tham lam,
là tà, là ác". Sự hiểu biết, óc quan sát tinh tường về con người, về cán bộ như vậy, chắc chắn sẽ
giúp cho việc nhận xét, phân định cán bộ chính xác, rõ ràng, khoa học hơn.
Những kinh nghiệm, những lời dạy quý báu, thấu đáo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang
được cụ thể hóa thành những quan điểm, chủ trương của Đảng ta luôn có ý nghĩa to lớn và có giá
trị sâu sắc. Nghiên cứu, học tập, vận dụng tư tưởng của Người và quan điểm chủ trương của
Đảng để nhanh chóng khắc phục những thiếu sót, lệch lạc trong đánh giá cán bộ sao cho đạt kết
quả chính xác hơn, góp phần thực hiện tốt, đổi mới đồng bộ các khâu trong công tác cán bộ
nhằm xây dựng đội ngũ vững mạnh cho nhiệm vụ cách mạng là một yêu cầu, nhiệm vụ quan
trọng hiện nay.
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ
Cán bộ - theo Chủ tịch Hồ Chí Minh đó “là những người đem chính sách của

Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng. Vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1), “muôn việc thành
công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Tức là, nếu có cán bộ tốt, cán bộ
ngang tầm thì việc xây dựng đường lối sẽ đúng đắn và là điều kiện tiên quyết để
đưa sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi. Không có đội ngũ cán bộ tốt thì dù có
đường lối chính sách đúng cũng khó có thể biến thành hiện thực được. Muốn biến
đường lối thành hiện thực, cần phải có con người sử dụng lực lượng thực tiễn - đó
là đội ngũ cán bộ cách mạng và cùng với quần chúng cách mạng, bằng sự mẫn cán
của mình để đưa cách mạng đến thành công.
Trong công tác cán bộ, theo Chủ tịch Hồ Chủ tịch, cần chú ý trước hết đến việc
đánh giá, tuyển chọn cán bộ, trong đó cần đặc biệt coi trọng vấn đề đạo đức cách
mạng, bởi Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho
quyền lợi của dân tộc. Vì vậy, người cán bộ cách mạng phải luôn lấy đạo đức làm
gốc, nếu “không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân
dân”(2), “mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức
cách mạng hay không”.
Ở mỗi giai đoạn nhất định của tiến trình cách mạng, quan niệm về phẩm chất đạo
đức, tư cách của người cán bộ, đảng viên lại có những yêu cầu cụ thể. Song nhất
quán và xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh thì, đó phải là những con người:
nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, dám xả thân cho cách
mạng, đi tiên phong trong phong trào quần chúng, phải biết “làm việc”, biết “sửa
đổi lối làm việc” và luôn luôn phải rèn luyện đạo đức cách mạng, quét sạch chủ
nghĩa cá nhân, kiên quyết đấu tranh loại các căn bệnh như: bệnh địa phương chủ
nghĩa, óc bè phái, óc hẹp hòi, lối làm việc bàn giấy, tính vô kỷ luật, ích kỷ, hủ hóa,
bệnh tham lam, bệnh lười biếng, bệnh kiêu ngạo, bệnh hiếu danh Đạo đức cách
mạng, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là đạo đức hành động vì nhân dân, thể hiện bản
lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng vững vàng, tự tin và dám chịu trách nhiệm
trước bất kỳ khó khăn nào.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh yếu tố đạo đức - yếu tố gốc để tuyển dụng, lựa

chọn cán bộ, song không bao giờ Người coi nhẹ tài năng, năng lực. Vị trí cuả cán
bộ, là “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng, nhưng không phải là “vật
mang”, là “dây dẫn”, là chuyển tải cơ học mà chính là con người có đủ tư chất, tài
năng và đạo đức để làm việc đó. Bởi lẽ để có thể đem chính sách của Đảng và
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành, đòi hỏi người cán bộ, công
chức phải có một trình độ, trí tuệ nhất định. Nếu không, trong quá trình thực hiện
nhiệm vụ, người cán bộ sẽ làm sai lệch tinh thần, nội dung của đường lối, chính
sách và khi đó thì thật là nguy hiểm.
Việc truyền đạt, giải thích và triển khai thực hiện chính sách của Đảng và Nhà
nước là một việc khó khăn; nhưng khó khăn và phức tạp hơn nhiều là nắm chắc
được tình hình, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, cũng như phản ánh
được đúng thực chất của tình hình để làm căn cứ cho việc tham mưu, hoạch định
chính sách. Công việc này đòi hỏi người cán bộ phải đạt tiêu chuẩn ở mức cao hơn
để có thể tổng kết thực tiễn, khái quát, nâng lên thành lý luận. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đặt cán bộ ở vị trí có tính chất quyết định. Chính sách đúng đắn có thể không
thu được kết quả nếu cán bộ làm sai, cán bộ yếu kém. Tức là, “khi đã có chính sách
đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là nơi cách tổ chức công
việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điểm ấy sơ sài, thì chính sách
đúng mấy cũng vô ích”(3). Muốn tổ chức công việc tốt, phải có người cán bộ đạt
tiêu chuẩn vừa có tài, vừa có đức.
Trong kiến quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH), cán bộ nhất định phải có
học thức; phải có văn hoá làm gốc, phải có nghề, thạo nghề. Cán bộ lãnh đạo
ngành nào phải biết ngành đó, xây dựng CNXH không thể lãnh đạo chung chung
được. Tức là, “cán bộ và đảng viên chẳng những thạo về chính trị mà còn phải giỏi
về chuyên môn; không thể lãnh đạo chung chung ra sức đào tạo thật nhiều cán bộ
kỹ thuật, cán bộ quản lý cần thiết cho sản xuất phát triển, chỉ có như thế chúng ta
mới xây dựng thắng lợi CNXH”(4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là cái quan trọng nhất nhưng nó phải
gắn với tài và tài phải có đức đảm bảo. Có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó, còn có tài mà không có đức sẽ không làm được điều ích lợi cho đời,

thậm chí còn có hại, sinh ra những thói xấu. Người thường gọi đức và tài là “hồng”
và “chuyên”, là chính trị và chuyên môn, chính trị là hồn, chuyên môn là xác. Cán
bộ phải thạo chính trị, giỏi chuyên môn. Lãnh đạo việc gì, ngành nào phải am hiểu
kỹ chuyên môn việc ấy, ngành ấy, có như vậy lãnh đạo mới có kết quả, mới tạo
được nhất trí, đồng thuận.
Sau khi tuyển chọn được cán bộ rồi thì phải đào tạo, bồi dưỡng và bố trí, sử dụng
tốt cán bộ để họ không ngừng trưởng thành và tiến bộ.
Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là việc làm không thể thiếu, trong đó phải đặc biệt coi
trọng nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ một cách toàn diện cả về
nhận thức lý luận, chính trị, công tác xây dựng đảng, quản lý nhà nước, cả về rèn
luyện phẩm chất, đạo đức, tác phong, lề lối làm việc, phương pháp công tác đối với
cán bộ theo yêu cầu của thực tiễn và phải đáp ứng yêu cầu đó. Người đã chỉ ra
rằng: huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng. Phải tích cực đào tạo, huấn
luyện cán bộ, giúp đỡ cho cán bộ đi học. Đảng đã giúp, cán bộ phải chịu khó học
Trong tất cả các khâu của công tác cán bộ, việc bố trí, sử dụng cán bộ là khâu có ý
nghĩa quyết định vì sử dụng cán bộ đúng sẽ phát huy được tài năng, góp phần thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ. Cho nên, “Phải khéo dùng cán bộ phải khéo dùng
người, sửa chữa những khuyết điểm cho họ, giúp đỡ ưu điểm của họ biết tuỳ tài
mà dùng người”(5). Tức là, ở đời ai cũng có chỗ hay chỗ dở, như năm ngón tay
trên một bàn tay cũng có ngón ngắn, ngón dài, ta phải dùng chỗ hay của người và
giúp người chữa chỗ dở. Dùng người cũng như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to
gỗ nhỏ, thẳng, cong đều tùy từng chỗ mà dùng được. Vậy, thế nào là dùng cán bộ
đúng? Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “việc dùng nhân tài, ta không nên căn cứ
vào những điều kiện quá khắt khe. Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm
việc nhỏ, ai có năng lực về việc gì, ta đặt ngay vào việc ấy. Biết dùng người như
vậy, ta sẽ không lo gì thiếu cán bộ”(6). Khi sử dụng cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã cảnh báo việc ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là
chắc chắn hơn người ngoài; ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình, mà chán ghét
những người chính trực; ham dùng những người tính hợp với mình, mà tránh
những người tính tình không hợp với mình sẽ đưa đến thực tế là một số cơ quan,

đơn vị khi cán bộ có sai phạm khuyết điểm, “làm bậy”, cũng cứ bao dung, che chở,
khiến cho cán bộ ngày càng hư hỏng. Đối với những người tốt, người chính trực lẽ
ra phải được cất nhắc, nhưng do không ưng ý với mình thì bới lông tìm vết để trả
thù, hạ uy tín, tìm cách cô lập, dèm pha nói xấu
Ngoài ra, trong công tác cán bộ phải biết khéo léo kết hợp các lứa tuổi không coi
thường cán bộ trẻ, đồng thời biết phát huy và sử dụng kinh nghiệm của những cán
bộ đi trước. Tức là, “Đảng ta phải khéo kết hợp cán bộ già với cán bộ trẻ. Không
nên coi thường cán bộ trẻ Còn cán bộ trẻ không được kiêu ngạo, phải khiêm tốn
học hỏi các đồng chí già có kinh nghiệm”(7). Cùng với đó, trong hoạt động thực
tiễn luôn nảy nở rất nhiều nhân tài ngoài Đảng. “Chúng ta không được bỏ rơi họ,
xa cách họ. Chúng ta phải thật thà đoàn kết với họ, nâng đỡ họ. Phải thân thiết với
họ, gần gũi họ, đem tài năng của họ giúp ích vào công cuộc kháng chiến cứu nước,
phải luôn tùy theo hoàn cảnh mà vẽ cho họ về phương hướng công tác, để cho họ
phát huy năng lực và sáng kiến của họ, phải cho họ điều kiện sinh sống đầy đủ mà
làm việc”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vai trò, vị trí trọng
yếu, cấp thiết, là “cái gốc” và “công việc gốc” của Đảng qua các thời kỳ cách
mạng. Đặc biệt, trong điều kiện hiện nay khi mà đội ngũ cán bộ nước ta có bước
trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt, cùng với đó Đảng và Nhà nước đã thường
xuyên thể chế hóa, cụ thể hóa nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công
tác cán bộ đề ra trong chiến lược cán bộ Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã
đạt được, thì công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ hiện nay vẫn còn bộc lộ một số mặt
yếu kém như: chính sách, môi trường làm việc của cán bộ chưa tạo động lực để
khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán bộ, thiếu cán bộ
lãnh đạo, quản lý giỏi, cán bộ đầu ngành, cán bộ có trình độ cao, có khả năng dự
báo, xử lý tốt những vấn đề phức tạp nảy sinh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng,
chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ diễn ra nghiêm
trọng, kéo dài, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, với chế độ
Chính vì vậy, đòi hỏi Đảng và Nhà nước phải thường xuyên tiến hành đổi mới
công tác cán bộ, phải “xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng,

phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội và bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục, vững vàng giữa các thế hệ
cán bộ, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới”(8). Điều này thể hiện quyết
tâm đổi mới của Đảng ta trong công tác cán bộ và để góp phần thực hiện thắng lợi
mục tiêu đó của Đảng, đòi hỏi chúng ta phải không ngừng nghiên cứu học tập và
vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề cán
bộ và công tác cán bộ, đây là kho tàng lý luận vô cùng quý báu đối với việc xây
dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm thời đại, đáp ứng nhiệm vụ cách mạng hiện nay ./.
Ghi chú:
Đảng Cộng sản VN là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao
động và của dân tộc VN; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân
tộc.
Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ của tình hình mới là đòi hỏi có ý nghĩa sống
còn đối với Đảng và nhân dân ta.
1. Nâng cao bản lĩnh chính trị và trình độ trí tuệ của Đảng trong điều kiện mới.
Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội. Vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt
động của Đảng. Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển lý luận, giải quyết đúng
đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra.
Nâng cao trình độ trí tuệ, chất lượng nghiên cứu lý luận của Đảng; tiếp tục làm sáng tỏ những
vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta; làm rõ cơ sở lý
luận và thực tiễn đường lối, chính sách của Đảng trong thời kỳ mới. Đổi mới công tác giáo dục
lý luận chính trị, tư tưởng trong Đảng, trước hết cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý chủ chốt
các cấp; đổi mới nội dung, phương pháp học tập và giảng dạy trong hệ thống trường chính trị,
nâng cao tính thiết thực và hiệu quả của chương trình.
Củng cố, nâng cao chất lượng các cơ quan chuyên ngành về công tác tư tưởng, lý luận. Tăng
cường số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ tư tưởng, lý luận, nhất là cán bộ chủ chốt. Tiến hành
đồng bộ công tác tư tưởng, công tác lý luận, gắn các công tác này với công tác tổ chức - cán bộ,
với phát triển kinh tế, giải quyết hài hòa các lợi ích. Gắn “xây” với “chống”, lấy “xây” làm

chính. Đặc biệt quan tâm chống sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống. Kiên quyết
đấu tranh bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ đường lối, quan điểm
của Đảng; phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch.
2. Bảo đảm vai trò nền tảng và hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Mỗi tổ chức cơ sở Đảng có trách nhiệm tổ chức và qui tụ sức mạnh của toàn đơn vị hoàn thành
nhiệm vụ chính trị được giao; làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, quản lý và giám sát
đảng viên về năng lực hoàn thành nhiệm vụ và phẩm chất, đạo đức, lối sống; đấu tranh chống
chủ nghĩa cá nhân và những biểu hiện tiêu cực trong Đảng.
Kiện toàn hệ thống tổ chức cơ sở Đảng. Xác định vị thế pháp lý, thể chế hóa về mặt nhà nước vai
trò, chức năng, nhiệm vụ của các loại hình cơ sở, đặc biệt là tổ chức cơ sở Đảng trong khu vực
kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Chú ý xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong các
doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vùng sâu, vùng xa; tập trung giải
quyết cơ sở yếu kém.
Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có phẩm chất, đạo đức cách mạng,
có ý thức tổ chức kỷ luật và năng lực hoàn thành nhiệm vụ; kiên định lập trường giai cấp công
nhân, phấn đấu cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, vững vàng trước mọi khó khăn, thử thách; năng
động, sáng tạo, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc VN xã hội chủ nghĩa.
Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về qui mô phải gương mẫu chấp hành điều lệ
Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và qui định cụ thể của Ban chấp hành trung ương.
Phân công đảng viên đúng người, đúng việc, tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ.
Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng theo đúng qui định của điều lệ Đảng.
Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên gắn với việc nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở Đảng.
Đẩy mạnh công tác phát triển Đảng gắn với bảo đảm chất lượng. Chú trọng trẻ hóa và nâng cao
trình độ của đảng viên; lấy đạo đức làm gốc, đồng thời bồi dưỡng về kiến thức, trí tuệ, năng lực
để làm tròn nhiệm vụ người lãnh đạo, người đi tiên phong trong các lĩnh vực công tác được giao.
Thường xuyên sàng lọc đảng viên. Động viên quần chúng giám sát, đóng góp ý kiến về đảng
viên, kịp thời đưa ra khỏi Đảng những người không đủ tư cách.
3. Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng; thắt chặt mối quan hệ

gắn bó giữa Đảng với nhân dân; nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác kiểm tra, giám
sát.
Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật trong Đảng. Mọi cán bộ, đảng viên có quyền bàn
bạc, tham gia quyết định công việc của Đảng; quyền được thông tin, tranh luận, nêu ý kiến riêng,
bảo lưu ý kiến trong tổ chức; khi đã thành nghị quyết thì phải nói và làm theo nghị quyết của
Đảng.
Các cấp lãnh đạo, cán bộ lãnh đạo phải thật sự lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của đảng viên và
nhân dân. Xây dựng qui chế ra quyết định của Đảng, bảo đảm phát huy trí tuệ tập thể; có cơ chế
để nhân dân bày tỏ ý kiến đối với những quyết định lớn, tham gia giám sát Đảng, tham gia các
công việc của Đảng; khắc phục lối làm việc quan liêu, xa dân.
Hoàn thiện qui chế bảo đảm quyền kiểm tra, giám sát của tập thể đối với cá nhân, của tổ chức đối
với tổ chức, của cá nhân đối với cá nhân và tổ chức, kể cả đối với người lãnh đạo chủ chốt và tổ
chức cấp trên. Kết hợp giám sát trong Đảng với giám sát của Nhà nước và giám sát của nhân
dân.
Xây dựng qui chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội và nhân dân đối với việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định lớn của
Đảng và việc tổ chức thực hiện, kể cả đối với công tác tổ chức và cán bộ.
Đổi mới phương pháp kiểm tra và bổ sung chức năng giám sát cho ủy ban kiểm tra đảng các cấp.
Tăng cường công tác kiểm tra phòng ngừa. Xây dựng qui chế phối hợp công tác giữa Ủy ban
Kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính phủ.
4. Đổi mới công tác cán bộ.
Cán bộ phải là người có đức, có tài, có phẩm chất chính trị tốt, tuyệt đối trung thành với Tổ quốc,
với Đảng; hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc; có bản lĩnh chính trị vững
vàng, kiên định lý tưởng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; không dao động trước mọi biến
cố phức tạp, có đủ năng lực thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của
Nhà nước, có nhân cách và lối sống mẫu mực, trong sáng, có ý thức tổ chức kỷ luật cao, tôn
trọng tập thể, gắn bó với nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, có chất lượng tốt, xây dựng đội ngũ cán bộ
lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc thiểu số, cán bộ xuất
thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực; bồi dưỡng nhân tài theo định hướng qui hoạch.

Đặc biệt quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo cấp cao.
Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ thật sự dân chủ, khoa học, công minh. Xây dựng và hoàn
thiện chế độ bầu cử, cơ chế bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ; mở rộng quyền đề cử và tự ứng
cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự để lựa chọn.
Có cơ chế, chính sách bảo đảm phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ
xứng đáng người có đức, có tài; thay thế những người kém năng lực, không đủ uy tín, nhất là
những người kém phẩm chất, hư hỏng, có khuyết điểm nghiêm trọng.
Kiên quyết khắc phục những biểu hiện cá nhân, độc đoán, thiếu công tâm và khách quan, cũng
như tình trạng nể nang, tùy tiện, trì trệ trong công tác cán bộ.
Cụ thể hóa, thể chế hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ
cán bộ, đồng thời phát huy vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ
thống chính trị. Tổ chức Đảng có thẩm quyền phải chủ trì công tác cán bộ theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể quyết định đi đôi với phát huy trách nhiệm của người đứng đầu tổ chức
trong hệ thống chính trị, tổ chức cơ quan, đơn vị công tác của cán bộ. Qui định trách nhiệm của
cơ quan tham mưu trong công tác cán bộ. Có cơ chế để đảng viên và nhân dân giám sát cán bộ
và công tác cán bộ.
5. Đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng.
Việc đổi mới phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng phải đồng bộ với
đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới kinh tế; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ
chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng.
Khâu mấu chốt cần tập trung hiện nay là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước ở cấp trung ương và chính quyền ở cấp địa phương. Đảng lãnh đạo Nhà nước
bằng đường lối, quan điểm, các nghị quyết, quyết định, nguyên tắc giải quyết những vấn đề trọng
đại về quốc kế dân sinh; lãnh đạo thể chế hóa, cụ thể hóa đường lối, quan điểm, chủ trương,
chính sách lớn của Đảng thành hiến pháp, pháp luật, kế hoạch, các chương trình công tác lớn của
Nhà nước; xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả;
bố trí đúng cán bộ ngang tầm nhiệm vụ và thường xuyên kiểm tra việc tổ chức thực hiện.
Đảng không buông lỏng lãnh đạo, đồng thời không bao biện, làm thay Nhà nước; trái lại, phát
huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo của Nhà nước trong quản lý đất nước và xã hội.
Khẩn trương nghiên cứu, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản qui định cụ thể về nguyên

tắc, nội dung và cơ chế Đảng lãnh đạo đối với Nhà nước trong từng lĩnh vực : lập pháp, hành
pháp, tư pháp và từng cấp, từng loại hình tổ chức nhà nước.
Lãnh đạo việc cụ thể hóa, thể chế hóa kịp thời và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nghị quyết
của Đảng. Ra nghị quyết đi liền với đề ra các kế hoạch thực hiện nghị quyết.
Sớm xây dựng qui chế về sự phối hợp giữa kiểm tra của Đảng với Thanh tra của Chính phủ, kịp
thời kết luận các vụ vi phạm, xử lý đúng người, đúng tội, đúng điều lệ Đảng và pháp luật của
Nhà nước.
Xây dựng qui chế phối hợp công tác giữa các ban tham mưu của cấp ủy đảng và cơ quan chính
quyền tương ứng cùng cấp, nhất là giữa Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Quốc hội, Văn
phòng Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước; giữa văn phòng cấp ủy và văn phòng hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân,
giúp Mặt trận và các đoàn thể xác định đúng mục tiêu, phương hướng phát triển và nội dung hoạt
động trong từng thời kỳ; đồng thời phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo của Mặt trận và các đoàn
thể trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động của mình.
Thống nhất việc lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ trong cả hệ thống chính trị, thực hiện
luân chuyển cán bộ, khắc phục tình trạng khép kín, cục bộ về cán bộ. Tăng cường trách
nhiệm của cán bộ, đảng viên là thủ trưởng cơ quan nhà nước. Cơ quan nào vi phạm chính sách,
pháp luật, để xảy ra tình trạng tiêu cực, mất đoàn kết nội bộ thì người đứng đầu phải chịu trách
nhiệm.
Đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với đổi mới phong cách hoạt động, lề lối làm việc thật sự dân
chủ, thiết thực, nói đi đôi với làm, khắc phục bệnh quan liêu, tùy tiện, chủ quan, hình thức.
Công tác cán bộ của Đảng trong thời kỳ mới
Chu Thái Thành
(Cập nhật: 15/1/2007)
Xây dựng đội ngũ cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh đạo và quản lý ở các cấp, vững vàng về chính trị,
gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn,
sáng tạo, gắn bó với nhân dân, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ
trương và chính sách lớn trong nội dung công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước ta. Đại hội lần thứ X của
Đảng nhấn mạnh: "Mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo

đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí ", " Nhiệm vụ quan trọng nhất là xây
dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức
các cấp, các ngành của hệ thống chính trị ", "Đổi mới mạnh mẽ, triển khai đồng bộ các khâu: đánh giá,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán
bộ ", " Xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài "
(1)
.
Đảng ta thực hiện đúng đắn nguyên tắc thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ,
đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị
về công tác cán bộ. Làm tốt công tác quy hoạch và đào tạo nguồn cán bộ. Đánh giá, bồi dưỡng, lựa
chọn, sử dụng cán bộ trên cơ sở tiêu chuẩn, lấy hiệu quả công tác thực tế và sự tín nhiệm của nhân dân
làm thước đo chủ yếu. Đổi mới, trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, kết hợp các độ tuổi, bảo đảm
tính liên tục, kế thừa và phát triển. Thực hiện chủ trương luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý. Xây
dựng, chỉnh đốn hệ thống các học viện, trường và trung tâm chính trị, nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.
Trước những thời cơ và thách thức mới của tình hình trong nước và quốc tế, Đảng ta đã xác định công
tác cán bộ trong thời kỳ mới cần quán triệt các quan điểm cơ bản :
Một là, phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm
thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước đi
lên chủ nghĩa xã hội. Công tác cán bộ được đổi mới có vai trò quyết định thực hiện thắng lợi mục tiêu đó.
Mặt khác, quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là
môi trường thực tiễn để rèn luyện, tuyển chọn và đào tạo cán bộ, nâng cao phẩm chất, kiến thức, năng
lực của đội ngũ cán bộ.
Hai là, quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết
dân tộc. Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường, quan điểm, ý thức tổ chức của giai cấp công
nhân cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời, tăng cường số cán bộ xuất thân từ công nhân, trước hết là cán bộ
chủ chốt trong hệ thống chính trị các cấp. Phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết, tập hợp rộng rãi
các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo,
người trong nước hay người Việt Nam định cư ở nước ngoài ; không định kiến với những người có sai
lầm trong quá khứ, nay đã hối cải và sửa chữa. Kế thừa, phát huy truyền thống tốt đẹp của đội ngũ cán

bộ cách mạng để xây dựng các thế hệ cán bộ hiện tại và tương lai.
Ba là, gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách. Xây dựng
đội ngũ cán bộ và xây dựng tổ chức, đổi mới cơ chế chính sách, phương thức, lề lối làm việc có quan hệ
chặt chẽ, tác động lẫn nhau. Có nhiệm vụ chính trị mới lập tổ chức ; có tổ chức mới bố trí cán bộ, không
vì cán bộ mà lập ra tổ chức. Mỗi cán bộ trong tổ chức phải có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm rõ ràng. Quy hoạch, đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ phải gắn với yêu cầu và nội dung xây dựng tổ
chức Đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân,
do dân, vì dân, kiện toàn hệ thống chính trị, đổi mới cơ chế chính sách.
Bốn là, thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí
để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ. Trên cơ sở phát triển sự nghiệp giáo dục và đào
tạo, nâng cao dân trí để xây dựng đội ngũ cán bộ một cách cơ bản chính quy có hệ thống ; đồng thời
thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân để giáo dục, rèn luyện, đào tạo,
đánh giá, sàng lọc, tuyển chọn cán bộ. Không đánh giá sử dụng cán bộ một cách cảm tính, chủ quan.
Mọi phẩm giá và bằng cấp, danh hiệu và chức vụ, tài năng và cống hiến đều phải được kiểm nghiệm qua
hoạt động thực tiễn. Phong trào cách mạng của quần chúng là trường học lớn của cán bộ. Phải dựa vào
dân để phát hiện, kiểm tra và kiểm soát cán bộ.
Năm là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung
dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị. Đảng phải
trực tiếp chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cho cả hệ thống chính trị, trên mọi lĩnh vực. Đảng
thực hiện đường lối, chính sách cán bộ thông qua các tổ chức Đảng (Ban cán sự Đảng, Đảng đoàn,
Đảng ủy ) và đảng viên trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, thực hiện đúng quy
trình, thủ tục, pháp luật của Nhà nước và điều lệ của các đoàn thể và tổ chức xã hội. Phân công, phân
cấp quản lý cán bộ cho các cấp ủy và các tổ chức Đảng; đồng thời thường xuyên kiểm tra việc thực hiện
công tác cán bộ của các ngành, các cấp, coi đây là một trong những việc quan trọng bậc nhất của lãnh
đạo. Những vấn đề về chủ trương, chính sách, đánh giá, bố trí, sử dụng, điều động, đề bạt, khen thưởng,
xử lý kỷ luật cán bộ nhất thiết phải do cấp ủy có thẩm quyền quyết định theo đa số. Nghiêm túc chấp
hành các nghị quyết của cấp ủy về cán bộ và công tác cán bộ; cá nhân phải chấp hành quyết định của
tập thể; tổ chức đảng cấp dưới phải chấp hành quyết định của tổ chức đảng cấp trên.
Từ những quan điểm đó, Đảng ta xác định nội dung công tác cán bộ trước những yêu cầu của thời kỳ
phát triển mới cần chú trọng vào những mục tiêu, tiêu chuẩn sau:

- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức các cấp từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có
phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về
số lượng, đồng bộ về cơ cấu, bảo đảm sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ
nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ
nghĩa xã hội. Bảo đảm có đủ nguồn cán bộ để mỗi nhiệm kỳ có thể đổi mới khoảng 30-40% số cán bộ
lãnh đạo đảng, nhà nước, đoàn thể các cấp, cán bộ lãnh đạo lực lượng vũ trang. Phấn đấu đến năm
2020 số người có trình độ đại học, cao đẳng trở lên bằng khoảng 4% dân số cả nước.
- Tiêu chuẩn chung của cán bộ trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng, trước hết là, phải có tinh thần
yêu nước sâu sắc, tận tụy phục vụ nhân dân, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
phấn đấu thực hiện có kết quả đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Cần, kiệm,
liêm, chính, chí công vô tư. Không tham nhũng và kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng. Có ý thức tổ
chức kỷ luật. Trung thực, không cơ hội, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm. Có
trình độ hiểu biết về lý luận chính trị, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước; có trình độ văn hóa, chuyên môn, đủ năng lực và sức khỏe để làm việc có hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ được giao. Các tiêu chuẩn có quan hệ mật thiết với nhau. Coi trọng cả đức và tài, đức là
gốc.
Ngoài các tiêu chuẩn chung nói trên, cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân còn phải: Có
bản lĩnh chính trị vững vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, tuyệt đối trung thành với lý tưởng
cách mạng, với chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có năng lực dự báo và định hướng sự
phát triển, tổng kết thực tiễn, tham gia xây dựng đường lối, chính sách, pháp luật; thuyết phục và tổ chức
nhân dân thực hiện. Có ý thức và khả năng đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách
và pháp luật của Nhà nước. Gương mẫu về đạo đức, lối sống. Có tác phong dân chủ, khoa học, có khả
năng tập hợp quần chúng, đoàn kết cán bộ. Có kiến thức về khoa học lãnh đạo quản lý. Cán bộ lãnh đạo
Đảng, Nhà nước và đoàn thể cần học tập có hệ thống ở các trường của Đảng; trải qua hoạt động thực
tiễn có hiệu quả.
Đảng ta chủ trương quy hoạch cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý phải thể hiện được sự kết hợp chặt chẽ
giữa sắp xếp, kiện toàn cán bộ và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Hai mặt này gắn bó khăng khít với nhau.
Có tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nâng cao trình độ kiến thức mọi mặt của cán bộ thì mới có thể
sắp xếp, kiện toàn cán bộ đủ sức đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và nhiệm vụ tổ chức. Mặt khác,
với lực lượng cán bộ hiện có, phải khéo sắp xếp, sử dụng để phát huy tốt hơn nữa mọi khả năng tiềm

tàng của đội ngũ cán bộ, sắp xếp, sử dụng cán bộ một cách đúng đắn là tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ một cách thiết thực và có hiệu quả. Sự trưởng thành của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, cán bộ
quản lý không thể chỉ nhờ học tập kiến thức trong nhà trường. Năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý nẩy
nở và phát triển trước hết từ trong hoạt động thực tiễn. Vì vậy, quy hoạch cán bộ không nên chỉ là quy
hoạch đào tạo, bồi dưỡng, mà phải bao gồm cả hai mặt đào tạo, bồi dưỡng và sắp xếp, kiện toàn đội ngũ
cán bộ, gắn chặt hai mặt ấy với nhau để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý vững mạnh.
Kết hợp đúng đắn giữa cán bộ cũ, cán bộ già với cán bộ mới, cán bộ trẻ là một chính sách cán bộ rất
quan trọng của Đảng và Nhà nước ta. Những điểm mạnh của hai loại cán bộ này được kết hợp lại, bổ
sung cho nhau sẽ góp phần nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm
vụ chính trị của Đảng. Việc kết hợp đúng đắn giữa hai loại cán bộ này còn có ý nghĩa đào tạo số cán bộ
kế tục, bảo đảm tính liên tục và tính kế thừa trong sự lãnh đạo của Đảng. Cán bộ mới, cán bộ trẻ tham
gia hoạt động lãnh đạo bên cạnh cán bộ cũ, cán bộ già, tiếp thu vốn hiểu biết, kinh nghiệm của những
cán bộ này, tập dượt và chuẩn bị sẵn sàng để đảm nhận nhiệm vụ nặng nề hơn khi cần thiết. Việc chuẩn
bị cán bộ kế tục là một việc rất quan trọng và cũng rất công phu, tỉ mỉ. Điều này chỉ có thể thực hiện tốt
khi cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở các cấp, các ngành có sự quan tâm đầy đủ và đích thân chăm lo chu đáo.
Đánh giá, lựa chọn, đề bạt cán bộ là một khâu trọng yếu trong nội dung công tác cán bộ của Đảng. Hiểu
cán bộ có hệ thống, đánh giá cán bộ chính xác là cơ sở quan trọng đầu tiên để bố trí, sử dụng, bồi
dưỡng cán bộ. Đánh giá người cán bộ trong sự vận động và phát triển không ngừng, trong các mối quan
hệ chính trị và xã hội đa dạng, phức tạp, từ rất nhiều hiện tượng, sự việc cụ thể, riêng lẻ tìm ra mặt bản
chất của người cán bộ - đó quả không phải là một công việc dễ dàng, đơn giản. Đảng ta không ngừng
đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý cán bộ nhằm hiêu rõ cán bộ, đánh giá chính xác cán bộ
và từ đó bố trí, đề bạt, sử dụng cán bộ ngày càng đúng đắn hơn.
Trước những nhiệm vụ cách mạng nặng nề và với một đội ngũ đã phát triển đông đảo, công tác quản lý
cán bộ ngày nay đã trở nên vô cùng rộng lớn về quy mô, phong phú về nội dung. Đảng đã vạch rõ nhiệm
vụ, phương hướng của công tác cán bộ, góp phần tích cực vào việc thực hiện nhiệm vụ cách mạng của
nhân dân ta trong giai đoạn mới. Điều quan trọng là, cán bộ lãnh đạo phải là những người tiêu biểu về
phẩm chất và trí tuệ. Về phẩm chất đạo đức: lòng trung thành, đức hy sinh xả thân, tinh thần trách nhiệm,
tính tổ chức kỷ luật, lối sống lành mạnh thì nhiều cán bộ, đảng viên bình thường không thua kém cán
bộ lãnh đạo, quản lý. Điều phân biệt rõ hơn so với cán bộ, đảng viên bình thường là ở chỗ người lãnh
đạo, quản lý có trí tuệ, có năng lực, đó là hiểu biết lý luận và vốn sống thực tiễn, đó là tư duy chiến lược

và năng lực tổ chức hành động. Trong xem xét, lựa chọn cán bộ lãnh đạo, cùng với đức là gốc, không
thể coi nhẹ yêu cầu về năng lực, về trí tuệ. Nếu cán bộ lãnh đạo kém năng lực, kém trí tuệ thì sự nghiệp
cách mạng bị trì trệ, thậm chí bị chệch hướng, nguy cơ chẳng kém gì tình trạng suy thoái về phẩm chất
đạo đức.
Đảng ta đã chỉ rõ, đầu tư thích đáng cho việc đào tạo, bồi dưỡng những người ưu tú trở thành cán bộ chủ
chốt. Chú ý con em gia đình cách mạng, những người có công với nước, công nhân, nông dân, trí thức,
lực lượng vũ trang, cán bộ nữ, con em các dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng. Có chính sách học
bổng và miễn giảm học phí cho con em các gia đình có công với cách mạng, gia đình liệt sĩ, thương binh,
con các gia đình nghèo vượt khó, cho học sinh giỏi, đạo đức tốt, sinh viên các ngành sư phạm. Bồi
dưỡng tài năng ngay từ các trường phổ thông, đại học và trung học chuyên nghiệp. Dành kinh phí để cử
cán bộ ưu tú và sinh viên xuất sắc đi đào tạo, tham gia, bồi dưỡng ở nước ngoài. Tổ chức tốt trường bổ
túc văn hóa, dự bị đại học, trường dân tộc nội trú. Nguồn đầu tư phát triển và nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ bao gồm từ ngân sách Nhà nước các cấp, kinh phí của các tổ chức đảng, đoàn
thể, của doanh nghiệp, tài trợ của các tổ chức quốc tế và các nước.
Trong công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, Đảng ta đặc biệt quan tâm đến
nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị. Làm tốt công tác cán bộ dự bị, đào tạo cán bộ dự bị có tố chất
ưu tú, cơ cấu hợp lý và số lượng đông đủ cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp là biện pháp chiến lược
bảo đảm đường lối cơ bản lâu dài của Đảng không bị chệch hướng. Sự nghiệp phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đào tạo, bồi dưỡng hàng triệu người kế nghiệp, đặc biệt là đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có tố chất cao, đủ sức đảm đương trọng trách và trải qua được thử
thách sóng gió. Đội ngũ cán bộ dự bị là nguồn quan trọng của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; chỉ có
xây dựng đội ngũ cán bộ dự bị có tố chất cao mới có thể đặt cơ sở vững chắc cho việc xây dựng cán bộ
lãnh đạo, quản lý các cấp. Hiện nay, đào tạo tuyển chọn một đội ngũ cán bộ dự bị các cấp thích ứng với
yêu cầu của nhiệm vụ chiến lược trong thế kỷ mới, giai đoạn cách mạng mới đang là một yêu cầu cấp
bách đối với Đảng và Nhà nước ta.
Đảng và Nhà nước ta có chính sách thích hợp bảo đảm lợi ích vật chất và động viên tinh thần cho cán
bộ. Tinh giảm biên chế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động, chống tham nhũng, lãng phí,
mở rộng bảo hiểm xã hội, tăng tỷ lệ động viên thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước, đổi mới cơ
bản chính sách bảo đảm lợi ích vật chất cho từng loại cán bộ, trước hết là chế độ tiền lương, nhà ở và
phương tiện đi lại. Tiền lương phải thật sự trở thành bộ phận cơ bản trong thu nhập của cán bộ, bảo đảm

tái sản xuất mở rộng sức lao động. Thực hiện tiếp việc tiền tệ hóa tiền lương.
Nhà nước ta cũng đề ra nhiều chính sách, hình thức thích hợp để tôn vinh những người có công với
nước, những người có tài, có đóng góp lớn cho sự nghiệp đổi mới. Biểu dương, khen thưởng kịp thời
những cán bộ có thành tích xuất sắc trong lãnh đạo sản xuất, trong phát minh sáng chế khoa học và
công nghệ, trong sáng tạo văn hóa nghệ thuật, trong quản lý và công tác. Nghiên cứu đổi mới chính sách
tặng thưởng huân chương. Đi đôi với khuyến khích lợi ích vật chất, chú trọng giáo dục lý tưởng cách
mạng cho cán bộ. Mục tiêu, lý tưởng cách mạng là động lực lớn nhất để thúc đẩy sự phấn đấu vươn lên
của từng cán bộ.
Chính sách cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ cán bộ, công chức của Đảng đang
được thực hiện có hiệu quả. Cải cách tiền lương theo quan điểm coi chính sách tiền lương là chính sách
đầu tư cho con người, cho phát triển kinh tế - xã hội, điều chỉnh tiền lương tương ứng với nhịp độ tăng
thu nhập xã hội.
Nâng mức lương tối thiểu để cán bộ, công chức đủ sống bằng lương. Cải cách hệ thống thang lương
trên cơ sở phân định rõ tính chất và đặc điểm lao động của các loại cán bộ, công chức; điều chỉnh những
bất hợp lý về bội số và trong các thang, bảng lương. Thực hiện cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với
cán bộ, công chức, thực hiện tiền tệ hoá đầy đủ tiền lương, nhất là tiền tệ hoá tiền lương. Sửa đổi, bổ
sung các quy định về chế độ phụ cấp ngoài tiền lương theo ngạch, bậc theo cấp chuyên môn, nghiệp vụ
cho cán bộ, công chức làm việc ở những nơi xa xôi, hải đảo, miền núi Ban hành và thực hiện chế độ
tiền thưởng đối với cán bộ, công chức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và các chế độ đãi ngộ khác ngoài
tiền lương đối với cán bộ công chức.
Nội dung công tác cán bộ được cụ thể hóa trong những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước
đang tạo ra động lực to lớn trong xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước./.
ìm hiểu tư tưởng Bác Hồ về công tác cán bộ
Tuesday, 12 08 2008
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ. Đảng ta luôn xác định công tác cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Bác Hồ nói về công tác cán bộ nhiều. Và dường như, theo cá nhân tôi, tư tưởng về công tác cán bộ là tư tưởng lớn trong suốt cuộc đời vĩ đại của Người. Sự vĩ đại của tư tưởng ấy là Bác nói là làm. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ là những bài học vô giá, những “nguyên tắc vàng”, là phương pháp luận khoa học để các cấp ủy Đảng, những người trực tiếp làm công tác cán bộ xây dựng đội ngũ cán bộ cho Đảng, cho dân. Nhiều nhà lãnh đạo, nhà nghiên cứu thường xuyên nói về tư tưởng công tác cán bộ “khuôn vàng thước ngọc” của Bác. Và gần như tất cả chúng ta, đều thuộc lòng câu nói nổi tiếng của Bác:
Trong phạm vi bài viết ngắn này, chúng tôi không có tham vọng nghiên cứu về tư tưởng lớn đó, mà chỉ nêu vài suy nghĩ như là một sự tự nhận thức, hành động trong cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Trước hết, công tác cán bộ bắt đầu từ đào tạo (bao gồm đào tạo qua trường lớp và đào tạo qua thực tiễn). Trong những năm tháng cam go của cách mạng, Bác Hồ đã tuyển chọn một đội ngũ cán bộ trẻ để đưa sang Trung Quốc, Liên Xô đào tạo; sau đó, đội ngũ cán bộ này quay về hoạt động cách mạng tại Việt Nam. Và chính họ đã trở thành những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, những lãnh tụ xuất sắc của Đảng, của dân tộc; mà tên tuổi của họ luôn gắn với những trang sử vẻ vang của dân tộc, của Đảng. Nhiều nhà khoa học danh tiếng cũng đã theo Bác kháng chiến kiến quốc và trở thành những nhà khoa học đầu đàn, đặt nền móng cho sự nghiệp KH&CN nước nhà, có nhiều đóng góp to lớn đối với dân tộc.
Và trong suốt cuộc đời vĩ đại của Bác, công việc đào tạo cán bộ luôn được chăm lo cho cả hiện tại và tương lai- xem như một nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng. Trước lúc đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin, Bác vẫn một tâm niệm: “

Thứ hai, về sử dụng và bố trí cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát huy và nâng giá trị truyền thống của cha ông “dụng nhân như dụng mộc” thành chuẩn mực, nguyên tắc của công tác cán bộ. Lời dạy giản dị mà sâu sắc của Bác luôn cần phải học hỏi và làm theo: “Người đời ai cũng có chỗ hay, chỗ dở. Ta phải dùng chỗ hay của người và giúp người chữa chỗ dở. Dùng người như dùng gỗ. Người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong đều tùy chỗ mà dùng được! Nếu không biết tùy tài mà dùng người chẳng khác gì thợ rèn bảo đi đóng tủ, thợ mộc bảo đi rèn dao. Thành thử cả hai người đều lúng túng. Nếu biết tùy tài mà dùng người, thì hai người đều thành công”. Mặt khác, Bác hết sức quan tâm việc cất nhắc, đề bạt cán bộ. Bác nói, cất nhắc, đề bạt cán bộ là “vì công tác, vì tài năng”. Nếu vì “lòng yêu ghét,
vì thân thích, vì nể nang” thì nhất định không ai phục, mà lại gây nên mối lôi thôi trong Đảng”, là “có tội với Đảng, có tội với đồng bào”.
Theo Bác, đối với cán bộ, chẳng những phải xem xét kỹ trước khi cất nhắc, đề bạt, mà sau khi đã cất nhắc, đề bạt vẫn phải tiếp tục giúp đỡ họ…Khi họ mới có dấu hiệu sai lầm, khuyết điểm là phải chấn chỉnh ngay, đừng để sai lầm, khuyết điểm trở nên to tát, rồi mới đem ra “chỉnh”… Bác căn dặn: “Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể đối với cán bộ một cách chí công vô tư, không có thành kiến, khiến cho cán bộ khỏi bị bỏ rơi. Phải chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những đồng chí còn kém, giúp cho họ tiến bộ. Phải vui vẻ, thân mật, các đồng chí mới vui lòng gần gũi mình”.
Đào tạo cán bộ là nhằm tạo ra những người có đủ nhiệt huyết, bản lĩnh, năng lực làm việc, làm việc có trách nhiệm, có hiệu quả. Bác Hồ nói: “Nếu đào tạo một mớ cán bộ nhát gan, dễ bảo, “đập đi, hò đứng”, không dám phụ trách, như thế là một việc thất bại của Đảng”.
Thứ Ba, trong đào tạo, sử dụng cán bộ, cần mạnh dạn giao việc cho cán bộ thực hiện. Giao việc theo tư tưởng của Bác là dân chủ, là phân nhiệm rõ ràng, là đề cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, là phát huy sáng tạo của cán bộ. Bác chỉ rõ:
nhất định sẽ được hoàn thành tốt đẹp.
Người nói: “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt cũng tự sửa chữa được nhiều”. Theo chúng tôi, biện chứng của quan hệ “chân kiềng” (chữ tạm gọi của tác giả) giữa dân chủ, sáng kiến, hăng hái rất cần được vận dụng ngày càng nhiều hơn trong công tác lãnh đạo, quản lý. Có dân chủ thì mọi người mới có sáng kiến, mới hăng hái làm việc. Càng dân chủ thì càng có nhiều sáng kiến. Sáng kiến chỉ ra đời khi người đó tâm huyết, hăng hái làm việc trong một môi trường dân chủ.
Bác căn dặn: “Khi giao trách nhiệm cho cán bộ, cần phải chỉ đạo rõ ràng, sắp đặt đầy đủ. Vạch ra những điểm chính và những khó khăn có thể xảy ra. Những vấn đề đã được quyết định rồi thì giao cho họ làm, khuyên họ cứ cả gan mà làm. Cũng như trong quân đội, khi chiến lược, chiến thuật đã quyết định rồi, thì Tổng tư lệnh không cần nhúng vào những vấn đề lặt vặt. Thà để cho các cấp chỉ huy có quyền “tuỳ cơ ứng biến” mới có thể phát triển tài năng của họ. Việc gì cấp trên cũng nhúng vào, cán bộ cũng như một cái máy, việc gì cũng chờ mệnh lệnh, sinh ra ỷ lại, mất hết sáng kiến”.
Để đảm bảo công việc chung, tuỳ mỗi công việc khi giao, cần phải bàn bạc cách thực hiện cho tốt và củng cố niềm tin hoàn thành nhiệm vụ cho cán bộ. Xong rồi, để cán bộ chủ động làm việc. Bác dạy chân tình: “
Thay lời kết, công tác cán bộ là công tác lớn của Đảng, bao gồm nhiều công việc và triển khai một cách đồng bộ các khâu: đánh giá, giám sát, quản lý, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng, xây dựng và thực hiện chính sách cán bộ, xây dựng và thực hiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng. Không phân biệt người trong Đảng, ngoài Đảng Có những khâu theo trình tự, nhưng cũng có những khâu tiến hành song cùng, đan xen nhau, Mục tiêu cuối cùng và tối thượng của Đảng ta là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên
môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa; có tinh thần đoàn kết, hợp tác, ý thức tổ chức kỷ luật cao và phong cách làm việc khoa học, tôn trọng tập thể, gắn bó với nhân dân, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Đội ngũ cán bộ phải đồng bộ, có tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu hợp lý” (2).
Thực hiện lời dạy của Bác, Đảng ta luôn quan tâm công tác cán bộ trong thời kỳ mới trên cơ sở các quan điểm: Công tác cán bộ phải phải xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết dân tộc; gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ chế, chính sách; thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng của nhân dân, nâng cao trình độ dân trí để tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ; Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức thành viên trong hệ thống chính trị (3).
Bác Hồ với công tác cán bộ là một lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều nội dung, kể cả tư tưởng đối với người làm công tác cán bộ. Những lời dạy ấy đã thành nguyên tắc, phương pháp luận và là những bài học vô giá đối với công tác cán bộ của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, các cơ quan, đơn vị và đối với bản thân mỗi cán bộ. Học, làm theo Bác phải bắt đầu từ những tổ chức nhỏ nhất và mỗi cán bộ ■
Thứ Tư 06/10/2010 8:57:49pm
Tổ chức
Công tác tổ chức cán bộ của Đảng qua những năm Dần
6:36' 16/2/2010
Trong lịch sử vẻ vang của Đảng đã có nhiều sự kiện gắn với công tác tổ chức, cán bộ diễn ra vào
những năm Dần:
Năm Mậu Dần (1938)
Ngày 29 và 30-3-1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định tổ chức Mặt trận thống
nhất dân chủ, coi đó là một nhiệm vụ trung tâm của Đảng trong giai đoạn đó. Đảng phải củng cố
những cơ sở đảng đã có, lập thêm cơ sở mới, chú trọng phát triển cơ sở ở các châu thành, các
đồn điền, các vùng kỹ nghệ tập trung. Các tổ chức cơ sở dù hoạt động công khai hay bí mật đều
phải phục tùng cơ quan chỉ huy của Đảng ở các cấp. Tại Hội nghị này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ
được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng thay đồng chí Hà Huy Tập.
Theo báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng gửi Quốc tế Cộng sản, đến tháng 3-1938,
Đảng bộ Nam kỳ có 655 đảng viên, Đảng bộ Trung kỳ có 740 đảng viên và Đảng bộ Bắc kỳ có
202 đảng viên. ở ba kỳ đều có xứ uỷ. Nam kỳ có 4 liên tỉnh uỷ, 11 tỉnh uỷ và 122 chi bộ. Trung
kỳ có tỉnh uỷ Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi.

Bắc kỳ đã có đảng bộ Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Phủ Lý, Thái Bình, Cao Bằng. Ban Chấp
hành Trung ương Đảng có 11 uỷ viên, trong đó 9 uỷ viên hoạt động ở trong nước, 2 uỷ viên hoạt
động ở ngoài nước.
Cuộc vận động dân chủ của Đảng trong những năm 1936-1939 diễn ra sôi nổi, rộng lớn đã minh
chứng chủ trương chuyển hướng mới của Ban Chấp hành Trung ương Đảng là đúng, hợp với ý
nguyện của dân chúng và phù hợp với tình hình đất nước.
Năm Canh Dần (1950)
Trước những biến chuyển của tình hình quốc tế, nhất là thắng lợi của cách mạng Trung Quốc,
tháng 1-1950, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị cán bộ toàn quốc của Đảng (21-1 đến 3-2-
1950). Trên cơ sở đánh giá tình hình, Hội nghị quyết định “cần phải nhân đà tiến bộ của bản thân
ta, dựa vào sức giúp đỡ của các lực lượng bạn, lợi dụng sự lúng túng của địch, trước mưu mô của
đế quốc Mỹ, Anh, mà gấp rút hoàn thành nhiệm vụ chuẩn bị chuyển mạnh sang tổng phản công
trong năm 1950 này”.
T? ¶khóa
Hội nghị quyết định phải đẩy mạnh chiến đấu tiêu diệt sinh lực địch; gấp rút bồi dưỡng và xây
dựng quân đội nhân dân; củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất và công tác dân vận; củng cố chính
quyền nhân dân; tổng động viên toàn lực, thực hiện khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến! Tất cả để
chiến thắng!” và “Thi đua ái quốc”; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chiến lược, nhiều ngành, nhiều địa phương đã phạm những
khuyết điểm, sai lầm trong công tác xây dựng lực lượng quân sự, trong thực hiện phương châm
tác chiến, trong công tác tổng động viên v.v Vào giữa năm 1950, Trung ương đã phát hiện
khuynh hướng sai lầm chủ quan nóng vội trên đã kịp thời có chủ trương uốn nắn, sửa chữa. ý
thức kháng chiến lâu dài, dựa vào sức mình là chính được quán triệt hơn, các mặt trận phát triển
vững chắc và tiến lên giành những thắng lợi to lớn, tạo điều kiện thuận lợi cho Đảng họp Đại hội
lần thứ II vào đầu năm 1951.
Năm Nhâm Dần (1962)
Tháng 6-1962, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá III) bàn về vấn đề
công nghiệp hoá, đề ra nhiệm vụ và phương hướng xây dựng và phát triển công nghiệp trong tình
hình kế hoạch 5 năm lần thứ nhất.
Năm Giáp Dần (1974)

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 22 họp bàn về nhiệm vụ khôi phục kinh tế
của miền Bắc.
Năm 1974, ở miền Nam, quân ta liên tiếp đánh bại các cuộc hành quân lấn chiếm của địch, thực
hiện chiến lược tiến công. Miền Bắc tích cực khôi phục kinh tế và chi viện mạnh mẽ cho miền
Nam. Nguỵ quân, nguỵ quyền suy yếu nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, Bộ Chính trị trong các
kỳ họp tháng 10-1974, tháng 12-1974 và tháng 1-1975, đã đi đến kết luận: Chúng ta đang đứng
trước thời cơ lớn, có đầy đủ các điều kiện về quân sự và chính trị để hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, tiến tới hoà bình thống nhất đất nước. Nghị quyết lịch sử của
Bộ Chính trị năm 1974 và đầu năm 1975 là một điển hình của tư duy cách mạng khoa học và
sáng tạo lớn, dắt dẫn quân và dân ta đến mùa Xuân đại thắng năm 1975.
Cùng với sự lãnh đạo và tổ chức cuộc chiến đấu ở miền Nam và xây dựng ở miền Bắc, Trung
ương Đảng rất coi trọng công tác xây dựng đảng. Tháng 12-1974, Hội nghị lần thứ 23 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng đã ra nghị quyết về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến
đấu của Đảng trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam. Nghị quyết nêu rõ: “Để Đảng ta
tiếp tục làm tròn nhiệm vụ trước dân tộc và trước phong trào cộng sản quốc tế, phải tăng cường
công tác xây dựng đảng, đảm bảo cho Đảng ta luôn luôn nắm vững và vận dụng sáng tạo những
nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện mới của cách mạng nước ta, có đường lối,
chính sách đúng, có tư tưởng cách mạng triệt để, có tổ chức vững mạnh, có năng lực lãnh đạo và
chỉ đạo thực hiện đầy đủ, xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân
dân”.
Năm Bính Dần (1986)
Cuối tháng 5-1986, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) họp phân
tích những khuyết điểm, sai lầm trong việc chỉ đạo công tác giá lương tiền, khẳng định quyết tâm
chiến lược xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ
nghĩa, Hội nghị còn thảo luận và góp ý cho Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội lần thứ VI của
Đảng.
Ngày 17-11-1986, Hội nghị lần thứ 11 Ban Chấp hành Trung ương quyết định triệu tập Đại hội
VI sẽ họp công khai vào tháng 12-1986.
Đầu tháng 12-1986, Hội nghị lần thứ 12 của Ban Chấp hành Trung ương tiếp tục thảo luận vấn
đề nhân sự và thông qua danh sách giới thiệu Ban Chấp hành Trung ương mới để trình Đại hội

VI.
Từ 15 đến 18-12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam họp
tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 124 uỷ viên chính
thức. Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức và một uỷ viên dự khuyết. Đồng chí Nguyễn Văn
Linh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội
VI là Đại hội đổi mới, đoàn kết tiến lên của Đảng ta. Đại hội đã đề ra đường lối mới về nhiều
mặt: Đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới tổ chức, đổi mới đội ngũ cán bộ, đổi
mới phong cách lãnh đạo và công tác. Đại hội đánh giá cao quá trình dân chủ hoá sinh hoạt chính
trị của Đảng và nhân dân ta trong thời gian chuẩn bị và tiến hành Đại hội.
Đại hội hoàn toàn nhất trí với những kết luận của Ban Chấp hành Trung ương về đánh giá tình
hình, tổng kết kinh nghiệm, xác định mục tiêu và phương hướng chính sách nhằm đưa sự nghiệp
cách mạng nước ta tiếp tục tiến lên.
Năm Mậu Dần (1998)
Tháng 7-1998, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 (khoá VIII) thảo luận và
thông qua Nghị quyết về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”.
Năm Canh Dần (2010)
Năm 2010 là năm đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng vào đầu năm 2011. Cùng với việc tiếp tục triển khai thực hiện tốt Nghị quyết Đại hội X,
các nghị quyết Trung ương về công tác tổ chức, cán bộ, đảng viên và bảo vệ chính trị nội bộ, tiếp
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên các lĩnh vực, đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới, tiếp tục kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khoá
X), nhiệm vụ quan trọng của Ngành tổ chức trong năm Canh Dần-2010 là tham mưu giúp cấp uỷ
chuẩn bị tốt nhân sự phục vụ đại hội đảng bộ các cấp, góp phần vào thành công Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng.

×