Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC MÔN TRIẾT HỌC DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.15 KB, 56 trang )

ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
1. Vấn đề cơ bản của triết học.
Triết học nghiên cứu hàng loạt các vấn đề chung của thế giới, nhưng vấn đề cơ
bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức (giữa tồn tại và tư
duy, hay giữa tự nhiên và tinh thần).
Nó là vấn đề cơ bản của triết học bởi lẽ, trong thế giới có vô vàn sự vật, hiện
tượng, nhưng chung quy lại chúng chỉ phân thành hai loại: hiện tượng vật chất (tồn tại,
tự nhiên) và hiện tượng ý thức (tư duy, tinh thần). Mặt khác, từ phương Đông sang
phương Tây, từ cổ đại đến hiện đại tất cả các trường phái triết học trước khi nghiên cứu
các vấn đề chung khác, bao giờ cũng nghiên cứu và giải quyết vấn đề mối liên hệ giữa
vật chất và ý thức trước tiên. Việc giải quyết vấn đề này là cơ sở nền tảng cho việc giải
quyết những vấn đề khác của triết học. Nói cách khác việc giải quyết nó là giải quyết về
thế giới quan và phương pháp luận của triết học.
Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt.
Mặt thứ nhất giải quyết về thế giới quan. Tất cả các nhà triết học đều phải trả lời
câu hỏi: “Giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào quyết định cái
nào?”. Tùy theo câu trả lời của các nhà triết học, mà các học thuyết triết học đã chia
thành hai trào lưu chính Duy Vật và Duy Tâm.
Các nhà triết học Duy Vật khẳng định vật chất có trước và quyết định đối với ý
thức. Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc người. Chủ nghĩa duy vật
trong tiến trình phát triển từ cổ đại đến hiện đại đã trãi qua nhiều hình thức khác nhau:
cổ đại, tầm thường, cơ học, máy móc nói chung là duy vật siêu hình, và duy vật biện
chứng.
Ngược lại, các nhà triết học Duy Tâm lại khẳng định ý thức có trước và quyết
định đối với vật chất. Trong tiến trình phát triển của mình, chủ nghĩa duy tâm cũng đã
trãi qua nhiều hình thức khác nhau: duy cảm chủ quan, duy lý, nhị nguyên, duy thức,
duy ngã, nói chung là duy tâm chủ quan và duy tâm khách quan.
Mặt thứ hai giải quyết về vấn đề nhận thức luận: tất cả các nhà triết học đều
phải trả lời câu hỏi: “Con người có khả năng nhận thức thế giới không?”. Tùy theo câu
trả lời của các nhà triết học mà các triết thuyết đã chia thành hai phái:


Khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người có khả năng nhận thức thế
giới. Họ bao gồm tất cả các nhà triết học duy vật, hầu hết các nhà triết học duy tâm chủ
quan và một số nhà triết học duy tâm khách quan.
Bất khả tri luận gồm các nhà triết học trả lời con người không có khả năng nhận
thức thế giới. Họ bao gồm hấu hết các nhà triết học duy tâm khách quan và một số nhà
triết học duy tâm chủ quan.
Trên cơ sở giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, lịch sử triết học chỉ ra Triết
học có hai nguồn gốc: Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy vật là mối liên hệ của
nó với các thành tựu của các khoa học cụ thể. Nguồn gốc xã hội của chủ nghĩa duy vật
là các lực lượng xã hội, các giai cấp tiến bộ, cách mạng trong từng giai đoạn phát triển
của lịch sử. Nguồn gốc nhận thức của chủ nghĩa duy tâm là mối liên hệ của nó với các
đấng siêu nhiên, hoặc tuyệt đối hóa một hay một số yếu tố nào đó của ý thức. Nguồn
gốc xã hội của chủ nghĩa duy tâm thông thường là mối liên hệ của nó với các lực lượng
xã hội, các giai cấp phản tiến bộ, giai cấp thống trị đang trên đà tan rã trong từng giai
đoạn phát triển của lịch sử.
1
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
2. Phạm trù vật chất.
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất, rộng nhất và khái quát nhất
phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến của các
sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.
Mỗi trường phái triết học khác nhau có quan niệm khác nhau về phạm trù: Phái
duy thực coi phạm trù là những bản chất ý niệm, tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý
thức của con người. Phái duy danh cho rằng phạm trù chỉ là những từ trống rỗng không
biểu hiện một cái gì cả. Cant và chủ nghĩa Cant cho rằng phạm trù không phản ánh hiện
thực mà là hình thức nhận biết vốn có sẵn của tư duy, có trước mọi kinh nghiệm, không
phụ thuộc kinh nghiệm, được lý trí con người đưa vào tự nhiên.
Phép biện chứng duy vật (Triết học Mác-Lênin) quan niệm phạm trù không là
cái có sẵn trong bản thân con người một cách bẩm sinh. Các phạm trù có nguồn gốc từ

trong thực tiễn, được hình thành qua sự khái quát hóa, trừu tượng hóa của tư duy lý luận
và ngày càng được bổ sung thêm những phạm trù mới. Phạm trù là kết quả của hoạt
động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn, nội dung của nó mang tính khách quan,
bị thế giới khách quan quy định, mặc dù hình thức tồn tại của chúng là chủ quan. Là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, chịu sự chi phối của thế giới khách quan
nên các phạm trù cũng như phạm trù triết học luôn được bổ sung bằng những phạm trù
mới.
Mỗi khoa học cụ thể đều có phạm trù riêng của mình. Phạm trù triết học khác
phạm trù của các khoa học cụ thể ở chỗ nó là những khái niệm chung nhất, phản ánh
những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản và phổ biến nhất của toàn bộ
thế giới hiện thực. Trong các phạm trù cơ bản của triết học thì phạm trù vật chất và ý
thức là phạm trù cơ bản nhất.
a) Quan niệm của các nhà triết học duy vật trước Mác về vật chất.
- Các nhà triết học duy vật cổ đại: Quy vật chất về vật thể. Nói cách khác là quy
bản nguyên của thế giới về một hay một số dạng cụ thể của vật chất. Chẳng hạn:
Đêmôcrít quy vật chất về nguyên tử; Hêraclit quy vật chất về lửa; phái Âm-Dương sơ
kỳ quy vật chất về âm và dương; v.v.
- Các nhà triết học duy vật tầm thường: Hoặc hạ thấp vai trò của ý thức đối với
vật chất (họ quan niệm óc tiết ra ý thức giống như gan tiết ra mật), hoặc hòa tan ý thức
vào vật chất ( họ quan niệm tư duy là bản chất của máu, hoặc linh hồn được cấu tạo từ
nguyên tử).
- Các nhà triết học duy vật cơ học máy móc: Quy vận động của vật chất về vận
động cơ học. Điển hình là F. Bêcơn đã quy vận động của vật chất về 19 hình thức vận
động cơ học.
- Các nhà triết học duy vật siêu hình thế kỷ XVIII-XIX: thế giới quan của họ là
duy vật, nhưng phương pháp xem xét thế giới của họ là siêu hình.
b) Định nghĩa vật chất của Lênin.
Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản nền tảng của chủ nghĩa
duy vật. Nó chứa đựng nội dung thế giới quan và phương pháp luận rất khái quát và sâu
sắc. Các triết thuyết duy vật trước Mác, tuy siêu hình nhưng vật chất luôn được coi là

thực thể, cơ sở đầu tiên, bất biến của các sự vật và hiện tượng tồn tại trong thế giới
2
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
khách quan. Nó có ý nghĩa to lớn trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa duy tâm và
các biến tướng của nó.
Do đặc điểm lịch sử mà thời C.Mác, Ph.Ăng-ghen hai ông không định nghĩa vật
chất. Trước yêu cầu của lịch sử mới, trên cơ sử phân tích một cách sâu sắc cuộc cách
mạng trong khoa học tự nhiên và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm cùng các biến thể
của nó mà đặc biệt là đấu tranh trực tiếp chống chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, Lênin
đã nêu ra một định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất: “Vật chất
là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người
trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”
1
.
Trong định nghĩa này, Lênin đã phân tích rõ: Không thể hiểu vật chất như các
khái niệm vật chất thường dùng trong các lĩnh vực khoa học cụ thể hoặc đời sống
thường ngày, mà phải hiểu vật chất với tư cách là một phạm trù triết học, tức phạm trù
rộng nhất và khái quát nhất của thế giới.
“Tính thực tại khách quan và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác” là dấu hiệu
cơ bản, bản chất để phân biệt cái gì là vật chất, cái gì không phải là vật chất.
Lênin cũng đã khẳng định vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý
thức bằng cách chỉ ra thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
nó tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
Lênin cũng khẳng định con người có khả năng nhận thức thế giới, bởi thực tại
khách quan biểu hiện thông qua các dạng cụ thể, mà con người bằng cảm giác có thể
chụp lại, chép lại và phản ánh. Vật chất như vậy là nguồn gốc, nội dung khách quan của
ý thức.
Bằng cách định nghĩa đặc biệt, định nghĩa vật chất thông qua quan hệ với cảm

giác, Lênin đã không tách rời vật chất với ý thức mà đặt chúng trong mối quan hệ quy
định ràng buộc lẫn nhau.
Như vậy, định nghĩa vật chất của Lênin đã giải quyết được vấn đề cơ bản của
triết học trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nó chống lại các quan niệm
duy tâm về phạm trù vật chất; Đấu tranh khắc phục triệt để tính trực quan, siêu hình,
máy móc cùng các biến tướng của nó trong quan niệm về vật chất của các nhà khoa học
tự nhiên và triết gia tư sản hiện đại; Định nghĩa vật chât của Lênin khẳng định thế giới
này chỉ duy nhất là thế giới vật chất, vật chất là vô cùng, vô tận, vận động và phát triển
không ngừng đã cổ vũ, khích lệ các nhà khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất để
ngày càng tìm ra nhiều dạng mới, thuộc tính mới của vật chất.
3. Phạm trù vận động:
a) Khái niệm vận động.
Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất là bao gồm mọi sự biến đổi nói chung của
vật chất, nó bao gồm mọi thay đổi trong vũ trụ, kể từ những sự thay đổi vị trí đơn giản
đến tư duy. Vận động là phương thức tồn tại của vật chất. Ăng-ghen nói: ”Vận động
hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là phương thức tồn tại của vật chất, là một
thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn
ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”
2
.
1
V.I. Lênin toàn tập, Tập 18, Nhà xuất bản Tiến bộ, Mat-xcơ-va 1980, Trang 151.
2
Ph. Ăng-ghen : Biện chứng của tự nhiên - Nxb Sự thật - Hà Nội 1974 - Tr 92
3
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
b) Vận động là phương thức tồn tại của vật chất.
Vật chất tồn tại bằng vận động, thông qua vận động để biểu hiện sự tồn tại của
mình. Không có vật chất không vận động, cũng như không có vận động nào không là

vận động của vật chất.
Vận động của vật chất là khách quan. Mọi vận động đều có nguyên nhân tự thân
của nó là sự tác động qua lại giữa các mặt, các yếu tố, các quá trình, ngay bên trong
bản thân sự vật. Do vậy, các dạng vật chất chỉ được nhận thức thông qua vận động của
chúng. Một vật thể nào đó mà không vận động thì không có gì để nói cả.
Vật chất không do ai sáng tạo ra và không thể bị tiêu diệt. Vận động là thuộc
tính cố hữu của vật chất nên vận động cũng không do ai sáng tạo ra và cũng không thể
bị tiêu diệt.
Các hình thức của vận động.
Cho đến nay loài người đã biết đến năm dạng vận động cơ bản của vật chất là:
Vận động cơ học, tức sự thay đổi vị trí của các vật thể trong không gian.
Vận động vật lý, bao gồm trong đó cả vận động cơ học, nhưng đặc trưng của nó
là vận động của các hạt cơ bản, của các quá trình nhiệt, điện, quang, từ, trường v.v.
Vận động hóa học, bao gồm trong đó cả vận động vật lý, nhưng đặc trưng của
nó là vận động của các nguyên tử, là vận động phân giải và hóa hợp của các chất.
Vận động sinh học, bao gồm cả vận động hóa học nhưng đặc trưng là vận động
của cơ thể sống, là sự trao đổi chất giữa cơ thể và môi trường.
Vận động xã hội, bao gồm trong nó cả vận động sinh học, nhưng đặc trưng của
nó là vận động biến đổi xã hội, là sự thay thế nhau của các hình thái kinh tế - xã hội.
Tuy có sự khác nhau về chất, nhưng giữa các hình thức vận động luôn có sự liên
hệ, tác động, chuyển hóa qua lại lẫn nhau. Sự phân biệt khác nhau giữa các hình thức
vận động là nhờ hình thức vận động đặc trưng nhất của nó.
c) Tính mâu thuẫn của vận động (Vận động và đứng im).
Thế giới vật chất không chỉ ở trong quá trình vận động. Triết học Mác -Lênin
chỉ ra vận động của vật chất là tuyệt đối, nhưng cũng thừa nhận tính đứng im tương đối
và tạm thời của vật chất.
Chính nhờ sự đứng im tương đối và tạm thời của vật chất mà thế giới vật chất
được phân hóa thành các sự vật hiện tượng phong phú và đa dạng.
Nói đứng im tương đối vì vật chất chỉ đứng im trong một mối liên hệ nhất định
và vận động trong những mối liên hệ khác.

Nói vật chất đứng im tạm thời vì nó chỉ đứng im trong một thời gian nhất định
khi nó chưa tích lũy đủ về lượng.
Như vậy, đứng im tương đối và tạm thời của vật chất là sự vận động trong thăng
bằng, là sự đứng im có điều kiện.
Lênin nói: “Thế giới không có gì khác ngoài vật chất đang vận động và vật chất
đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”
3
.
Không gian, thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất, là thuộc tính
chung vốn có của mọi dạng vật chất.
3
Lênin toàn tập (bản tiếng Việt) - Tập 18 - Nxb tiến bộ, Matxcơva - Tr 209
4
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện những thuộc tính như
cùng tồn tại và tách biệt, có kết cấu quãng tính. Không gian của vật chất có ba chiều và
cả ba chiều đều vô tận. Không gian của vật thể là hữu hạn.
Thời gian là hình thức tồn tại của vật chất biểu hiện những thuộc tính độ lâu của
sự phát triển, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau của
thế giới vật chất. Thời gian của vật chất chỉ có một chiều từ quá khứ đên hiện tại, đến
tương lai và thời gian của vật chất cũng là vô tận. Thời gian của mọi vật thể là hữu hạn.
d) Ý nghĩa của quan điểm triết học duy vật biện chứng về vận động.
- Với sự phân loại vận động của vật chất thành 5 hình thức cơ bản trên, các hình
thức này luôn quan hệ với nhau theo những nguyên tắc nhất định: 1) Các hình thức ấy
khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác nhâu về trình độ
của sự vận động. Những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. 2)
Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm
trong nó các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận động thấp không
bao hàm trong nó các vận động cao hơn, vì vậy mọi sự quy giản hình thức vận động cao

về các hình thức vận động thấp đều là sai lầm. 3) Trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật
có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau, nhưng bản thân tồn tại của sự
vật đó bao giờ cũng đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Chẳng hạn ở con
người có tất cả các hình thức vận động, nhưng vận động xã hội mới là hình thức đặc
trưng cho hoạt động của nó.
Từ giữa thế kỷ XIX, những người theo chủ nghĩa “Đácuyn xã hội” đã trở nên rất
phản động. Bởi họ xem co người như một sinh vật thông thường, họ giải thích hoạt
động xã hội trong quy luật sinh học mà cho rằng đấu tranh sinh tồn dẫn đến sự tiêu diệt
lẫn nhau của loài người là hiện tượng tự nhiên. Một trong những nguyên nhân sai lầm
của thuyết “Đácuyn xã hội” là không thấy được sự khác nhau về trình độ giữa vận động
sinh học và vận động xã hội, họ đã quy giản một cách gượng ép vận động xã hội về vận
động sinh học.
- Chủ nghĩa duy vật biện chứng thừa nhận quá trình vận động không ngừng của
thế giới vật chất bao hàm trong nó sự đứng im tương đối. Không có hiện tượng đứng im
tương đối thì không có sự vật nào tồn tại được. “Trong vận động của các thiên thể, có
vận động trong cân bằng và có cân bằng trong vận động (một cách tương đối). Nhưng
bất kỳ vận động tương đối riêng biệt nào cũng đều có xu hướng khôi phúc lại sự đứng
im tương đối, sự cân bằng. Khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân
bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hóa của vật chất”
4
.
Hiện tượng đứng im tương đối hay trạng thái cân bằng tạm thời của sự vật trong
quá trình vận động của nó, trên thực tế, chỉ xảy ra khi sự vật được xem xét trong một
quan hệ xác định nào đó. “Vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận
động toàn bộ lại phá hoại sự cân bằng riêng biệt”
5
. “Mọi sự cân bằng chỉ tương đối và
tạm thời”
6
trong sự vận động tuyệt đối và vĩnh viễn của thế giới vật chất.

4. Phạm trù ý thức.
a) Nguồn gốc của ý thức.
4
C.Mác và Ph.Awngghen Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, t 20, tr 740.
5
Sđd, t 20, tr 740.
6
Sđd, t 20, tr 471.
5
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Ý thức có hai nguồn gốc: Nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc tự nhiên.
Nguồn gốc tự nhiên của ý thức chính là bộ não người. Nói cách khác, ý thức là
thuộc tính phản ánh của bộ óc người.
Phản ánh là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất. Phản ánh là năng lực lưu
lại, giữ lại, tái hiện lại những đặc điểm của một hệ thống vật chất này trong một hệ
thống vật chất khác và ngược lại. Phản ánh của vật chất phát triển từ thấp đến cao, từ
đơn giản đến phức tạp. Phản ánh ý thức là phản ánh cao nhất.
Mọi dạng vật chất đều phản ánh, nhưng chỉ phản ánh ở bộ óc người mới là ý
thức. Oc người là dạng vật chất có tổ chức cao nhất, nó có cấu tạo từ 15 tỷ đên 17 tỷ
nơron thần kinh. Ý thức không tách rời khỏi sự hoạt động của bộ não người. Ý thức
phản ánh thế giới khách quan, nhưng diễn ra trong quá trình hoạt động thần kinh của bộ
não người.
Trẻ sơ sinh chưa có ý thức.
Người bị điên, bị bệnh đao nặng là không có ý thức.
Nguồn gốc xã hội.
Nguồn gốc xã hội của ý thức là lao động. Sau lao động và đồng thời với lao
động là ngôn ngữ.
Lao động là hoạt động đặc thù của con người. Nhờ lao động mà vượn người cổ

đại đã biến thành người, làm cho con người khác so với tất cả các loài động vật khác.
Trong lao động con người biết sử dụng và chế tạo công cụ lao động. Lao động của con
người là lao động có định hướng, tác động vào thế giới vì mục đích và nhu cầu của con
người. Chính thông qua lao động, bộ não người được hình thành, phát triển ngày càng
hoàn thiện. Qua đó mà tư duy của con người cũng ngày càng phát triển, hoàn thiện.
Lao động, mà trước hết là lao động sản xuất là hình thức cơ bản đầu tiên của
hoạt động thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội của con người, nó cũng là cơ sở của việc
hình thành và phát triển ngôn ngữ. Ngôn ngữ hình thành và phát triên bắt nguồn từ lao
động và phát triển cùng lao động, lúc đầu là nhu cầu cần thông báo cho nhau những
thông tin gì đó. Về sau ngôn ngữ trở thành phương tiện lưu giữ, truyền tải thông tin từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu thứ hai, là cái vỏ vật chất
của tư duy, vừa là phương tiện để con người giao tiếp, đồng thời là phương tiện để con
người tổng kết các hoạt động thực tiên giữa các thế hệ người trong lịch sử.
Ăng-ghen nói: ”Sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ, đó là hai
sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con
người, tâm lý động vật thành ý thức”
7
.
b) Bản chất của ý thức.
Ý thức có kết cấu phức tạp, bao gồm các yếu tố khác nhau như tri thức, xúc
cảm, tình cảm và ý chí trong đó tri thức là yếu tố quan trọng nhất.
Từ nguồn gốc tự nhiên, thì ý thức chỉ là thuộc tính phản ánh của bộ óc người.
Trước hết, như vậy bản chất của ý thức là phản ánh. Tức ý thức là hình ảnh chủ quan
của thế giớí khách quan trong bộ óc người.
Phản ánh tâm lý động vật cũng là phản ánh thế giới khách quan nhưng là sự
phản ánh bản năng. Phản ánh ý thức ngay từ đầu đã do nhu cầu cải biến thế giới theo
7
Ph. Ăng-ghen: Biện chứng của tự nhiên - Nxb Sự thật - Hà Nội 1974 - Tr 257.
6
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI

TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
mục đích của con người thông qua hoạt động thực tiễn, vì thế nó mang bản chất sáng
tạo. Sáng tạo của ý thức nằm trong khuôn khổ của quy luật phản ánh. Phản ánh và sáng
tạo là hai mặt của một quá trình đồng thời xảy ra trong bộ não người.
Từ nguồn gốc xã hội, thì ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan một cách chủ
động và tích cực. Con người thông qua hoạt động thực tiễn có mục đích, tác động vào
thế giới khách quan buộc chúng phải bộc lộ những đặc tính, kết cấu và quy luật vận
động để phản ánh và nhận thức. Khi đã nhận thức được bản chất, quy luật của các sự
vật, hiện tượng thì con người vận dụng tri thức đó vào cải biến thế giới khách quan vì
mục đích và nhu cầu của con người. Ý thức như thế là mang bản chất xã hội.
Tóm lại: Bản chất của ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới khách quan vào
bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn. Nói cách khác, ý thức là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan được sáng tạo trong bộ óc người thông qua hoạt động
thực tiễn.
5. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa vật
chất và ý thức, ý nghĩa phương pháp luận.
Tính quyết định của vật chất đối với ý thức.
Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. Trong đời sống xã
hội, điều đó được biểu hiện là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Tính quyết định
đó được biểu hiện ở vật chất là nguồn gốc, động lực, mục đích và là tiêu chuẩn, thước
đo kiểm tra tính chân lý của ý thức.
Nhưng nếu chỉ thấy tính quyết định của vật chất mà không thấy vai trò của ý
thức thì sẽ mắc phải những sai lầm của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất theo hai hướng: Khi ý thức phản
ánh đúng, phản ánh một cách khoa học những quy luật khách quan của sự vận động
khách quan của vật chất, thì ý thức có tác dụng tích cực là một động lực của sự vận
động và phát triển của vật chất. Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai, phản ánh xuyên tạc
những quy luật khách quan của sự vận động khách quan của vật chất, thì ý thức có tác
dụng tiêu cực làm cản trở hoặc phá vỡ sự vận động và phát triển của vật chất.

Ý nghĩa phương pháp luận
Trong đời sống hiện thực, ý thức muốn tác động trở lại đối với đời sống vật chất
thì phải chính bằng lực lượng vật chất, tức phải thâm nhập vào con người, được con
người tổ chức thực hiện trong thực tiễn. Mác nói: “Vũ khí của sự phê phán không thể
thay thế được sự phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng
lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm
nhập vào quần chúng”
8
. Lênin cũng chỉ ra: “Không có lý luận cách mạng thì không thể
có phong trào cách mạng”
9
.
Nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người. Vai trò của ý thức là
ở chỗ chỉ đạo hoạt động đúng hay sai, thành công hay thất bại trên có sở những điều
kiện khách quan nhất định. Vai trò của ý thức là ở chõ nhận thức thế giới khách quan và
từ đó con người hình thành mục đích, phương hướng, biện pháp, ý chí cần thiết cho
hoạt động của mình. Sức mạnh của ý thức là biết dựa vào điều kiện vật chất đã có, phản
8
C. Mác - Ph. Ăng-ghen toàn tập - Nxb CTQG - Hà Nội 1995 - Tập 1 - Tr 580.
9
V.I. Lênin toàn tập (bản tiếng Việt) - Tập 6 - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva 1975 - Tr 30.
7
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
ánh đúng quy luật khách quan để cải tạo thế giới khách quan một cách chủ động, sáng
tạo. Con người phản ánh càng đầy đủ và chính xác thế giới khách quan thì càng cải tạo
thế giới có hiệu quả.
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức (năng động chủ quan của con
người) phải trên cơ sở thừa nhận và tôn trọng quy luật khách quan của thế giới. Lênin
thường căn dặn, không được lấy ý muốn chủ quan làm chính sách, không được lấy tình

cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách mạng.
Nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức sẽ tránh cho chúng ta
những căn bệnh chủ quan duy ý chí trong hoạt động thực tiễn, chống thái độ trông chờ,
ỷ lại vào điều kiện vật chất, không phát huy sức mạnh của trí tuệ tinh thần con người
trong quá trình cải biến thế giới.
6. Phép biện chứng duy vật là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự
phát triển.
Phép biện chứng ra đời từ thời cổ đại. Trong lịch sử triết học đã có ba hình thức
cơ bản về phép biện chứng: Phép biện chứng ngây thơ, phép biện chứng duy tâm, phép
biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ gữa thế giới quan duy vật và
phương pháp luận biện chứng, bao hàm nội dung hết sức phong phú bởi đối tượng phản
ánh của nó là thế giới vật chất vô cùng vô tận. Trong đó nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển có ý nghĩa khái quát nhất. Ph.Ăngghen viết: “Phép
biện chứng là môn khoa học về những quy luật phổ biến của sự vận động và phát
triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy”
10
.
Nguyên lý có ý nghĩa như các tiên đề trong các khoa học cụ thể. Nó là cái không
phải chứng minh mà phải chấp nhận và tuân thủ nghiêm nghặt nó. Nếu không tuân thủ
sẽ dẫn đến sai lầm cả trong nhận thức lẫn hành động.
a) Nội dung của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Tất cả mọi sự vật hiện tượng cũng như thế giới, bao giờ cũng tồn tại trong mối
liên hệ phổ biến quy định ràng buộc lẫn nhau, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại cô
lập, riêng lẻ, không liên hệ.
Phân tích nội dung của nguyên lý.
Quan niệm của các nhà triết học duy tâm nếu có thừa nhận có mối liên hệ, thì
mối liên hệ đó do các đấng siêu nhiên hoặc do ý thức quyết định.
Quan niệm của các nhà triết học duy vật siêu hình coi sự vật, hiện tượng tồn tại
tách rời nhau, nếu có mối liên hệ thì là những mối liên hệ ngẫu nhiên, hoặc không xét

hết các khía cạnh của mối liên hệ.
Phép biện chứng duy vật quan niệm các sự vật hiện tượng trong thế giới dù
muôn hình muôn vẻ nhưng không tồn tại cô lập tách biệt mà chúng là một thể thống
nhất, tác động lẫn nhau, ràng buộc lẫn nhau, quy định và chuyển hóa lẫn nhau.
Mối liên hệ này diễn ra trên mọi lĩnh vực, trên mọi quan hệ giữa các yếu tố, các
thuộc tính, các quá trình làm nên bản thân sự vật hiện tượng và giữa các sự vật hiện
tượng với nhau. Mối liên hệ này là khách quan, nó bắt nguồn từ tính thống nhất của thế
giới.
10
C. Mác - Ph. Ăng-ghen toàn tập - Nxb CTQG - Hà Nội 1994 - Tập 20 - Tr 201.
8
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Thế giới là phong phú, đa dạng và nhiều vẻ, vì thế mọi sự phân loại mối liên hệ
đều chỉ có ý nghĩa tương đối, vì một mối liên hệ nào đó cụ thể thì chỉ là một hình thức,
một bộ phận, một mắt khâu của mối liên hệ phổ biến nói chung. Tuy nhiên, sự phân loại
mối liên hệ là cần thiết trong việc quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện
tượng không giống nhau. Ph.Ăngghen viết: “Phép biện chứng là khoa học về sự liên hệ
phổ biến”
11
.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Nắm vững nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, trong nhận thức cũng như trong
hành động thực tiễn cần phải có quan điểm toàn diện khi xem xét đánh giá sự vật hiện
tượng và thế giới, nhất là các vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội. Khi số mối liên hệ được xét
đến càng nhiều thì kết luận về sự vật hiện tượng càng chính xác.
b) Nội dung của nguyên lý về sự phát triển.
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng cũng như thế giới trong quá trình vận động của
mình, dù có chấp nhận những bước lùi nhưng cuối cùng vẫn đạt được sự phát triển.
Không có sự vật hiện tượng nào là không phát triển.

Phân tích nội dung nguyên lý.
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến gắn liền với
nguyên lý về sự phát triển. Hai nguyên lý này thống nhất với nhau bởi liên hệ là vận
động, không vận động không có sự phát triển nào cả.
Khái niệm vận động là chỉ mọi biến đổi nói chung. Khái niệm phát triển là chỉ
những vận động đi lên, cái mới ra đời cao hơn, tiến bộ hơn cái cũ. Sự phát triển diễn ra
theo nhiều chiều hướng, đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện.
Sự phát triển và đổi mới là hiện tượng khách quan diễn ra không ngừng trong vũ
trụ. Nó diễn ra trên mọi lĩnh vực và trên mọi mối liên hệ. Nguồn gốc của phát triển là sự
đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập nằm ngay trong bản thân sự vật hiện
tượng. Sự phát triển không phải bao giờ cũng diễn ra thẳng tắp, xét từng sự vật hiện
tượng cụ thể, riêng lẻ thì có những vận động tuần hoàn, đi lên hoặc đi xuống, nhưng xét
trong quá trình dài và phạm vi rộng thì vận động đi lên là khuynh hướng thống trị.
Quan điểm biện chứng xem xét thế giới như là một quá trình tiến lên thông qua
những bước nhảy vọt, cái cũ mất đi cái mới ra đời, sự đấu tranh của các mặt đối lập
ngay trong bản thân sự vật hiện tượng là nguồn gốc của sự phát triển. Lênin nói:
“Lôgích biện chứng đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự vận động,
trong sự biến đổi của nó”
12
Đối lập với phép biện chứng, quan điểm duy tâm nếu thừa nhận có sự phát triển
thì sự phát triển đó bị lệ thuộc bởi các đấng siêu nhiên hoặc do ý thức quyết định. Các
quan điểm siêu hình lại hoặc phủ nhận phát triển tuyệt đối hóa tính ổn định của sự vật
hiện tượng, hoặc xem sự phát triển chỉ là sự tăng, giảm đơn thuần về lượng, hoặc sự lặp
đi lặp lại đơn thuần về chất.
Ý nghĩa phương pháp luận.
11
Ph. Ăng-ghen - Biện chứng của tự nhiên - Nxb Sự thật - Hà Nội 1963 - Tr 32.
12
V.I. Lênin toàn tập (bản tiếng Việt) - Tập 29 - Nxb Tiến bộ Mátxcơva 1980 - Tr 364.

9
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Nắm vững nguyên lý về sự phát triển cần có quan điểm phát triển khi xem xét
đánh giá sự vật hiện tượng, phải ủng hộ cái mới, khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ,
nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách trực quan tĩnh tại.
Nắm vững hai nguyên lý đòi hỏi phải có quan điểm toàn diện khi xem xét đánh
giá sự vật hiện tượng, đồng thời với việc đặt sự vật trong nhiều mối liên hệ thì cũng
phải có quan điểm lịch sử cụ thể, quan điểm phát triển trong đánh giá xem xét.
7. Những quy luật của phép biện chứng duy vật
Quy luật là mối liên hệ bản chất, ổn định, phổ biến giữa các sự vật hiện tượng
hoặc giữa những mặt của mỗi sự vật hiện tượng.
Tùy theo tính chất và phạm vi của chúng, quy luật có nhiều loại: Quy luật tự
nhiên, quy luật xã hội, quy luật tư duy. Có quy luật chi phối trong phạm vi rộng lớn,
cũng có quy luật chỉ chi phối trong phạm vi hẹp. Mỗi loại quy luật được một ngành
khoa học nghiên cứu.
Phép biện chứng duy vật là khoa học nghiên cứu về những quy luật chung nhất
của sự vận động và phát triển của thê giới.
7a) QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI
LẬP.
Quy luật này còn có tên gọi là quy luật đồng nhất, và gọi tắt là quy luật mâu
thuẫn. Đây là quy luật cơ bản quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra
nguồn gốc động lực bên trong của sự phát triển.
Nội dung của quy luật.
Tất cả mọi sự vật hiện tượng cũng như thế giới bao giờ cũng là một thể thống
nhất của các mâu thuẫn. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc,
động lực bên trong của sự phát triển.
Phân tích nội dung của quy luật.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và phổ biến của thế giới. Mâu thuẫn là khái
niệm chỉ sự liên hệ và tác động lẫn nhau của các mặt đối lập. Các mặt đối lập có khuynh

hướng phát triển trái ngược nhau, cùng tồn tại trong một sự vật. Mâu thuẫn là hiện
tượng phổ biến tồn tại bên trong mỗi sự vật hiện tượng ở tất cả mọi lĩnh vực của thế
giới.
Trong mỗi sự vật hiện tượng không chỉ có một mâu thuẫn mà có nhiều mâu
thuẫn và mỗi mâu thuẫn đều có đặc trưng riêng, có vai trò riêng đối với sự vận động và
phát triển. Ph.Ăngghen viết: “Nếu bản thân sự di động một cách máy móc đơn giản đã
chứa đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và
đặc biệt là sự sống hữu cơ lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn như vậy. Sự sống trước
hết là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó nhưng lại vừa là cái khác.”
13
Khái niệm mặt đối lập trong quy luật là khái quát những mặt, những thuộc tính,
những khuynh hướng trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật hiện tượng.
Mỗi mâu thuẫn ít nhất có hai mặt đối lập, nhưng không phải bất kỳ mặt đối lập nào
cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ những mặt đối lập cùng nằm trong một chỉnh thể có liên
hệ khăng khít với nhau, tác động lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn. Mâu thuẫn mà quy
luật nói đến là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với nhau.
13
Ph. Ăng-ghen - Chống Đuy Rinh - Nxb Sự thật - Hà Nội 1975 - Tr 202.
10
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập có nghĩa là các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau, phủ định lẫn nhau. Các mặt đối lập vẫn luôn có xu hướng phát triển trái ngược
nhau, không thể nằm yên bên nhau nhưng tồn tại trong mối liên hệ quy định ràng buộc
nhau.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là một quá trình phức tạp chia ra nhiều giai
đoạn. Khi hai mặt đối lập mâu thuẫn xung đột gay gắt nếu có điều kiện chín muồi chúng
sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập
làm cho sự vật hiện tượng không thể tồn tại một cách vĩnh viễn. Chính thế đấu tranh

giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối, nó diễn ra liên tục trong suốt quá
trình ổn định cũng như trong lúc chuyển hóa của các mặt đối lập dẫn tới sự vật mới thay
thế cho sự vật cũ. Tính tuyệt đối, liên tục của sự đấu tranh của các mặt đối lập là nguyên
nhân của trạng thái tự thân vận động và phát triển không ngừng của thế giới. Sự đứng
im tương đối, tạm thời của sự vật hiện tượng cũng là vận động trong thế cân bằng của
các mặt đối lập.
Đấu tranh giữa các mặt đối lập là nhằm giải quyết mâu thuẫn. Việc giải quyết
mâu thuẫn thực hiện bằng chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Sự chuyển hóa
được thực hiện ở giai đoạn chín muồi của mâu thuẫn và phải có điều kiện cụ thể tùy
theo từng sự vật, diễn ra dưới nhiều hình thức. Hai khuynh hướng khái quát nhất của sự
chuyển hóa là: Mặt đối lập này được chuyển hóa thành mặt đối lập kia và thành lập
ngay cho mình mặt đối lập mới để tiếp tục đấu tranh với nhau trong sự vật mới; Hai mặt
đối lập cũ cùng mất đi và hình thành hai mặt đối lập mới trong sự vật mới ở tính chất,
trình độ cao hơn.
Khái niệm thống nhất trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là hai mặt đối lập liên
hệ với nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn
tại cho mình (theo nghĩa này mà quy luật còn được gọi là quy luật đồng nhất).
Sự thống nhất không tách rời sự khác nhau, sự đối lập. Mỗi sự vật hiện tượng
vừa là nó vừa không là nó. Trong thống nhất bao hàm cả sự khác nhau, sự đối lập nhau,
sự đấu tranh lẫn nhau. Sự thống nhất các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính tương
đối, tạm thời, tức nó chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định. Sự thống nhất của các
mặt đối lập là nguyên nhân của trạng thái đứng im tương đối, tạm thời của thế giới.
Lênin viết: “Sự thống nhất của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua,
tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự
phát triển, sự vận động là tuyệt đối.”
14
Một số loại mâu thuẫn.
Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
Mâu thuẫn bên trong là những mâu thuẫn nằm ngay bên trong bản thân sự vật

hiện tượng. Nó có vai trò là nhân tố quyết định sự vận động và phát triển của sự vật hiện
tượng. Nó là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
Mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật hiện tượng với nhau. Nó
không giữ vai trò quyết định nhưng có ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của sự vật
hiện tượng. Sự ảnh hưởng này muốn phát huy tác dụng phải thông qua các mâu thuẫn
bên trong.
14
V. I. Lênin toàn tập - Tập 29 - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva - 1981 - Tr 379.
11
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Sự phân biệt mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ có ý nghĩa tương
đối, nó hoàn toàn tùy thuộc các mối quan hệ cụ thể.
Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản.
Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng sự xuất
hiện, tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng. Nó quyết định sự phát triển của sự vật
hiện tượng từ khi hình thành cho đến khi kết thúc. Khi mâu thuẫn cơ bản được giải
quyết thì sự vật hiện tượng có sự thay đổi về chất.
Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn xuất hiện, tồn tại và phát triển cùng sự
xuất hiện, tồn tại và phát triển của sự vật hiện tượng nhưng không giữ vai trò quyết định
mà chỉ ảnh hưởng đến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng.
Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu.
Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn phát triển
nhất định của sự vật hiện tượng. Nó giữ vai trò quyết định đối với những mâu thuẫn
khác trong cùng giai đoạn của quá trình phát triển.
Mâu thuẫn không chủ yếu là những mâu thuẫn phát sinh trong từng giai đoạn
phát triển của sự vật hiện tượng, không giữ vai trò quyết định mà chỉ ảnh hưởng đến sự
phát triển của sự vật hiện tượng.
Ranh giới giữa mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu chỉ là tương đối.
Tùy điều kiện cụ thể chúng có thể chuyển hóa cho nhau. Mâu thuẫn chủ yếu thường là

biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản trong từng giai đoạn của sự phát triển của sự vật
hiện tượng. Do đó việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu cũng là quá trình giải quyết dần
dần mâu thuẫn cơ bản.
Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa các khuyng hướng, những lực lượng xã
hội có lợi ích cơ bản trái ngược nhau không thể điều hòa được. Loại mâu thuẫn này chỉ
có trong các xã hội có đối kháng giai cấp. Việc giải quyết mâu thuẫn này phải dùng đến
bạo lực cách mạng.
Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa các khuynh hướng, lực lượng xã
hội có lợi ích cơ bản thống nhất nhau. Việc giải quyết mâu thuẫn này thường là phương
pháp hòa bình, phương pháp giáo dục.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn cần phải thừa nhận tính
khách quan của mâu thuẫn đối với sự vật hiện tượng. Lênin nói: “Sự phân đôi của cái
thống nhất, và sự nhận thức các bộ phận đối lập của nó, đó là thực chất của phép biện
chứng.”
15
Cần phải biết phân loại các mâu thuẫn một cách khoa học. Phải biết phân tích và
giải quyết cụ thể từng mâu thuẫn với những biện pháp thích hợp.
Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn. Mẫu thuẫn chỉ được giải quyết
khi chín muồi. Bất kỳ mâu thuẫn nào và bất kỳ ở giai đoạn nào, mâu thuẫn chỉ được giải
quyết bằng đấu tranh giữa các mặt đối lập, tuyệt nhiên không được điều hòa mâu thuẫn.
7b) QUY LUẬT SỰ TÍCH LŨY DẦN DẦN VỀ LƯỢNG DẪN ĐẾN SỰ
THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI.
15
Sđd - Tập 29 - Tr 378.
12
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Đây là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó có tên gọi

tắt là quy luật lượng chất. Quy luật này nói rõ cách thức của sự vận động và phát triển
của sự vật hiện tượng và thế giới.
Nội dung của quy luật.
Mọi sự vật hiện tương cũng như thế giới là một thể thống nhất của hai mặt lượng
và chất. Sự tích lũy dần dần về lượng sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất. Khi chất mới ra
đời đến lượt nó lại tạo tiền đề điều kiện cho sự tích lũy dần dần về lượng mới. Sự tích
lũy dần dần về lượng mới sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất tiếp theo Quá trình cứ thế
tiếp tục, đó là cách thức của sự phát triển.
Phân tích nội dung của quy luật.
Khái niệm lượng và chất.
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có quy định
cấu thành nên bản thân các sự vật hiện tượng, nói lên sự vật hiện tượng đó là gì và phân
biệt nó với các sự vật hiện tượng khác.
Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều thuộc tính cơ bản, nhưng không phải thuộc tính
cơ bản nào cũng là chất. Chỉ những thuộc tính cơ bản nào nói lên sự vật, hiện tượng đó
là gì và phân biệt nó với các sự vật, hiện tượng khác mới là chất. Chất không tồn tại một
cách thuần túy. Chất là cái khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng và chỉ tồn tại
thông qua các mối quan hệ cụ thể. Chính thế sự phân biệt chất và thuộc tính cơ bản chỉ
có ý nghĩa tương đối. Chất biểu hiện tình trạng tương đối ổn định của sự vật, hiện
tượng, không tách rời với sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều chất. Khi
chất thay đổi thì sự vật, hiện tượng cũng thay đổi.
Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính cơ bản vốn có quy
định của bản thân sự vật, hiện tượng nói lên quy mô, trình độ, tốc độ của sự phát triển
của sự vật, hiện tượng.
Lượng bao giờ cũng được biểu thị bằng số lượng, nhưng không phải mọi số
lượng đều là lượng. Mỗi sự vật, hiện tượng hiện tượng có nhiều lượng. Cũng như chất,
lượng không tồn tại một cách thuần túy mà tồn tại thông qua các mối liên hệ cụ thể.
Lượng tồn tại khách quan và là thuộc tính bên trong năng động của sự vật, hiện tượng.
Tuy nhiên, lượng đôi khi còn phải được xác định không phải là các con số mà phải tư
duy một cách trừu tượng, thậm chí còn xác định lượng dường như là nhân tố bên ngoài.

Sự phân biệt giữa lượng và chất chỉ là tương đối, nó tùy thuộc mối quan hệ xác
định, tức cùng một thuộc tính cơ bản nhưng có thể ở mối quan hệ này là lượng ở mối
quan hệ khác là chất và ngược lại.
Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất.
Chất và lượng là hai mặt đối lập nằm trong một thể thống nhất là sự vật, hiện
tượng. Chúng không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Sự thống
nhất giữa chúng chỉ ở trong một độ nhất định khi sự vật hiện tượng đang tồn tại.
Độ là giới hạn trong đó sự vật, hiện tượng luôn có sự biến đổi về lượng nhưng
chất của nó chưa đổi. Tức trong phạm vi độ, lượng và chất luôn tác động lẫn nhau làm
cho sự vật, hiện tượng vận động và phát triển.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút), thì dẫn đến sự thay
đổi về chất. Giới hạn đó tùy thuộc sự vật, hiện tượng cụ thể. Sự thay đổi về chất qua
điểm nút gọi là bước nhảy (nhảy vọt). Đó là bước ngoặt căn bản kết thúc một giai đoạn
13
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
trong sự biến đổi về lượng, là sự gián đoạn trong quá trình biến đổi liên tục, chấm dứt
một dạng tồn tại cụ thể của sự vật, hiện tượng.
Khi chất mới ra đời lại có một lượng mới thích hợp tạo nên sự thống nhất mới
giữa lượng và chất. Sự tác động của chất mới đối với lượng mới biểu hiện ở quy mô,
trình độ, tốc độ vận động của lượng mới. C.Mác viết: “Những thay đổi đơn thuần về
lượng, đến một mức độ nhất định sẽ chuyển thành những sự vật khác nhau về chất”
16
Sự thay đổi về chất của các sự vật, hiện tượng là rất phong phú đa dạng,với
nhiều hình thức nhảy vọt khác nhau. Tính chất của các bước nhảy được quyết định bởi
chính bản thân sự vật, hiện tượng bởi chính những mâu thuẫn vốn có của nó và do
những điều kiện trong đó diễn ra sự thay đổi về lượng. Nhìn chung có một số các bước
nhảy cơ bản như sau: Đột biến, Dần dần, Toàn phần và Cục bộ.
Nhảy vọt đột biến là bước nhảy trong đó chất của sự vật, hiện tượng biến đổi
một cách nhanh chóng ở tất cả các các bộ phận cấu thành nó. Nhảy vọt dần dần là quá

trình thay đổi về chất diễn ra bằng con đường tích lũy dần dần những nhân tố của chất
mới và mất đi dần dần những nhân tố của chất cũ.
Sự nhảy vọt dần dần là sự chuyển hóa chất này sang chất khác, là sự đứt đoạn
của tính liên tục. Sự tích lũy dần dần về lượng diễn ra một cách liên tục trong khuôn
khổ của chất đang có.
Sự phân biệt giữa nhảy vọt đột biến và nhảy vọt dần dần vừa dựa trên thời gian,
vừa dựa trên tính chất của sự thay đổi về chất. Sự khác nhau giữa nhảy vọt đột biến và
nhảy vọt dần dần thể hiện không chỉ ở thời gian diễn ra sự biến đổi mà còn cả ở cơ chế
của sự thay đổi đó. Bước nhảy dần dần là quá trình rất phức tạp, trong đó bao gồm cả
bước nhảy toàn bộ lẫn bước nhảy cục bộ.
Bước nhảy toàn bộ là bước nhảy làm thay đổi về chất ở tất cả các mặt, các bộ
phận, các yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng. Bước nhảy cục bô là bước nhảy làm
thay đổi một số mặt, một số bộ phận, một số yếu tố cấu thành sự vật, hiện tượng ấy.
Những sự vật, hiện tượng phức tạp về cấu trúc, tính chất, bộ phận cấu thành thì bước
nhảy thường từ nhảy vọt cục bộ đến nhảy vọt toàn bộ.
Tóm lại, quy luật lượng chất chỉ rõ cách thức biến đổi của sự vật, hiện tượng. Đó
là quá trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt lượng - chất. Chất tương đối ổn định, lượng
thường xuyên biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ. Mâu thuẫn được giải
quyết chất mới được hình thành với lượng mới. Những lượng mới lại tiếp tục biến đổi
đến những điểm nút mới phá vỡ chất cũ đang kìm hãm nó tạo nên những chất mới. Sự
vận động liên tục của sự vật, hiện tượng từ biến đổi dần dần về lượng đến nhảy vọt về
chất, rồi biến đổi dần dần về lượng chuẩn bị cho bước nhảy về chất tiếp theo. Quá trình
cứ thế tiếp diễn làm cho sự vật, hiện tượng không ngừng biến đổi và phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Trong tư duy cũng như trong hoạt động thực tiễn, cần xác định quy mô, tốc độ,
trình độ của những bước nhảy một cách khách quan, khoa học. Cần tạo điều kiện thuận
lợi cho sự tích lũy về lượng và biết chớp thời cơ để thực hiện các bước nhảy về chất
không được rập khuôn giáo điều hay bảo thủ ngại khó.
16
Các Mác - Tư bản, quyển I, tập 1, Nxb Sự thật Hà Nội 1973, Tr 573.

14
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Nếu tuyệt đối hóa về chất, chỉ chú trọng thực hiện các bước nhảy mà không chú
ý tích lũy về lượng là rơi vào chủ nghĩa tả khuynh (nôn nóng, chủ quan, duy ý chí, hành
động phiêu lưu mạo hiểm).
Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa sự tích lũy về lượng, hạ thấp vai trò của bước nhảy
về chất sẽ dẫn dến chủ nghĩa hữu khuynh (Bảo thủ, trì trệ, ngại khó ), hoặc sẽ rơi và
chủ nghĩa cải lương và tiến hóa luận.
7c) QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG CỦA PHỦ ĐỊNH BIỆN
CHỨNG.
Nội dung của quy luật.
Mọi sự vật, hiện tượng cũng như thế giới vận động và phát triển có tính chu kỳ.
Để thực hiện một chu kỳ của sự phát triển thì sự vật, hiện tượng phải trãi qua ít nhất hai
lần phủ định biện chứng. Khuynh hướng của sự phát triển của sự vật, hiện tượng và thế
giới là theo đường xoáy trôn ốc.
Phân tích nội dung quy luật.
Phủ định siêu hình và phủ định biện chứng.
Phủ định siêu hình dù hiểu theo cách nào cũng có ba đặc điểm chính là: Biến sự
vật, hiện tượng thành cái khác nó hoặc đối lập với chính nó; Là sự phủ định sạch trơn
không kế thừa, không chọn lọc; Là sự phủ định khách quan hoặc chủ quan.
Phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển, là mắt
khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
Như vậy, phủ định biện chứng cũng có ba đặc điểm chính: Chuyển hóa sự vật, hiện
tượng thành cái khác nó hoặc đối lập với nó; Là sự phủ định có kế thừa có chọn lọc; Chỉ
là sự phủ định khách quan.
Phủ định biện chứng của phủ định biện chứng.
Phủ định biện chứng lần thứ nhất tạo ra cái khác cái ban đầu hoặc đối lập với cái
ban đầu. Phủ định biện chứng lần thứ hai dường như tái lập lại cái ban đầu nhưng trên
cơ sở tính chất và trình độ cao hơn. Sự phủ định biện chứng lần hai gọi là phủ định biện

chứng của phủ định biện chứng (gọi tắt là phủ định của phủ định).
Phủ định của phủ định xuất hiện với tư cách là cái tổng hợp tất cả những yếu tố
tích cực và loại bỏ những yếu tố tiêu cực trong các giai đoạn trước. Chính thế, cái mới
ra đời có nội dung phong phú, toàn diện, cao hơn cái cũ.
Phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời
là điểm xuất phát cho một chu kỳ tiếp theo.
c) Số lần phủ định biện chứng trong một chu kỳ của sự phát triển.
Sự vật hiện tượng trong thế giới là rất phong phú đa dạng, vì thế chu kỳ của sự
phát triển ở từng sự vật, hiện tượng cũng rất khác nhau. Số lần phủ định trong mỗi chu
kỳ vì thế ít hoặc nhiều là tùy theo từng sự vật, hiện tượng cụ thể.
Chẳng hạn, vòng đời của cây lúa trãi qua hai lần phủ định biện chứng, nhưng
vòng đời của con ếch phải trãi qua ba lần, con tằm phải trãi qua bốn lần phủ định biện
chứng Số lượng các lần phủ định trong một chu kỳ phát triển cụ thể nhiều hay ít,
nhưng để đạt được sự phát triển thì ít nhất phải trải qua hai lần.
Con đường của sự phát triển.
Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như nêu trên
là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại và phát triển. Nó biểu hiện sự phát triển do mâu
15
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
thuẫn, khái quát tính chất tiến lên của phát triển. Sự phát triển đó không diễn ra theo con
đường thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Lênin viết: “Sự phát triển dường như diễn lại
những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn; sự
phát triển có thể nói là theo đường trôn ốc chứ không theo đường thẳng”
17
.
Mỗi vòng mới của đường xoáy ốc thể hiện một trình độ, tính chất cao hơn của
sự phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua. Sự nối tiếp của các vòng xoáy
thể hiện tính liên tục, tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao.
Ý nghĩa phung pháp luận của quy luật

Quá trình phát triển của thế giới không diễn ra theo một đường thẳng mà rất
quanh co, phức tạp, trãi qua nhiề lần phủ định, nhiều khâu trung gian, đặc biệt là trong
lĩnh vực đời sống xã hội. Bởi thế, việc nắm vững quy luật cho ta cách nhìn biện chứng,
khoa học về xu thế phát triển của thế giới và của thời đại hiện nay.
Cần phải có quan điểm khoa học, biết phát hiện, đánh giá và ủng hộ cái mới.
Chống phủ định sạch trơn cũng như kế thừa nguyên xi cái cũ.
Trên thực tế hiện nay có những kẻ, trong đó có những người vốn là mác-xít luôn
ra sức phủ nhận những thành quả to lớn của Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu.
Họ không thấy được trong 70 năm tồn tại, Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã để lại những
giá trị tích cực có ảnh hưởng lâu dài đối với lịch sử toàn thế giới.
Ở Việt Nam trong thời đổi mới cũng có một số biểu hiện lệch lạc trên lĩnh vực
văn hóa. Đảng ta đã nhận định rằng, trong những năm gần đây, “nhiều hủ tục cũ lan
tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang, lễ hội ”
18
.
8. Các phạm trù cơ bản của phép biện chứng duy vật.
8a) Cặp phạm trù cái Riêng - cái Chung.
Các khái niệm.
a) Cái Riêng: Cái riêng là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện
tượng hoặc một quá trình riêng lẻ nhất định. Chẳng hạn: một người, một ngôi sao, một
con sông, một lớp học
b) Cái Chung: Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt,
những thuộc tính, những mối liên hệ giống nhau ở nhiều sự vật hiện tượng hay quá trình
riêng lẻ. Chẳng hạn vận động, mâu thuẫn, đồng hóa, dị hóa, hô hấp
c) Cái đơn nhất (Đặc thù): Cái đơn nhất là phạm trù triết học dùng để chỉ những
nét, những mặt, những đặc điểm chỉ có ở một sự vật, hiện tượng nào đó mà không lặp
lại ở các sự vật, hiện tượng khác.
Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung.
Phái duy thực quan niệm cái chung tồn tại độc lập không phụ thuộc vào cái
riêng và sinh ra cái riêng. Cái chung tồn tại vĩnh viễn không biến đổi còn cái riêng chỉ

tồn tại tạm thời và mất đi (tiêu biểu là Platôn). Ngược lại phái duy danh lại cho rằng chỉ
cái riêng tồn tại thực sự, còn cái chung chỉ là tên gọi do lý trí đặt ra chứ không phản ánh
một cái gì hiện thực.
Quan niệm của phép biện chứng duy vật cho rằng: Cái riêng và cái chung tồn tại
một cách khách quan và luôn quan hệ lẫn nhau. Không có riêng, chung tồn tại thuần túy
không liên hệ.
17
V.I Lênin toàn tập - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva 1980 - Tập 26 - Tr 65.
18
ĐCSVN - Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khóa VIII - Nxb CTQG - Hà Nội 1998 - Tr 46.
16
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện. Cái riêng
chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Chẳng hạn, vận động chỉ biểu hiện thông
qua các hình thức vận động cụ thể. Trong sản xuất, bất cứ nước nào cũng phải tuân thủ
quy luật quan hệ sản xuất phải luôn luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất.
Cái riêng là cái toàn thể phong phú hơn cái chung, vì ngoài những mặt những
thuộc tính gia nhập vào cái chung, nó còn những cái đơn nhất. Cái chung là cái bộ
phận nhưng sâu sắc, bản chất hơn cái riêng. Bởi nó phản ánh những mặt những thuộc
tính, những mối liên hệ bên trong, tất nhiên, ổn định, phổ biến tồn tại trong cái riêng
cùng loại. Cái chung bởi thế thường gắn với bản chất quy định phương hướng tồn tại và
phát triển của sự vật, hiện tượng.
Cái đơn nhất và cái chung là những phạm trù cùng loại nên trong những mối liên
hệ nhất định chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau. Sở dĩ có điều này là do trong hiện thực,
cái mới không bao giờ xuất hiện đầy đủ ngay một lúc, mà xuất hiện ở dạng cá biệt, đơn
nhất rồi theo quy luật phát triển, hoàn thiện thành cái chung. Trong khi đó cái cũ từ là
cái chung ngày càng biến dần thành cái đơn nhất.
Ý nghĩa phương pháp luận.

Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn, cần phải biết phát hiện cái
chung và vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng. Nhưng muốn phát hiện cái chung phải
xuất phát từ những cái riêng cụ thể.
Khi vận dụng cái chung vào cái riêng, phải biết cá biệt hóa cái chung cho phù
hợp với những đặc điểm của cái riêng. Không áp đặt một cách nguyên xi cái chung cho
mọi cái riêng.
Cần biết tạo điều kiện thuận lợi cho những cái đơn nhất có lợi chuyển hóa thành
cái chung, ngược lại phải tạo điều kiện cho những cái chung lỗi thời không là điều
mong muốn của ta biến thành cái đơn nhất.
Trong thực tiễn, khi vận dụng cặp phạm trù cái riêng và cái chung nếu tuyệt đối
hóa vai trò của cái chung mà hạ thấp vai trò của cái riêng sẽ dẫn đến chủ nghĩa giáo
điều, rập khuôn, máy móc (hữu khuynh). Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của cái
riêng mà hạ thấp vai trò của cái chung sẽ dẫn đến tư tưởng địa phương chủ nghĩa, tập
thể phường hội, chủ nghĩa cá nhân (tả khuynh).
8b) Cặp phạm trù Nguyên nhân - Kết quả.
Các khái niệm.
Nguyên nhân là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các
mặt, các yếu tố trong sự vật, hiện tượng hay giữa sự vật, hiện tượng với nhau gây ra
một sự biến đổi nhất định.
Kết quả là phạm trù triết học dùng để chỉ những biến đổi xuất hiện do sự tác
động lẫn nhau của các mặt, các yếu tố trong một sự vật hiện tượng hay giữa các sự
vật hiện tượng với nhau.
Ví dụ: Sự tự quay xung quanh mình và quay xung quanh mặt trời của quả đất là
nguyên nhân dẫn đến kết quả có ngày, đêm, bốn mùa.
Nguyên nhân khác với nguyên cớ và điều kiện: Nguyên cớ là khái niệm dùng để
chỉ những gì xảy ra trước kết quả, không sinh ra kết quả, có liên quan không bản chất
với kết quả và nằm ngoài sự vật, hiện tượng. Điều kiện là khái niệm dùng để chỉ sự tổng
17
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009

hợp những hiện tượng không phụ thuộc vào nguyên nhân, không tham gia vào kết quả,
nhưng để có kết quả thì không thể thiếu nó.
Mối quan hệ nhân - quả là khách quan của bản thân sự vật, hiện tượng. Nó tồn
tại không lệ thuộc vào ý muốn của con người. Nhân - quả là cái vốn có của bản thân sự
vật, hiện tượng vì thế nó cũng không thể đồng nhất với khả năng tiên đoán. Ngược lại,
Chủ nghĩa duy tâm lại cho rằng nó bị lực lượng siêu nhiên, hoặc ý thức của con người
quyết định (Công giáo, Hium).
Mối quan hệ nhân - quả là phổ biến trong tồn tại của sự vật, hiện tượng và thế
giới (nguyên tắc quyết định luận). Chủ nghĩa duy tâm hiện đang phủ nhận nguyên tắc
này và thay thế vào đó nguyên tắc vô định luận, cho rằng có hiện tượng không có
nguyên nhân. Đây là vấn đề đang được tranh luận sôi nổi trong các hiện tượng vi mô.
Mối quan hệ nhân - quả là một tất yếu. Tức có những kết quả muốn ra đời phải
có những điều kiện nhất định (hoàn cảnh). Nhưng trong những hoàn cảnh nhất định, với
một nguyên nhân nhất định chỉ có thể gây ra kết quả nhất định. Chẳng hạn vật trong
chân không luôn rơi ở vận tốc 9,8m/s
2
. Nước ở áp suất 1 átmốtphe luôn sôi ở nhiệt độ
100
0
C v.v. Tính tất yếu của quan hệ nhân - quả cần được hiểu: Nếu nguyên nhân và
hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì các kết quả do nguyên nhân gây nên càng ít
khác nhau bấy nhiêu.
Mối quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả.
- Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Nguyên nhân luôn là cái có trước kết quả,
sản sinh ra trước kết quả. Kết quả chỉ xuất hiện sau khi nguyên nhân xuất hiện và bắt
đầu tác động. Nhưng mối quan hệ nhân - quả phải bao gồm đồng thời cả hai quan hệ thứ
tự và sản sinh. Mối quan hệ liên tục về thời gian mà thiếu quan hệ sản sinh như ngày -
đêm và bốn mùa không là quan hệ nhân- quả. S = π.R
2
là công thức tính diện tích hình

tròn nhưng giữa S và R không là quan hệ nhân - quả.
Một nguyên nhân có thể gây ra nhiều kết quả khác nhau tùy thuộc hoàn cảnh,
cũng như một kết quả có thể được gây nên từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Nếu các
nguyên nhân tác động lên sự vật, hiện tượng theo cùng một hướng chúng sẽ cùng gây
nên ảnh hưởng cùng chiều với sự hình thành kết quả. Ngược lại, nếu các nguyên nhân
tác động lên sự vật, hiện tượng theo các hướng khác nhau thì chúng sẽ làm suy yếu lẫn
nhau, thậm chí hoàn toàn triệt tiêu tác dụng của nhau.
Căn cứ vào tính chất và vai trò của nguyên nhân đối với sự hình thành kết quả,
có thể phân chia nguyên nhân thành các loại sau: Nguyên nhân chủ yếu là những
nguyên nhân mà thiếu nó thì không thể xảy ra kết quả. Nguyên nhân thứ yếu là những
nguyên nhân mà sự có mặt của nó chỉ quyết định những đặc điểm nhất thời, không ổn
định, cá biệt của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân bên trong là sự tác động lẫn nhau
giữa các mặt, các yếu tố của cùng một sự vật, hiện tượng gây ra những biến đổi nhất
định. Nguyên nhân bên trong bao giờ cũng quyết định sự hình thành, tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng. Nguyên nhân bên ngoài là sự tác động lẫn nhau giữa những
sự vật, hiện tượng khác nhau gây nên những biến đổi thích hợp trong những sự vật, hiện
tượng ấy. Nguyên nhân bên ngoài chỉ phát huy tác dụng của mình thông qua những
2
Số này đọc là giây.
0
2
Số này đọc là bình phương
18
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
nguyên nhân bên trong. Nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân xuất hiện và
tác động độc lập với ý thức của con người. Nguyên nhân chủ quan là những nguyên
nhân xuất hiện và tác động phụ thuộc vào ý thức của con người. Nếu hoạt động của con
người phù hợp với quan hệ nhân - quả khách quan thì sẽ đẩy nhanh sự biến đổi của các
sự vật, hiện tượng và thế giới. Ngược lại, nếu hoạt động của con người không phù hợp

với nguyên nhân khách quan thì nó kìm hãm sự biến đổi ấy.
- Nguyên nhân sinh ra kết quả, nhưng kết quả không thụ động đối với nguyên
nhân mà nó có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với nguyên nhân. Chẳng hạn, khi
nhấn một khối gỗ vào một chậu nước đầy sẽ làm cho nước trong chậu tràn ra. Đến lượt
nó, chính do nước tràn ra ngoài mà lực đẩy của nó đối với khối gỗ bị giảm đi.
- Trong chuỗi vô tận của thế giới vật chất, không có nguyên nhân nào được xem
là nguyên nhân đầu tiên, cũng như không có kết quả nào được xem là kết quả cuối cùng.
Tuy nhiên, nguyên nhân và kết quả là những khái niệm có ý nghĩa tương đối. Nó đúng
khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Nói chung một hiện tượng
nào đó trong mối quan hệ này là nguyên nhân thì trong mối quan hệ khác có thể là kết
quả và ngược lại. Một hiện tượng nào đó được coi là nguyên nhân hay kết quả bao giờ
cũng ở trong những mối quan hệ xác định, cụ thể.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Mọi sự vật, hiện tượng đều có nguyên nhân xuất hiện, tồn tại và tiêu vong của
nó. Mối quan hệ nhân - quả là khách quan nên chỉ có thể tìm nguyên nhân của sự vật,
hiện tượng trong chính thế giới sự vật, hiện tượng chứ không thể tìm ở ngoài nó.
Phải tìm nguyên nhân của sự vật, hiện tượng trong những mặt, những yếu tố,
những mối liên hệ đã xảy ra trước sự xuất hiện của sự vật, hiện tượng.
Cần phải biết phân loại các loại nguyên nhân, phân tích tỷ mỷ và thận trọng từng
nguyên nhân để có biện pháp xử lý đúng đắn. Khi muốn loại bỏ một sự vật, hiện tượng
nào đó thì phải loại bỏ nguyên nhân sinh ra nó. Muốn cho sự vật, hiện tượng xuất hiện
cần tạo ra những nguyên nhân và các điều kiện để nguyên nhân sinh ra nó phát huy tác
dụng. Khi sử dụng nguyên nhân tác động cho sự vật, hiện tượng xuất hiện cần tập trung
trước hết vào các nguyên nhân chủ yếu và nguyên nhân bên trong. Trong lĩnh vực xã
hội, khi muốn đẩy nhanh (kìm hãm hoặc loại trừ) sự biến đổi của một hiện tượng xã hội
nào đó cần phải làm cho nguyên nhân chủ quan tác động cùng chiều (lệch hoặc ngược
chiều) với sự vận động của mối quan hệ nhân - quả khách quan.
Kết quả không tồn tại một cách thụ động trước nguyên nhân, cần phải biết khai
thác vận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức và tiếp tục thúc đẩy sự
vật, hiện tượng phát triển.

8c) Cặp phạm trù Nội dung - Hình thức.
Các khái niệm.
Nội dung là phạm trù triết học dùng để chỉ toàn bộ tất cả những mặt, những yếu
tố và những quá trình do sự tác động lẫn nhau giữa chúng gây nên trong các sự vật,
hiện tượng.
Hình thức là phạm trù triết học dùng để chỉ phương thức tồn tại và phát triển của
sự vật, hiện tượng, là cách thức tổ chức, là kết cấu của nội dung.
Ví dụ: Con ngưòi xét về nội dung là toàn bộ những mặt, những quá trình diễn ra
trong nó như đồng hóa, dị hóa, hoạt động của hệ cơ, hệ thần kinh Xét về hình thức là
19
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
kết cấu của cơ thể, cách thức tổ chức sắp xếp các bộ phận trong cơ thể. Hoặc một cuốn
sách thì xét về nội dung là cuốn sách đó nói lên điều gì, nêu lên những tư tưởng, những
vấn đề nào của cuộc sống Xét về hình thức là bố cục của tác phẩm, các hình tượng
nghệ thuật, ngôn ngữ, phong cách và bút pháp mà tác phẩm đã sử dụng để diễn đạt nội
dung.
Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng có hình thức bề ngoài của nó, nhưng hình
thức mà phép duy vật biện chứng nói đến trong cặp phạm trù này chủ yếu không là cái
hình thức bên ngoài ấy, mà là cái hình thức bên trong của sự vật, hiện tượng, tức là cơ
cấu bên trong của nội dung.
Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
Nội dung và hình thức bao giờ cũng là một thể thống nhất gắn bó nhau. Không
một hình thức nào không chứa đựng một nội dung nhất định. Không có một nội dung
nào lại không tồn tại trong một hình thức nhất định. Khi khẳng định như vậy không có
nghĩa là nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện trong một hình thức nhất định và một
hình thức bao giờ cũng chỉ biểu hiện một nội dung nhất định. Trong thực tế một nội
dung có thể tồn tại trong nhiều hình thức, ngược lại một hình thức có thể chứa đựng
nhiều nội dung.
Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức. Sự vận động và phát triển của

sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ nội dung. Khi nội dung biến đổi thì hình thức
của nó cũng biến đổi theo cho phù hợp với nội dung, nhưng sự biến đổi của hình thức
thường diễn ra chậm hơn.
Chịu sự quyết định của nội dung, nhưng hình thức có tính độc lập tương đối của
nó. Khi hình thức phù hợp với nội dung thì nó mở đường và thúc đẩy nội dung phát
triển. Khi không phù hợp với nội dung, hình thức sẽ cản trở và kìm hãm sự phát triển
của nội dung. Ví dụ như mối quan hệ biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng
sản xuất ở nước ta trong giai đoạn 1975 - 1986 và giai đoạn 1986 - nay.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn không được tách rời nội
dung với hình thức hoặc tuyệt đối hóa một trong hai mặt đó của sự vật, hiện tượng.
Trong hoạt động thực tiễn cải biến xã hội cần phải biết sử dụng mọi hình thức có
thể có (mới cũng như cũ) để phục vụ cho những nhiệm vụ cụ thể đạt hiệu quả cao. Cần
tránh hai thái cực: hoặc chỉ bám những hình thức cũ, chỉ muốn làm theo kiểu cũ sẽ dẫn
đến bảo thủ, trì trệ; hoặc phủ nhận vai trò của cái cũ trong hoàn cảnh mới, thay đổi hình
thức cũ một cách tùy tiện, không có căn cứ sẽ dẫn đến chủ quan, nóng vội.
Khi xét đoán sự vật, hiện tượng cần căn cứ vào nội dung, cũng như muốn làm
biến đổi sự vật, hiện tượng thì trước hết phải tác động để thay đổi nội dung của nó.
Đồng thời phải luôn theo dõi, tạo điều kiện sao cho hình thức của sự vật, hiện tượng
phù hợp hay không phù hợp cần thiết với nội dung đang biến đổi của nó nhằm thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển đó theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn.
8d) Cặp phạm trù Bản chất - Hiện tượng.
Các khái niệm.
Bản chất là phạm trù triết học dùng để chỉ sự tổng hợp tất cả những thuộc tính,
những mối liên hệ tất nhiên hợp thành một thể thống nhất hữu cơ bên trong, quy định sự
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
20
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Hiện tượng là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những mối liên hệ biểu

hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.
Ví dụ: Bản chất con người là tổng hợp tất cả các mối quan hệ (xã hội, sinh học,
tâm lý) quy định những đặc điểm cơ bản chi phối mọi hành vi của con người. Hiện
tượng là tất cả những mặt, những hành vi bộc lộ ra bên ngoài của con người.
Như vậy, bản chất là mặt bên trong, tương đối ổn định của hiện thực khách
quan. Hiện tượng là mặt bên ngoài, luôn di động biến đổi, là hình thức biểu hiện của
bản chất.
Bản chất gắn bó chặt chẽ với cái chung. Tuy nhiên không phải cái chung nào
cũng là bản chất. Chỉ những cái chung tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự
vật hiện tượng mới là bản chất.
Bản chất đồng thời là cái có tính quy luật, bởi nói đến bản chất là nói đến tổ hợp
những quy luật quyết định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Bản chất và
quy luật là những phạm trù cùng bậc nhưng chúng không hoàn toàn đồng nhất nhau.
Quy luật là mối liên hệ tất nhiên, phổ biến, lặp đi lặp lại và ổn định giữa các sự vật, hiện
tượng và giữa các mặt của chúng. Bản chất là tổng hợp các mối liên hệ tất nhiên, tương
đối ổn định ở trong sự vật, hiện tượng. Bản chất như vậy là phạm trù rộng hơn, phong
phú hơn quy luật.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng.
Khác với chủ nghĩa duy tâm, phép biện chứng duy vật khẳng định, bản chất và
hiện tượng là tồn tại khách quan. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng bản chất không tồn tại
hiện thực, còn hiện tượng dù có tồn tại hiện thực thì chỉ là những phức hợp của cảm
giác, chỉ tồn tại trong con người. Người duy tâm khách quan nếu thừa nhận có bản chất
tồn tại thì đó là cái tinh thần thuần túy.
Bản chất và hiện tượng không những tồn tại khách quan mà còn luôn ở trong
mối quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau. Mỗi sự vật hiện tượng đều là cái thống
nhất giữa bản chất và hiện tượng: Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng, hiện
tượng bao giờ cũng là sự bộc lộ của bản chất; Không có bản chất và hiện tượng tồn tại
thuần túy không quan hệ nhau; Bất kỳ bản chất nào cũng bộc lộ qua những hiện tượng
tương ứng, bất kỳ hiện tượng nào cũng là bộc lộ của bản chất ở những mức độ nào đó,
tức về nguyên tắc hiện tượng luôn phù hợp với bản chất và ngược lại. Khi bản chất thay

đổi thì hiện tượng cũng thay đổi, khi bản chất mất đi thì hiện tượng cũng mất đi.
Ngoài tính thống nhất ấy, giữa bản chất và hiện tượng cũng có tính mâu thuẫn:
Bản chất là cái bên trong, hiện tượng là cái bên ngoài; Bản chất là cái tương đối ổn
định, hiện tượng là cái linh hoạt luôn biến đổi; Trên thực tế không phải bao giờ cũng có
sự phù hợp tuyệt đối giữa bản chất với hiện tượng; Bản chất là cái biến đổi chậm, hiện
tượng là cái biến đổi nhanh; Bản chất là cái sâu sắc, hiện tượng là cái phong phú hơn.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Vì bản chất là cái tất nhiên, tương đối ổn định ở bên trong bản thân sự vật, hiện
tượng, quy định sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng, còn hiện tượng là cái
biểu hiện bên ngoài, không ổn định của sự vật, hiện tượng, nên khi nhận thức sự vật,
hiện tượng không được dừng lại ở hiện tượng mà phải đi sâu vào bản chất, nắm được
bản chất và vạch ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.
21
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Vì bản chất và hiện tượng tồn tại khách quan nên không tìm bản chất ở ngoài sự
vật, hiện tượng cũng như không tìm nó ngoài thế giới hiện thực, mà tìm và phát hiện
bản chất ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng.
Vì bản bản chất và hiện tượng về nguyên tắc là thống nhất nên muốn phát hiện
bản chất phải nghiên cứu, phân tích hiện tượng một cách cặn kẽ, khoa học, loại bỏ các
hiện tượng giả để hiểu đúng bản chất của sự vật, hiện tượng.
8e) Cặp phạm trù Tất nhiên - Ngẫu nhiên.
Các khái niệm.
Tất nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái do bản chất, do những nguyên
nhân bên trong của sự vật, hiện tượng quyết định và trong những điều kiện nhất định nó
phải xảy ra như chính nó chứ không thể khác.
Ngẫu nhiên là phạm trù triết học dùng để chỉ cái không do bản chất và mối liên
hệ bên trong quyết định, mà do ngẫu hợp những hoàn cảnh bên ngoài quyết định. Do
đó, có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, có thể xuất hiện thế này cũng có thể xuất
hiện thế khác.

Bóc lột là tất nhiên trong quan hệ giữa tư bản và công nhân, nhưng bóc lột thông
qua sản xuất loại hàng hóa gì là do quyết định của nhà tư bản, là ngẫu nhiên.
Cái chung và tất nhiên giống nhau ở chỗ chúng tương đối ổn định và mang tính
bản chất. Nhưng cái chung và cái tất nhiên rất khác nhau: Cái chung chỉ là những thuộc
tính giống nhau ở nhiều sự vật riêng lẻ. Trong khi đó cái tất nhiên là cái được quyết
định bởi bản chất nội tại, bởi quy luật bên trong của sự vật, hiện tượng. Vì thế có cái
chung là tất nhiên, cũng có cái chung là ngẫu nhiên. Chẳng hạn biết chế tạo công cụ và
có ngôn ngữ là cái chung đồng thời là tất nhiên trong quan hệ giữa người với người,
nhưng những người cùng học một chuyên ngành, cùng trong một khóa và cùng quê là
cái chung ngẫu nhiên. Như vậy tất nhiên là cái chung, nhưng không phải cái chung nào
cũng là tất nhiên.
Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều có nguyên nhân của nó. Nhưng tất nhiên gắn liền
với nguyên nhân cơ bản, nội tại của sự vật, hiện tượng; còn ngẫu là kết quả tác động của
một số nguyên nhân bên ngoài.
Cả tất nhiên và cái ngẫu nhiên đều tuân thủ quy luật, nhưng chúng khác nhau ở
chỗ tất nhiên tuân thủ những quy luật mà trong đó mối quan hệ nhân - quả của nó là đơn
trị (một nguyên nhân chỉ có một kết quả), còn ngẫu nhiên tuân theo những quy luật mà
trong đó mối quan hệ nhân - quả của nó là đa trị ( một nguyên nhân có nhiều kết quả).
Các nhà triết học duy tâm phủ nhận tính tất nhiên và chỉ thừa nhận có ngẫu
nhiên trong tự nhên. Các nhà xã hội học trước C.Mác phủ nhận cái tất nhiên trong lĩnh
vực xã hội và coi lịch sử loài người là hỗn tạp những ngẫu nhiên và là kết quả của sự
tùy tiện của con người. Các nhà triết học duy vật trước C.Mác đại đa số thừa nhận sự
tồn tại khách quan của tất nhiên nhưng không thống nhất trong thừa nhận tính khách
quan của ngẫu nhiên, cũng có người cho rằng trong tự nhiên chỉ có ngẫu nhiên; Một số
khác tuy thừa nhận tính khách quan của tất nhiên và ngẫu nhiên nhưng xem chúng là rời
nhau, không liên hệ với nhau.
Mối quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên.
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ tất nhiên - ngẫu nhiên của sự
vật, hiện tượng là tồn tại khách quan. Cả hai đều có vai trò quan trọng của nó đối với sự
22

ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng: Cái tất nhiên chi phối sự vận động và
phát triển, cái ngẫu nhiên có thể làm cho sự vận động và phát triển ấy diễn ra nhanh hơn
hoặc chậm hơn.
Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại một cách thuần túy và biệt lập, mà tồn tại
trong sự thống nhất hữu cơ với nhau và là sự thống nhất của các mặt đối lập: Tất nhiên
bao giờ cũng vạch cho mình đường đi xuyên qua vô số các ngẫu nhiên, ngẫu nhiên là
hình thức biểu hiện của tất nhiên đồng thời là cái bổ sung cho tất nhiên.
Tất nhiên và ngẫu nhiên không tồn tại vĩnh viễn không thay đổi, mà ranh giới
giữa chúng chỉ là tương đối: Trong những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa
cho nhau; Cùng một hiện tượng nhất định nhưng ở trong mối quan hệ này là tất nhiên, ở
mối quan hệ khác là ngẫu nhiên. Dĩ nhiên, để ngẫu nhiên chuyển hóa thành tất nhiên
bao giờ cũng kèm theo điều kiện.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn cần phải căn cứ vào cái tất
nhiên mà vạch phương hướng chứ không dựa vào ngẫu nhiên. Tuy nhiên, không được
bỏ qua ngẫu nhiên mà phải có những phương án dự phòng cho các trường hợp cái ngẫu
nhiên bất ngờ xuất hiện.
Muốn nhận thức tất nhiên thì phải biết phát hiện nó thông qua các ngẫu nhiên,
bởi lẽ cái tất nhiên luôn ẩn náu sau các ngẫu nhiên. Đồng thời phải ngăn ngừa những
ngẫu nhiên bất lợi, sử dụng các ngẫu nhiên có lợi cho hoạt động của con người.
Biết tạo những điều kiện thuận lợi để các ngẫu nhiên có lợi chuyển hóa thành cái
tất nhiên và ngược lại. Tuy nhiên, nếu thoát ly những điều kiện để chuyển hóa sẽ rơi
vào chủ quan, duy ý chí.
Cũng phải thấy rằng, không phải mọi cái chung đều là cái tất nhiên, nên việc
phát hiện ra cái chung mới chỉ là một bước trên con đường đến cái tất nhiên mà thôi.
8f) Cặp phạm trù Khả năng - Hiện thực.
Các khái niệm.
Khả năng là phạm trù triết học dùng để chỉ cái hiện chưa có, chưa tới nhưng sẽ

tới, sẽ có khi có các điều kiện thích hợp.
Hiện thực là phạm trù triết học dùng để chỉ những cái hiện đang có, hiện đang
tồn tại thật sự.
Phạm trù vật chất chỉ bao gồm những gì tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý
thức. Phạm trù hiện thực bao gồm tất cả những gì đang tồn tại, tức bao gồm cả cái tồn
tại khách quan (vật chất), và cái tồn tại chủ quan (ý thức). Chính thế, khi cần thiết ta
dùng hiện thực khách quan để chỉ vật chất, hiện thực chủ quan để chỉ ý thức. Lênin viết:
“Cho rằng cả tư tưởng lẫn vật chất đều là hiện thực, nghĩa là đều tồn tại, thì điều đó là
đúng. Nhưng gọi tư tưởng là có tính vật chất, thì tức là bước một bước sai lầm đến chỗ
lẫn lộn chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm”
19
.
Hiện thực như vậy khác với hiện thực lâu nay ta thường quan niệm là toàn bộ
thực tại khách quan đang vận động (tự nhiên và xã hội).
Không thể so sánh phạm trù vật chất và phạm trù hiện thực cái nào rộng hơn.
Bởi lẽ, các cặp phạm trù vật chất - ý thức và khả năng - hiện thực phản ánh những mặt
khác nhau của thế giới chúng ta đang sống.
19
V.I Lênin toàn tập - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva - 1980 - Tập 18 - Tr 300.
23
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
Khả năng là một dạng tồn tại đặc biệt: Cái sự vật, hiện tượng nói đến trong khả
năng là chưa tồn tại, nhưng bản thân khả năng thì tồn tại.Chẳng hạn ta đang là sinh viên
thì ta là cán bộ là chưa tồn tại nhưng khả năng xuất hiện ta là cán bộ thì đang tồn tại.
Không được nhầm lẫn khả năng với hiện thực. Khả năng là cái hiện chưa có,
chưa tới. Hiện thực là cái hiện đã có, đã tới. Tiền đề và điều kiện của một cái gì đó đều
là những cái hiện đang tồn tại thực sự (hiện thực) trên cơ sở đó xuất hiện cái mới, nó
không phải là khả năng.
Khả năng và ngẫu nhiên khá gần nhau nhưng là những phạm trù khác nhau. Khả

năng là cái hiện chưa có nhưng sẽ có, sẽ tới, sẽ xảy ra khi có điều kiện. Nó là cái chỉ
được thực hiện (chỉ biến thành hiện thực trong tương lai), là kết quả phát triển của một
chuỗi nhân quả trực tiếp. Trong khi đó ngẫu nhiên là cái khi có điều kiện nó có thể xảy
ra, có thể không xảy ra, khi xảy ra nó có thể thế này cũng có thể thế khác. Ngẫu nhiên là
cái được thực hiện, nó không chỉ xảy ra trong tương lai mà xảy ra cả trong hiện tại, là
kết quả ngẫu hợp của nhiều chuỗi nhân quả có hướng khác nhau.
Tất cả mọi khả năng đều tồn tại thực sự do hiện thực sinh ra, nó hình thành và
lớn lên trong lòng bản thân hiện thực. Theo nghĩa đó, mọi khả năng đều là Khả năng
thực tế . Tuy nhiên, có thể phân loại một số khả năng như sau: Khả năng thực tế là khả
năng do mối liên hệ tất nhiên quyết định, nó xuất hiện từ bản chất bên trong của sự vật,
hiện tượng và có điều kiện để trở thành hiện thực. Khả năng hình thức là khả năng do
mối liên hệ ngẫu nhiên, do sự kết hợp của những hoàn cảnh bên ngoài quyết định và
chưa có điều kiện cần thiết để trở thành hiện thực. Khả năng tất nhiên là khả năng được
gây nên bởi các tương tác tất nhiên của hiện thực. Khả năng ngẫu nhiên là khả năng
được gây nên bởi các tương tác ngẫu nhiên của hiện thực. Khả năng gần là những khả
năng đã hội đủ hoặc gần đủ những điều kiện cần thiết để biến thành hiện thực. Khả
năng xa là khả năng còn phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển quá độ nữa mới hội đủ
điều kiện để biến thành hiện thực. Ngoài ra còn có khả năng chủ yếu, khả năng thứ yếu,
khả năng chủ quan, khả năng khách quan
Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực.
Khả năng và hiện thực luôn tồn tại trong mối quan hệ chăt chẽ với nhau, không
tách rời nhau và luôn chuyển hóa cho nhau và trong thực tế quá trình phát triển chính là
quá trình khả năng biến thành hiện thực.
Cùng trong một điều kiện nhất định, một sự vật hiện tượng không chỉ có một
khả năng mà có nhiều khả năng. Ngoài số khả năng vốn có, khi có thêm những điều
kiện mới sự vật hiện tượng còn xuất hiện thêm những khả năng mới. Ngay mỗi khả
năng vốn có của sự vật hiện tượng trong những điều kiện nhất định nó có thể tăng lên
hoặc giảm đi.
Trong tự nhiên, khả năng biến thành hiện thực tuân thủ quy luật khách quan của
tự nhiên. Trong xã hội, khả năng biến thành hiện thực phải thông qua hoạt động có ý

thức của con người. Tuy nhiên, để một khả năng biến thành hiện thực không chỉ cần
một điều kiện mà cần nhiều điều kiện. Có thể phân các điều kiện thành ba loại:
- Điều kiện khách quan : khả năng biến thành hiện thực hoàn toàn bằng con
đường tự nhiên, không có sự can thiệp của con người. Điều này xảy ra trong các quá
trình của vũ trụ và tự nhiên.
24
ThS . GVC HOÀNG NGỌC VĨNH - ĐẠI HỌC KHOA HỌC HUẾ - ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG ÔN THI
TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC – MÔN TRIẾT HỌC (DÀNH CHO CÁC NGÀNH KHÔNG CHUYÊN TRIẾT) - 2009
- Điều kiện khách quan có sự tham gia của con người: khả năng biến thành hiện
thực vừa bằng con đường tự nhiên vừa có sự tham gia tác động của con người. Chẳng
hạn như trong lai tạo giống.
- Điều kiện chủ quan: khả năng biến thành hiện thực hoàn toàn phụ thuộc sự
tham gia tác động của con người. Chẳng hạn như chế tạo tàu vũ trụ, tạo ra những đối
tượng lao động mới và các vấn đề thuộc lĩnh vực xã hội.
Trong quá trình phát triển, khả năng chuyển thành hiện thực, hiện thực đó vì quá
trình phát triển nội tại của mình lại sản sinh ra những khả năng mới. Quá trình cứ thế
nối tiếp, đó là quá trình phát triển vô tận của thế giới. Cùng một dấu hiệu, trong mối
quan hệ này là hiện thực nhưng ở mối quan hệ khác là khả năng. Một hiện thực nào đó
trong quá trình phát triển vì những điều kiện nhất định chỉ còn là khả năng.
Ý nghĩa phương pháp luận.
Trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn phải căn cứ vào hiện thực chứ
không thể căn cứ vào khả năng đế đánh giá tình hình. Lênin nhiều lần nhấn mạnh; “Chủ
nghĩa Mác căn cứ vào những sự thật chứ không phải dựa vào những khả năng”, “Chủ
nghĩa Mác dựa vào hiện thực chứ không phải dựa vào khả năng để vạch đường lối của
mình”
20
.
Phải phán đoán đúng tính chất và xu hướng của khả năng có thể xảy ra để có thể
đề ra chủ trương, kế hoạch hành động cho đúng nhằm đạt hiệu quả cao trong hoạt động
thực tiễn. Tuy nhiên, chỉ có thể tìm khả năng ngay trong chính bản thân sự vật, hiện

tượng chứ không thể ở đâu khác. Phải đặt sự vật, hiện tượng trong mối tương quan bên
trong và bên ngoài mà ở trong đó sự vật, hiện tượng vận động và phát triển mà dự kiến
các khả năng. Không được nhầm lẫn giữa khả năng với hiện thực cũng như tách rời giữa
chúng với nhau.
Phải phát huy tối đa tính năng động chủ quan để biến khả năng thành hiện thực
khi cần thiết, tránh tư tưởng đợi chờ, thụ động, không tích cực phát huy khả năng chủ
quan của mình. Trong phát hiện và tạo điều kiện cho các khả năng thành hiện thực cần
chú ý:
- Cần xem xét hết mọi khả năng tốt cũng như xấu, tiến bộ cũng như lạc hậu của
sự vật, hiện tượng và trên cơ sở đó mà có phương án hành động thích hợp cho mỗi
trường hợp, tránh được bị động trong hành động.
- Nên tập trung chú ý trước hết ở các khả năng tất nhiên, khả năng gần.
- Cần tạo điều kiện cần và đủ cho khả năng cần thiết biến thành hiện thực.
- Trong lĩnh vực xã hội, tùy theo yêu cầu của hoạt động thực tiễn cần tạo mọi
điều kiện cần thiết để nhân tố chủ quan tham gia tích cực và quá trình biến đổi hoặc
ngăn ngừa sự biến đổi khả năng thành hiện thực.
9. Lý luận nhận thức của triết học Mác-Lênin
a) Những nguyên tắc cơ bản của lý luận nhận thức:
- Thừa nhận thế giới vật chất tồn tại khách quan, ở ngoài con người, độc lập với
cảm giác, tư duy và ý thức của con người.
- Thừa nhận năng lực nhận thức thế giới của con người. Về nguyên tắc không có
cái gì là không thể biết. Thế giới chỉ có những điều con người chưa biết chứ không có
và không thể có những gì con người không thể biết.
20
V.I. Lêini toàn tập - Nxb Tiến bộ - Mátxcơva - 1978 - Tập 49 - Tr 432 và 472.
25

×