Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Logistics kinh doanh_Chương 5 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.26 KB, 21 trang )

Chương 5: QUẢN TRỊ VẬN CHUYỂN HÀNG HOÁ TRONG KINH DOANH
THƯƠNG MẠI
5.1- Chức năng và các loại hình vận chuyển hàng hoá.
5.1.1- Vai trò và chức năng của vận chuyển hàng hoá
Vận chuyển hàng hoá là sự di động hàng hoá trong không gian bằng sức người hay
phương tiện vận tải nhằm đảm bảo dự trữ và cung cấp dịch vụ cho khách hàng trên các khu
vực thị trường mục tiêu.
Xét trên toàn bộ nền kinh tế, vận chuyển hàng hoá là do sự cách biệt về không gian
giữa sản xuất và tiêu dùng hàng hoá, và do đó yêu cầu vận chuyền tăng lên cùng với sự phát
triển của nền kinh tế, mà chủ yếu là quá trình tập trung hoá và chuyên môn hoá của sản
xuất và tiêu dùng. Còn xét về chức năng quản trị logistics của doanh nghiệp thì vận chuyển
hàng hoá một mặt nhằm bổ sung dự trữ cho mạng lưới logistics của doanh nghiệp, mặt
khác,nhằm cung cấp dịch vụ logistics cho khách hàng, và do đó, vận chuyển hàng hoá phải
thực hiện cả 2 nhiệm vụ logistics doanh nghiệp : nâng cao chất lượng dịch vụ logistics
khách hàng và giảm chi phí.
Trong hệ thống logistics của doanh nghiệp thương mại, vận chuyển có vai trò đặc
biệt quan trọng. Nó là một trong những yếu tố logistics cơ bản của doanh nghiệp thể hiện ở
sơ đồ của hình 1. Một hệ thống vận chuyển hợp lý sẽ tăng cường khả năng cạnh tranh cho
doanh nghiệp do nâng cao trình độ dịch vụ khách hàng và giảm chi phí logistics
Hình 5.1: Các quyết định logistics căn bản
1
Trình độ dịch vụ khách hàng
Trình độ dịch vụ khách hàng
Các quyết định
về
mạng lưới
logistics
Các quyết định về
dự trữ hàng hoá
Các quyết định về
vận chuyển


Một trong những tiêu chuẩn dịch vụ khách hàng cơ bản là tốc độ, độ ổn định và tính
linh hoạt trong cung ứng hàng hoá cho khách hàng. Thời gian và độ ổn định cung ứng hàng
hoá cho khách hàng chủ yếu do vận chuyển đáp ứng. Chính vì vậy, tốc độ và độ ổn định là
những mục tiêu chủ yếu của vận chuyển hàng hoá. Quản trị vận chuyển đáp ứng tốt các mục
tiêu dịch vụ sẽ thoả mãn tốt hơn nhu cầu mua hàng của khách hàng, phát triển doanh thu,
nâng cao lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Vận chuyển ảnh hưởng lớn đến chi phí của cả hệ thống logistics, bao gồm chi phí vận
chuyển, dự trữ (trên đường và trong mạng lưới logistics ).Tập trung vận chuyển và sử dụng
các phương tiện vận tải tốc độ cao sẽ có tác dụng giảm tổng chi phí logistics, và do đó giảm
giá hàng hoá bán ra, phát triển nhu cầu khách hàng (co giãn của cầu theo giá) đem lại lợi thế
cạnh tranh cao cho doanh nghiệp.
Xuất phát từ bản chất logistics, vận chuyển có 2 chức năng: chức năng di chuyển và
chức năng dự trữ.
Chức năng di chuyển: Đây là chức năng chủ yếu của vận chuyển. Thực hiện chức năng
này, vận chuyển tiêu tốn các nguồn lực: Thời gian, tài chính và môi trường.
Thời gian là nguồn lực chính mà vận chuyển tiêu tốn và do đó vận chuyển hợp lý khi
chi phí thời gian vận chuyển ít nhất. Chi phí thời gian vận chuyển là một trong những chỉ
tiêu cơ bản đánh giá trình độ dịch vụ logistics. Tăng tốc độ vận chuyển đảm bảo duy trì dự
trữ hợp lý, giảm dự trữ trên đường và trong mạng lưới logistics, đồng thời cung cấp kịp thời
hàng hoá cho khách hàng. Và do đó, tăng tốc độ vận chuyển hợp lý sẽ đảm bảo nâng cao
hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp thương mại.
Vận chuyển hàng hoá gắn liền với các chi phí: phương tiện vận tải, lao động, quản lý,
hao hụt .,có nghĩa vận chuyển hàng hoá tiêu tốn các nguồn lực tài chính. Một phương án
vận chuyển hợp lý phải đảm bảo giảm chi phí vận chuyển đến mức thấp nhất.
Vận chuyển hàng hoá cũng đồng nghĩa với tiêu tốn các nguồn lực môi trường. Vận
chuyển trực tiếp tiêu tốn nguồn tài nguyên thiên nhiên đang dần bị cạn kiệt như dầu mỏ,than
đá , đồng thời làm ô nhiễm môi trường không khí, gây tiếng ồn, làm tắc nghẽn giao
thông Chính vì vậy, nhà nước rất quan tâm đến ngành giao thông vận tải nhằm giảm đến
mức thấp nhất ảnh hưởng của vận chuyển đến môi trường.
Chức năng dự trữ hàng hoá : Đây là chức năng không cơ bản gắn liền với việc tồn trữ

hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Dự trữ hàng hoá trong vận chuyển phụ thuộc vào tốc
độ và cường độ vận chuyển. Phương tiện vận tải có tốc độ càng cao thì dự trữ trênđường
càng nhỏ. Đồng thời có thể lợi dụng chức năng này để sử dụng phương tiện vận tải dự trữ
hàng hoá thay cho kho trong những trường hợp nếu sử dụng phương tiện vận tải để dự trữ
tốt hơn kho: do thiếu kho, thay kho dự trữ ngắn ngày để tiết kiệm chi phí bốc dỡ Nguyên
tắc dự trữ trên phương tiện là đảm bảo chất lượng hàng hoá, giảm thời gian vận động của
hàng hoá với chi phí thấp.
5.1.2- Các loại hình vận chuyển hàng hoá
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các loại hình vận chuyển càng phong phú. Có
thể phân loại vận chuyển hàng hoá theo một số tiêu thức sau:
2
Theo đặc trưng của con đường và phương tiện vận tải, có các loại hình vận chuyển :
vận chuyển đường sắt, đường thuỷ, đường bộ(ôtô), đường không (máy bay), đường ống.Đặc
điểm cơ cấu chi phí của các loại hình vận chuyển này như sau:
- Đường sắt: Chi phí cố định cao, chi phí biến đổi thấp;
- Đường thuỷ: Chi phí cố định trung bình, chi phí biến đổi thấp;
- Đường bộ: Chi phí cố định thấp, chi phí biến đổi trung bình;
- Đường không: Chi phí cố định thấp, chi phí biến đổi cao;
- Đường ống: Chi phí cố định rất cao, chi phí biến đổi thấp nhất.
Các đặc trưng dịch vụ và chi phí của các loại hình phương tiện vận tải được thể hiện ở
bảng 5.1.
Bảng 5.1: Những đặc điểm dịch vụ và chi phí của các phương tiện vận tải
Ghi chú: Từ 1 đến 5- Từ tốt nhất đến kém nhất
Theo đặc trưng sở hữu và mức độ điều tiết của nhà nước, có các loại hình vận
chuyển : vận chuyển riêng, vận chuyển hợp đồng, và vận chuyển chung.
Vận chuyển riêng là loại hình vận chuyển trong đó, các doanh nghiệp (không phải kinh
doanh vận tải) có phương tiện vận tải và tự cung cấp dịch vụ vận chuyển cho riêng mình.
Vận chuyển riêng ít bị điều tiết bởi luật kinh tế, tuy nhiên phải tuân thủ những điều luật liên
quan đến di chuyển những hàng hoá nguy hiểm, đến an toàn lao động, phương tiện, và các
điều luật xã hội khác do nhà nước ban hành.

Vận chuyển hợp đồng: Người vận chuyển hợp đồng cung cấp dịch vụ vận tải cho
khách hàng có chọn lọc. Cơ sở của hợp đồng là sự thoả thuận về chi phí và dịch vụ giữa
người vận chuyển và chủ hàng mà không bị nhà nước chi phối. Trong từng thời kỳ, người
vận chuyển hợp đồng bị hạn chế tuyến đường và hàng hoá vận chuyển, do đó hạn chế
3
Đặc
điểm
Phương tiện
Tốc độ
Tính
liên tục
Độ tin
cậy
Khả năng
bảo quản
nhiều loại
hàng
Tính
linh
hoạt
Chi phí
1- Đường sắt 3 4 4 2 2 3
2- Đường thủy 4 5 5 1 4 1
3- Đường bộ
(Ôtô)
2 2 2 3 1 4
4- Đường
không
(máy bay)
1 3 3 4 3 5

5- Đường ống 5 1 1 5 5 2
lng khỏch hng v kh nng cnh tranh trc tip vi nhng ngi vn chuyn chung(vn
chuyn cụng cng).
Vn chuyn chung(cụng cng): C s cn bn ca h thng vn chuyn chung l
nhng ngi vn chuyn chung(common carriers). Vn chuyn chung cú trỏch nhim cung
cp dch v vi mc giỏ chung(c qui nh)cho cụng chỳng. Quyn hn vn chuyn
chung cú th cho mi hng hoỏ, hoc gii hn chuyờn mụn hoỏ cho cỏc loi hng. ng
thi ngi vn chuyn chung c nh rừ khu vc a lý hot ng.
Theo s lng phng tin v mc tp trung vn chuyn
- Vn chuyn n thc: Ch s dng mt phng tin v vi mt ngi vn chuyn
- Vn chuyn a phng thc (a phng tin tp trung): s dng nhiu phng tin
vn ti, nhng ch vi mt chng t vn ti v do mt t chc chu trỏch nhim.
- Vn chuyn t on (a phng tin phõn tỏn): s dng nhiu phng tin vn ti,
vi nhiu chng t vn ti v do nhiu t chc chu trỏch nhim.
Dch v vn chuyn l mt loi sn phm c bit v do ú cú nhiu thnh phn tham
gia (Hỡnh 5.2), bao gm: Ngi giao v ngi nhn hng; Ngi vn chuyn; Chớnh ph
v, cụng chỳng.
Hỡnh 5.2: Cỏc thnh phn tham gia quỏ trỡnh vn chuyn hng hoỏ
Ngi giao hng (shipper, cũn gi l ch hng): l ngi yờu cu vn chuyn hng
hoỏ n a im nht nh trong khong thi gian cho phộp. Thnh phn ny thc hin cỏc
hot ng nh tp hp lụ hng, m bo thi gian cung ng, khụng xy ra hao ht v cỏc
s c, trao i thụng tin kp thi v chớnh xỏc, Mc tiờu ca ngi giao hng l s dng
dch v vn chuyn sao cho cú th ti thiu hoỏ tng chi phớ logistics (gm chi phớ vn
chuyn, d tr, thụng tin, v mng li) trong khi ỏp ng tt mc dch v khỏch hng yờu
cu.
Bi vy, ngi giao hng cn hiu bit v nhng c hi v khú khn ca cỏc phng
ỏn vn chuyn khỏc nhau, ng thi cn cú k nng m phỏn v thng lng cú c
cht lng vn chuyn cao vi cỏc iu khon hp lớ. Ngi gi v n v vn ti cn xõy
dng c mi quan h hp tỏc, gn bú trờn c s hai bờn cựng cú li v phỏt trin bn
vng.

Ngờinhận
ĐVvậntải
Ngờigiao
Chínhphủ
Côngchúng
Dònghànghoá
Dòngchứngtừ/
thanhtoán
Dòngthôngtin
4
Người nhận hàng (consignee, còn gọi là khách hàng): là người yêu cầu được chuyển
hàng hoá đến đúng địa điểm, đúng thời gian, đúng số lượng, chất lượng và cơ cấu với mức
giá thoả thuận như theo đơn đặt hàng đã thông báo với người gửi. Người nhận hàng quan
tâm tới chất lượng dịch vụ trong mối tương quan với giá cả.
Đơn vị vận tải (carrier): là chủ sở hữu và vận hành các phương tiện vận tải (ô tô, máy
bay, tàu hoả, tàu thuỷ ) vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận và nhanh chóng hoàn trả vốn đầu
tư. Mức độ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ vận tải sẽ quyết định giá cả, tính đa dạng và
chất lượng dịch vụ của từng loại hình vận chuyển hàng hoá. Đơn vị vận tải phải đạt được
tính chuyên nghiệp cao trong việc nhận biết nhu cầu của người gửi và người nhận, hỗ trợ ra
quyết định về phương án và lộ trình vận chuyển tối ưu, quản lí tốt nguồn lực và nâng cao
hiệu quả chuyên trở hàng hoá.
Đơn vị vận tải và người giao hàng/người nhận hàng phải trao đổi kĩ lưỡng với nhau
về các phương án để nâng cao năng lực vận chuyển. Trong đó cần rút ngắn thời gian vận
chuyển bình quân, tăng hệ số sử dụng trọng tải của phương tiện, nâng cao hệ số sử dụng
phương tiện theo thời gian, nâng cao hệ số sử dụng quãng đường xe chạy có hàng, tăng
vòng quay của xe, cải tiến thủ tục giấy tờ và lề lối làm việc, v.v.
Chính phủ: thường là người đầu tư và quản lí hệ thống hạ tầng cơ sở giao thông cho
con đường vận chuyển (đường sắt, đường bộ, đường ống) và các điểm dừng đỗ phương tiện
vận chuyển (sân bay, bến cảng, bến xe, nhà ga, trạm bơm và kiểm soát, ). Chính phủ xây
dựng và qui hoạch các chiến lược giao thông dài hạn cùng các chính sách và luật lệ nhằm

cân đối hài hoà giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường.
Dịch vụ vận chuyển hàng hoá có nhiều ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế quốc dân, môi
trường xã hội, môi trường sinh thái và chất lượng cuộc sống của cộng đồng, bởi vậy chính quyền
thường can thiệp và kiểm soát ở nhiều mức độ khác nhau. Sự can thiệp của chính phủ thể hiện dưới
nhiều hình thức trực tiếp và gián tiếp như: luật và các văn bản dưới luật; chính sách khuyến khích
hoặc giới hạn quyền sở hữu các phương tiện vận tải; giới hạn hoặc mở rộng thị trường; qui định
giá; hỗ trợ phát triển ngành GTVT, v.v.
Chính sách đổi mới kinh tế của Việt Nam từ 1986 đến nay đã có tác động rất lớn đến sự phát
triển của ngành GTVT. Có sự thay đổi cơ bản về cơ cấu hàng hoá vận chuyển giữa khu vực nhà
nước và khu vực tư nhân theo xu hướng khu vực kinh tế vận tải tư nhân ngày càng phát triển. Mặc
dù còn rất nhiều hạn chế, nhưng ngành GTVT nói chung và vận chuyển hàng hoá nói riêng đang
phát triển theo hướng tích cực, góp phần quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Công chúng: Là thành phần rất quan tâm đến hoạt động vận chuyển hàng hoá nói
riêng và giao thông vận tải nói chung vì vận chuyển liên quan đến chi phí, môi trường và an
toàn xã hội. Công chúng tạo nên dư luận xã hội và gây sức ép để chính phủ và chính quyền
các cấp ra các quyết định vì mục tiêu an sinh của địa phương và quốc gia.
Như vậy, trong vận chuyển hàng hoá phát sinh mâu thuẫn giữa những lợi ích cục bộ
của người giao, người nhận, người vận chuyển, và lợi ích xã hội tổng thể (chính phủ và
công chúng) dẫn đến sự đối lập, điều hoà và kiểm soát dịch vụ vận tải.
5
5.2- Các đặc trưng của chi phí và giá cước vận chuyển hàng hoá
5.2.1- Các nhân tố ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển
Có 7 nhân tố ảnh hưởng đến cước phí vận chuyển. Đó là: Khoảng cách,qui mô,độ
chặt,hình dạng hàng hoá, yêu cầu bảo quản và bốc dỡ hàng hoá, trách nhiệm pháp lý của
chủ phương tiện,và nhân tố thị trường.
Khoảng cách là nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển do tăng chi phí vận
chuyển biến đổi như lao động,nhiên liệu,chi phí bảo quản Đồ thị sau ở hình 5.3 thể hiện
mối quan hệ này.




Hình 5.3: Mối quan hệ giữa khoảng cách và chi phí vận chuyển
Theo đồ thị, chúng ta nhận thấy:
- Đường cong chi phí không bắt đầu từ gốc toạ độ do chi phí cố định không phụ thuộc
vào khoảng cách;
- Đường cong chi phí là hàm của khoảng cách,và khi khoảng cách tăng lên,tốc độ tăng
chi phí đơn vị giảm dần.Và nếu tính chi phí cho 1t.km thì khi khoảng cách tăng,chi phí bình
quân 1 t.km giảm dần.
Như vậy, phải hạn chế đến mức thấp nhất việc chuyển đổi phương tiện vận tải trong
quá trình vận chuyển nhằm giảm chi phí vận chuyển hàng hoá.
Khối lượng hàng hoá vận chuyển là nhân tố thứ 2 ảnh hưởng đến chi phí vận chuyển.
Cũng như nhiều hoạt động logistics, tính kinh tế nhờ qui mô đúng với vận chuyển hàng hoá.
Mối quan hệ giữa chi phí vận chuyển bình quân và khối lượng hàng hoá vận chuyển được
thể hiện trên đồ thị (Hình 5.4).
Theo đồ thị, chi phí bình quân/đơn vị khối lượng hàng hoá vận chuyển giảm khi khối
lượng hàng hoá vận chuyển tăng lên.Đó là do chi phí cố định được phân bổ đều cho toàn bộ
khối lượng hàng hoá vận chuyển. Vận dụng tính chất này để khi vận chuyển, có thể tập hợp
lô hàng nhỏ thành các lô hàng lớn hơn để có ưu thế kinh tế nhờ qui mô.
Độ chặt là sự tương quan giữa khối lượng và dung tích chiếm chỗ. Nhân tố này khá
quan trọng do chi phí vận chuyển luôn luôn được xác định trên 1 đơn vị khối lượng. Phương
tiện bị hạn chế sức chở bởi dung tích hơn là trọng tải. Do lao động và chi phí nhiên liệu
không chịu ảnh hưởng nhiều bởi trọng tải nên sản phẩm có độ chặt càng cao, chi phí bình
quân đơn vị khối lượng vận chuyển càng thấp. Hình 5.5 thể hiện mối quan hệ này.Vì thế,
6
Giá cước
Khoảng cách
các nhà quản trị logistics cố gắng tăng độ chặt của hàng hoá để sử dụng tốt nhất dung tích
phương tiện vận tải. Việc bao gói và sử dụng bao bì tiêu chuấn sẽ lợi dụng được nhân tố
này.

Hình 5.4: Mối quan hệ giữa khối lượng và chi phí vận chuyển
Hình 5.5: Mối quan hệ giữa độ chặt và chi phí vận chuyển
Hình dạng hàng hoá có ảnh hưởng đến việc sử dụng dung tích phương tiện vận tải.
Hàng hoá cồng kềnh,hình dạng không thống nhất làm giảm khả năng chứa hàng, giảm hệ số
sử dụng trọng tải, và do đó làm tăng chi phí. Khi vận chuyển đường dài, có thể vận chuyển
hàng hoá ở dạng đóng hộp linh kiện, sau đó lắp ráp ở khu vực tiêu thụ.
Điều kiện bảo quản và xếp dỡ hàng hoá trong quá trình vận chuyển ảnh hưởng đến chi
phí vận chuyển. Hàng hoá đòi hỏi điều kiện bảo quản đặc biệt thì sẽ có chi phí cao hơn.
Trách nhiệm pháp lý có liên quan đến những rủi ro,thiệt hại trong quá trình vận
chuyển. Các yếu tố sau ảnh hưởng đến mức độ thiệt hại do rủi ro: hàng hoá dễ hỏng,những
thiệt hại do chất xếp, khả năng xẩy ra trộm cắp, khả năng cháy nổ, giá trị của hàng hoá. Giá
trị của hàng hoá càng cao và xác suất rủi ro càng lớn thì chi phí càng nhiều. Người vận
chuyển phải mua bảo hiểm để đề phòng khả năng xấu nhất hoặc chấp nhận bất kỳ mọi sự
thiệt hại. Người giao hàng có thể giảm rủi ro và do đó giảm chi phí vận chuyển bằng cách
cải tiến bao gói hoặc giảm bớt những khả năng xẩy ra hao hụt hoặc thiệt hại.
Nhân tố thị trường là sự phân bố các nguồn cung ứng và các khu vực tiêu thụ. Sự
phân bố này càng cân đối tạo nên khả năng sử dụng phương tiện vận tải chạy 2 chiều và do
đó giảm được chi phí vận chuyển. Tuy nhiên trong thực tế, sự phân bố các nguồn cung ứng
7
Giá/đ
vị
khối
lượng
Khối lượng v.c
Giá/đ
vị
khối
lượng
Độ chặt sản phẩm
và các khu vực tiêu thụ thường mất cân đối, do đó công tác kế hoạch hoá tuyến đường vận

chuyển của các đơn vị vận tải và việc thiết kế hệ thống logistics của các doanh nghiệp
thương mại có tác dụng nâng cao hệ số sử dụng quãng đường vận chuyển, giảm chi phí vận
chuyển.
5.2.2- Các chính sách giá cước của đơn vị vận tải
Giá cước mà nhà quản trị logistics phải trả tương ứng với các đặc trưng chi phí của
mỗi loại hình dịch vụ vận chuyển. Giá cước vận chuyển hợp lý thường có xu hướng phù
hợp với chi phí sản xuất ra dịch vụ vận chuyển. Do mỗi loại hình dịch vụ vận chuyển có
những đặc điểm chi phí khác nhau, cho nên ứng với một trường hợp nhất định, ưu thế giá
cước của dịch vụ này thì lại có thể không hiệu quả đối với dịch vụ vận chuyển khác.
Dịch vụ vận chuyển phải gánh chịu nhiều chi phí như :lao động, xăng dầu, bảo dưỡng,
lệ phí đường, chi phí hành chính, và những chi phí khác. Phối thức các chi phí này được
chia thành 2 loại: chi phí biến đổi- những chi phí thay đổi theo dịch vụ và qui mô vận
chuyển, và chi phí cố định-không thay đổi theo dịch vụ và qui mô vận chuyển. Lẽ dĩ nhiên,
mọi chi phí đều biến đổi nếu thời gian và qui mô vận chuyển vượt quá một giới hạn nhất
định. Tuy nhiên, với mục đích xác định giá vận chuyển cần phải nghiên cứu những chi phí
biến đổi cũng như chi phí cố định trong những điều kiện bình thường. Mọi chi phí khác
được coi là biến đổi.
Chi phí cố định bao gồm lệ phí con đường, bảo dưỡng, chi phí nhà ga bến cảng, thiết
bị vận tải, chi phí quản lý hành chính; chi phí biến đổi thường là những chi phí gắn liền với
quá trình vận chuyển như xăng dầu và lao động, bảo dưỡng thiết bị, bảo quản hàng hoá, và
những chi phí tạo lập lô hàng và cung ứng. Không có sự phân biệt thật rõ ràng giữa chi phí
cố định và biến đổi, tuy nhiên có sự khác biệt về chi phí và cơ cấu chi phí cố định-biến đổi
khá lớn giữa các loại hình vận chuyển. Mọi chi phí có phần là cố định và có phần là biến
đổi, và việc đưa các yếu tố chi phí vào loại này hay loại khác là vấn đề có tính chủ quan.
Các đơn vị vận chuyển thường sử dụng các chính sách giá cước : chính sách giá cước
chi phí, chính sách giá cước giá trị dịch vụ, và chính sách giá cước hỗn hợp.
Chính sách giá cước chi phí có nghĩa giá cước được xác định trên cơ sở chi phí cung
ứng dịch vụ cộng thêm giới hạn lợi nhuận. Chính sách này thường áp dụng để vận chuyển
những hàng hoá có giá trị thấp hoặc trong tình thế cạnh tranh cao.
Chính sách giá trị dịch vụ nhằm định giá dựa trên giá trị dịch vụ mà người mua chấp

nhận.Đây là chính sách giá cước cao do cung cấp dịch vụ vận chuyển có trình độ cao cho
khách hàng (dịch vụ vận chuyển hoàn hảo, tốc độ cao, ). Chính sách này thường áp dụng
trong trường hợp vận chuyển hàng hoá có giá trị cao hoặc trong những tình thế marketing
đặc biệt: Yêu cầu cung ứng khẩn cấp hàng hoá cho thị trường, hoặc trong điều kiện cạnh
tranh hạn chế.
Chính sách phối hợp (chính sách giá cạnh tranh) là chính sách tạo mức giá trung gian
giưã mức thấp nhất của giá theo chi phí và mức cao nhất của giá theo giá trị dịch vụ. Trong
thực tế, đa số các đơn vị vận chuyển áp dụng giá trung gian, có nghĩa vừa dựa trên tình thế
cạnh tranh để định giá.
8
Các doanh nghiệp thương mại có một số quyết định căn bản trong quản trị vận chuyển:
Quyết định mục tiêu vận chuyển, Quyết định hình thức vận chuyển, Quyết định phương
thức vận chuyển, Quyết định con đường và phương tiện vận chuyển, và Quyết định đơn vị
cung cấp dịch vụ vận chuyển.
5.3- Quyết định mục tiêu vận chuyển
Đối với các doanh nghiệp thương mại, có 3 mục tiêu vận chuyển hàng hoá. Đó là mục
tiêu chi phí, mục tiêu tốc độ, và mục tiêu ổn định.
Mục tiêu chi phí là một trong những mục tiêu hàng đầu của vận chuyển hàng hoá.
Quản trị phải đưa ra những quyết định vận chuyển nhằm giảm đến mức thấp nhất chi phí
của cả hệ thống logistics. Chi phí vận chuyển là số tiền phải trả để di chuyển hàng hoá giữa
các vị trí địa lý, chi phí quản lý và bảo quản hàng hoá trong quá trình vận chuyển. Chi phí
phụ thuộc nhiều yếu tố, đặc biệt phụ thuộc hệ thống logistics nhằm sử dụng các giải pháp để
tối thiểu hoá tổng chi phí của cả hệ thống. Điều này có nghĩa, tối thiểu hoá chi phí vận
chuyển không phải luôn luôn liên quan đến tổng chi phí logistics thấp nhất.
Tốc độ là mục tiêu dịch vụ hàng đầu của vận chuyển. Trình độ dịch vụ khách hàng
chịu ảnh hưởng nhiều của chi phí thời gian vận chuyển. Trong một chu kỳ thực hiện đơn đặt
hàng, thời gian vận chuyển chiếm nhiều nhất,và do đó tốc độ vận chuyển có liên quan đến
việc đáp ứng kịp thời hàng hoá cho khách hàng, đến dự trữ hàng hoá của khách hàng. Tốc
độ và chi phí vận chuyển liên quan với nhau theo 2 hướng. Thứ nhất, các đơn vị vận chuyển
có khả năng cung cấp dịch vụ vận chuyển nhanh hơn thì cước phí sẽ cao hơn; thứ hai, dịch

vụ vận chuyển càng nhanh, thời gian dự trữ trên đường càng giảm. Do đó, chọn phương án
vận chuyển phải cân đối được tốc độ và chi phí vận chuyển. Thông thường, doanh nghiệp
thương mại chọn mục tiêu chi phí khi vận chuyển bổ sung dự trữ, còn khi vận chuyển cung
ứng hàng hoá cho khách hàng thì chọn mục tiêu tốc độ.
Độ ổn định vận chuyển là sự biến động thời gian cần thiết để thực hiện quá trình di
chuyển xác định đối vơí các lô hàng giao, nhận. Độ ổn định phản ánh độ tin cậy của vận
chuyển và được coi là đặc trưng quan trọng nhất của chất lượng vận chuyển. Độ ổn định vận
chuyển ảnh hưởng đến cả dự trữ của người mua, người bán và những cơ hội, rủi ro trong
kinh doanh. Tốc độ và độ ổn định tạo nên chất lượng dịch vụ của vận chuyển.
Như vậy:
-Trong thiết kế hệ thống logistics, phải khéo léo đạt được sự cân đối giữa chi phí vận
chuyển và chất lượng dịch vụ. Trong một số trường hợp, chi phí thấp là cần thiết; ở tình thế
khác, dịch vụ là cần thiết để đạt được mục đích kinh doanh. Quá trình tìm kiếm và quản trị
phối thức vận chuyển hợp lý là trách nhiệm hàng đầu của logistics.
-Có 3 khía cạnh vận chuyển mà nhà quản trị phải luôn nhớ có liên quan đến hệ thống
logistics :
+Thứ nhất: Chọn cơ sở logistics để thiết lập cấu trúc mạng nhằm tăng cường hệ
thống vận tải và đồng thời hạn chế các phương án lựa chọn;
+ Thứ hai: Tổng chi phí vận chuyển cao hơn cước phí vận chuyển;
+ Thứ ba: Toàn bộ mọi nỗ lực để thống nhất khả năng vận chuyển vào trong hệ thống
logistics có thể bị thất bại nếu dịch vụ cung ứng phân tán và mâu thuẫn.
9
5.4- Quyết định hình thức vận chuyển
Hình thức vận chuyển trong doanh nghiệp thương mại là cách thức di chuyển hàng
hoá từ nguồn hàng đến khách hàng theo những điều kiện nhất định nhằm hợp lý hoá sự vận
động của hàng hoá trong kênh logistics doanh nghiệp.
Thực chất của quyết định hình thức vận chuyển là lựa chọn kênh logistics trong doanh
nghiệp một cách hợp lý nhất- đảm bảo thoả mãn nhu cầu dịch vụ khách hàng với chi phí ít
nhất. Có 2 hình thức vận chuyển : vận chuyển thẳng và vận chuyển qua kho(kênh logistics
trực tiếp và kênh gián tiếp). Có thể mô tả một cách đơn giản các hình thức vận chuyển ở sơ

đồ hình 5.6.




Hình 5.6: Các loại kênh logistics của doanh nghiệp thương mại
Vận chuyển thẳng là sự di động của hàng hoá từ nguồn hàng thẳng đến cơ sở logistics
của khách hàng hoặc cửa hàng bán lẻ mà không qua bất kỳ một khâu kho trung gian nào.
Như vậy, vận chuyển thẳng trong doanh nghiệp thương mại bán buôn có đích cuối
cùng là cơ sở logistics của khách hàng mua buôn- kho hoặc cửa hàng bán lẻ; còn trong
doanh nghiệp thương mại bán lẻ, đích cuối cùng là mạng lưới các cửa hàng bán lẻ của
doanh nghiệp
Trong những tình thế nhất định, vận chuyển thẳng có những ưu thế: Tăng nhanh quá
trình dịch chuyển hàng hoá và do đó giảm dự trữ hàng hoá trong doanh nghiệp; có thể giảm
được chi phí vận chuyển trong trường hợp cự ly vận chuyển ngắn do giảm được số lần xếp
dỡ hàng hoá. Tuy nhiên, vận chuyển thẳng hạn chế khả năng cung ứng dịch vụ cho khách
hàng, cho nên chỉ sử dụng trong những điều kiện nhất định.
Những điều kiện để áp dụng hình thức vận chuyển thẳng là:
-Không làm giảm trình độ dịch vụ khách hàng :Số lượng, cơ cấu, đặc điểm hàng hoá;
thời gian cung ứng hàng hoá phải đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Điều này cũng có nghĩa:
lô hàng mua phải phù hợp với lô hàng bán-qui mô lô hàng không quá lớn, cơ cấu đơn giản,
hàng hoá không phải qua khâu tổ chức mặt hàng thương mại; cự ly vận chuyển ngắn, điều
kiện vận chuyển không phức tạp-không phải chuyển tải qua nhiều phương tiện; thời gian
thực hiện đơn đặt hàng mua của nguồn hàng nhanh, đáp ứng yêu cầu thời gian cung ứng
hàng hoá cho khách hàng;
10
Kho nguồn
hàng
Cơ sở logistics
khách hàng

Kênh
logistics trực
tiếp
Kênh logistics gián tiếp
Hệ thống kho
doanh nghiệp
-Tổng chi phí vận chuyển thẳng phải giảm: chi phí dự trữ(dự trữ trên đường) và cước
phí vận tải chuyển thẳng nhỏ hơn chi phí dự trữ (dự trữ trên đường và kho) và cước phí vận
tải (vận chuyển đến kho và từ kho cung ứng cho khách hàng ). Điều này cũng có nghĩa: qui
mô lô hàng vận chuyển thẳng phải đủ lớn, điều kiện giao thông vận tải phải thuận tiện.
Như vậy, hình thức vận chuyển thẳng thích ứng với mục tiêu định hướng chi phí chứ
không phải dịch vụ, và trong điều kiện kinh tế thị trường phát triển với sự cạnh tranh dịch
vụ gay gắt, nó ít được sử dụng.
Hình thức vận chuyển phổ biến hơn cả vẫn là vận chuyển qua kho. Vận chuyển qua
kho là hình thức vận chuyển trong đó, hàng hoá từ nguồn hàng cung ứng cho khách hàng
phải qua ít nhất một khâu kho. Thực chất của hình thức vận chuyển qua kho là triển khai
kênh logistics gián tiếp trong doanh nghiệp. Có thể vận chuyển qua một hoặc nhiều khâu
kho tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố hệ thống logistics :Khoảng cách giữa nguồn hàng và khách
hàng, mạng lưới kho và giao thông vận tải, đặc điểm của hàng hoá vận chuyển. Trong điều
kiện nền kinh tế thị trường tập trung và chuyên môn hoá, vận chuyển qua kho có nhiều ưu
thế vì nó đảm bảo thoả mãn tốt nhất nhu cầu dịch vụ của khách hàng với chi phí thấp.
Do hàng hoá dự trữ trong mạng lưới kho được phân bố hợp lý nên đảm bảo thoả mãn
nhu cầu của khách hàng cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu đồng thời cung ứng nhanh và
ổn định hàng hoá cho khách hàng.
Vận chuyển hàng hoá qua mạng lưới kho được phân bố hợp lý sẽ phát huy tính kinh tế
nhờ qui mô trong vận chuyển và do đó giảm được chi phí vận chuyển. Chính vì vậy,xác
định một hình thức vận chuyển hợp lý phải gắn liền với việc qui hoạch mạng lưới kho hợp
lý.
5.5- Quyết định phương thức vận chuyển
Doanh nghiệp thương mại phải lựa chọn phương thức vận chuyển đơn thức, đa thức

hay đứt đoạn. Để xác định phương thức vận chuyển, cần căn cứ những yếu tố sau:
- Loại hình giao nhận: FOB giao, FOB nhận
- Điều kiện vận chuyển: cự ly, tính phức tạp của con đường và phương tiện (phải sử
dụng nhiều con đường và phương tiện)
- Sự hiện diện của các tổ chức dịch vụ giao nhận, vận chuyển đa phương thức
- Đặc điểm, tính chất hàng vận chuyển
- Khả năng vận chuyển riêng
- tốc độ, độ ổn định và chi phí của từng phương thức
5.6- Quyết định phương tiện vận tải hợp lý
Gắn liền với quyết định hình thức, phương thức vận chuyển là quyết định phương tiện
vận tải. Quyết định phương tiện vận tải nhằm tạo ra cơ cấu phương tiện đảm bảo cung cấp
dịch vụ cho khách hàng tốt nhất và chi phí thấp nhất.Tuỳ thuộc vào mục đích vận chuyển
-bổ sung dự trữ hay cung ứng hàng hoá cho khách hàng -mà quyết định phương tiện vận tải
định hướng chi phí hay dịch vụ. Thông thường, vận chuyển bổ sung dự trữ định hướng chi
phí, có nghĩa lấy tiêu chuẩn chi phí để lựa chọn phương án phương tiện vận tải; vận chuyển
cung ứng hàng hoá cho khách hàng lấy tiêu chuẩn trình độ dịch vụ khách hàng, và do đó là
11
khả năng phát triển doanh thu, lợi nhuận, hoặc khả năng cạnh tranh để chọn phương án
phương tiện vận tải.
Quyết định phương tiện vận tải phải căn cứ vào những yếu tố sau:
- Căn cứ vào mục đích vận chuyển để xác định mục tiêu phương tiện vận tải :chi phí
hay dịch vụ;
- Căn cứ vào những đặc trưng dịch vụ và chi phí của các loại phương tiện vận tải để
lựa chọn phương tiện vận tải đáp ứng những yêu cầu dịch vụ với tổng chi phí thấp nhất
(Hình 5.7)







Hình 5.7: Sự trái ngược giữa chi phí vận chuyển và dự trữ - Hàm của
những đặc trưng dịch vụ vận chuyển
- Căn cứ vào việc phân tích nhu cầu dịch vụ khách hàng, khả năng cung ứng dịch vụ
của đối thủ cạnh tranh nhằm xác định loại phương tiện vận tải đáp ứng yêu cầu cạnh tranh-
dịch vụ của doanh nghiệp;
- Căn cứ vào việc phân tích khả năng lợi nhuận để chọn phương tiện vận tải ứng với
trình độ dịch vụ khách hàng tối ưu;
- Căn cứ vào việc phân tích tổng chi phí liên quan đến loại phương tiện vận tải : chi
phí dự trữ trên đường và kho, cước phí vận chuyển. để chọn phương tiện vận tải cho chi
phí thấp nhất.
- Căn cứ tình hình phân bố nguồn hàng và khách hàng, mạng lưới kho và giao
thông vận tải.
Ví dụ 1: Một khách hàng bán lẻ mua 3000 kiện hàng có giá trị 1triệu đồng/kiện từ 2
nhà bán buôn. Hiện tại, số lượng mua được chia đều cho cả hai. Mỗi nhà bán buôn hiện
đang sử dụng phương tiện vận tải đường sắt để vận chuyển và có thời gian cung ứng cho
khách hàng như nhau. Tuy vậy, khách hàng bán lẻ sẽ chuyển 5% tổng lượng hàng mua cho
người cung ứng nào giảm được thời gian cung ứng đi 1 ngày, tức là 150 triệu. Giới hạn lợi
nhuận trước khi tính chi phí vận chuyển là 20% cho mỗi kiện hàng.
12
Chi phí dịch vụ
vận chuyển
Tổng chi phí Chi
phí
Chi phí dự trữ
(kho + trên đường)
Đường sắt Máy bayÔtô
Dịch vụ vận chuyển
(tốc độ và độ tin cậy cao hơn)
Nhà bán buôn A lập phương án sử dụng phương tiện vận tải ôtô hoặc máy bay. Cước

phí vận chuyển và thời gian cung ứng của mỗi loại phương tiện vận tải như sau:
Loại ptvt Giá cước(1000đ/kiện) Thời gian cung ứng (ngày)
1-Đường
sắt
25 7
2-Ôtô 60 4
3-Máy bay 103,5 2
Nhà bán buôn A đã tính toán khả năng thu lợi nhuận theo từng phương tiện vận tải
như sau:
Loại ptvt
Số lượng bán
(kiện)
Lãi gộp
(triệu đ)
Chi phí v/c
(triệu đ)
Lãi
(triệu đ)
1-Đường
sắt
1500 300 37,5 262,5
2-Ôtô
1950 390 117 273
3-Máy bay
2250 450 232,9 217,1
Như vậy, ôtô cho khả năng thu lợi nhuận cao nhất, do đó chọn phương tiện vận tải ôtô
để vận chuyển bán hàng.
Ví dụ 2: Một trạm bán buôn có thể sử dụng 2 loại phương tiện vận tải để vận chuyển
hàng thu mua từ nguồn về kho. Phương tiện vận tải B rẻ hơn nhưng chậm và kém tin cậy
hơn. Để lựa chọn phương tiện vận tải, trạm dựa vào các dữ liệu sau:

1/Dự báo nhu cầu năm-365ngày(T) 10950
2/Chi phí một lần đặt hàng(1000đ) 1000
3/Giá sản phẩm mua tại
nguồn(1000đ/T)
500
4/Tỷ lệ chi phí dự trữ trên đường(%) 20
5/Tỷ lệ chi phí dự trữ tại kho(%) 30
6/Xác suất đảm bảo dự trữ ở kho(%) 95
Phương
tiệnA
Phương tiệnB
7/Thời gian vận chuyển(ngày) 4 5
8/Độ lệch tiêu chẩn thời gian v/c(ngày) 1,5 2
9/Giá cước vận chuyển(1000đ/T) 120 118
Kho áp dụng mô hình kiểm tra thường xuyên dự trữ hàng hoá
Yêu cầu: Xác định phương tiện vận tải theo quan điểm tổng chi phí thấp nhất
Trong trường hợp này, phải tính toán tổng chi phí cung ứng hàng hoá cho cơ sở
logistics theo từng phương án phương tiện vận tải, bao gồm: chi phí dự trữ (cả trên đường
và kho), cước phí vận chuyển, chi phí thiếu bán do không đảm bảo dự trữ. Phương án nào
có tổng chi phí thấp hơn thì sẽ được lựa chọn.
13
Để lựa chọn phương tiện vận tải, ta phải so sánh tổng chi phí liên quan đến việc sử
dụng phương tiện vận tải :
ΣF=F
d
+F
đ
+F
v
Ơ đây, ΣF :Tổng chi phí liên quan đến sử dụng phương tiện vận tải

F
d
:Chi phí dự trữ tại kho và trên đường F
d
= F
dk
+F

F
đ
:Chi phí đặt hàng F
đ
= (M/Q).f
đ
F
v
:Cước phí vận chuyển F
v
=p
v
× M
F
dk
:Chi phí dự trữ tại kho F
dk
= (Q/2 + D
b
).p
k
.f

dk
F

:Chi phí dự trữ trên đường F

= (c
tb
.t
tb
).p
m
.f

M : Dự báo nhu cầu năm
Q: Qui mô lô hàng vận chuyển =
dkkd
fpfM ./ 2
f
đ
: Chi phí một lần đặt hàng
p
v
: Giá cước vận chuyển
D
b
:Dự trữ bảo hiểm D
b
= δ'. z; δ' : Độ lệch tiêu chuẩn do biến động củanhu cầu và
thời gian thực hiện đơn hàng
222,


tvtbvtbc
ct
δδδ
+=
z : Chỉ số độ lệch tiêu chuẩn tương ứng
với xác suất đảm bảo dự trữ (tra bảng)
δ
c
:Độ lệch nhu cầu
δ
tv
:Độ lệch thời gian vận chuyển
t
vtb
:Thời gian vận chuyển trung bình
c
tb
Nhu cầu bình quân ngày
p
k
:Giá nhập kho; p
k
=p
m
+p
v
; p
m
: Giá mua tại nguồn

p
v
: Giá cước vận chuyển
f

: Tỷ lệ chi phí đảm bảo dự trữ trên đường(%)
f
dk
:Tỷ lệ chi phí đảm bảo dự trữ tại kho(%)
Bây giờ, ta tính tổng chi phí đối với từng phương án phương tiện vận tải. Đơn vị tiền
tệ là 1000đ
Phương tiện vận tải A:
1/Chi phí dự trữ :
- Dự trữ trên đường : F

=(10950/365.4).500.20%=12000
- Dự trữ tại kho:
+
( )
34
3,0.120500
1000.10950.2
=
+
=
Q
+
( )
455,1.365/10950
2

2
,
==
δ
+ z :Xác suất đảm bảo dự trữ p
r
=0,95 nên tra bảng được z =1,64
F
dk
=(343/2+45.1,64).(500+120).0,3=45625,8
14
Vậy chi phí dự trữ là: F
d
=12000+45625,8=57625,8
2/Chi phí đặt hàng:
F
đ
=(10950/343).1000=31924,2
3/Cước phí vận chuyển :
F
v
=10950.120=1314000
Tổng chi phí phương án phương tiện vận tải A là:
ΣF
A
=57625,8+31924,2+1314000=1403550(nghìn đ)
Tương tự tính tổng chi phí phương án phương tiện vận tải B ta được:
ΣF
B
=1389063,6(nghìn đ)<ΣF

A
=1403550(nghìn đ)
Như vậy phương án phương tiện vận tải B có tổng chi phí thấp hơn, do đó ta
chọnphương tiện vận tải B để vận chuyển hàng hoá.
Khi lựa chọn phương tiện vận tải, phải cân nhắc nhiều nhân tố. Có một số nhân tố mà
những người ra quyết định không thể kiểm soát được:
- Thứ nhất: Cần khuyến khích sự hợp tác hiệu quả giữa người cung ứng và người mua
nếu biết được lý do gây ra chi phí là xác thực. Nếu người bán và người mua là những thực
thể pháp lý độc lập thì những thông tin về chi phí không đáng tin cậy. Trong trường hợp
này, sự nhạy cảm với phản ứng của bên khác đối với việc lựa chọn dịch vụ vận tải, hoặc
mức độ thu hút khách hàng sẽ cho biết phương hướng hợp tác.
-Thứ hai: ở đâu có người cung ứng cạnh tranh trong kênh phân phối, người mua và
người bán sẽ hành độnh để đạt được sự phù hợp tối ưu dịch vụ - chi phí vận tải. Tuy nhiên,
lý lẽ của các bên có thể không đảm bảo chắc chắn.
- Thứ ba: Hiệu quả của giá cả thường không được cân nhắc. Nếu người bán cung cấp
dịch vụ vận tải chất lượng cao hơn, họ có thể nâng giá hàng hoá để bù vào chi phí gia tăng.
Người mua sẽ phải cân nhắc cả giá và hiệu quả vận chuyển khi quyết định người cung ứng.
- Thứ tư: Những thay đổi giá cước vận chuyển, thay đổi phối thức sản phẩm và thay
đổi chi phí dự trữ, cũng như sự trả đũa dịch vụ vận chuyển của đối thủ cạnh tranh, sẽ bổ
sung thêm các yếu tố năng động vào những vấn đề không được nghiên cứu trực tiếp.
- Thứ năm: ảnh hưởng gián tiếp lựa chọn phương tiện vận tải về dự trữ của người bán
không được đánh giá. Người bán có thể có mức dự trữ tăng, giảm là do qui mô lô hàng phù
hợp với việc lựa chọn phương tiện vận tải tương tự như người mua. Nhà cung ứng có thể
điều chỉnh giá để phản ánh những cái đó. Ngược lại, sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn
phương tiện vận tải.
Đồng thời với quyết định phương tiện vận tải, phải xây dựng hành trình vận chuyển
nhằm giảm bớt chi phí vận chuyển và tăng tốc độ giao hàng. Trong trường hợp hành trình
con thoi-vận chuyển từ một nơi giao đến một nơi nhận-có thể sử dụng phương pháp giải bài
toán vận tải; trong trường hợp hành trình rải hàng-nhận hàng một nơi và giao cho nhiều nơi-
có thể sử dụng thuật toán người đưa thư để thiết lập hành trình vận chuyển.

5.7- Quyết định đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển.
Đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển có ảnh hưởng rất lớn đến các tiêu chuẩn dịch vụ
và chi phí. Do đó phải lựa chọn một cách cẩn thận. Cần phải đánh giá đơn vị cung cấp dịch
15
vụ vận chuyển theo nhiều tiêu chuẩn để lựa chọn. Quá trình lựa chọn đơn vị cung cấp dịch
vụ vận chuyển tiến hành theo các bước sau đây:
- Bước một: Xác định các tiêu chuẩn đánh giá.
Trên quan điểm tiếp thị, phải phân tích các tiêu chuẩn đánh giá đơn vị cung cấp dịch
vụ vận chuyển định hướng người nhận chứ không phải định hướng người giao, tức là định
hướng khách hàng. Các tiêu chuẩn này bao gồm dịch vụ và chi phí. Có thể cân nhắc các tiêu
chuẩn sau: chi phí, thời gian vận chuyển, độ tin cậy thời gian vận chuyển, khả năng vận
chuyển các loại hàng, tính linh hoạt, và độ an toàn của hàng hoá trong quá trình vận chuyển.
- Bước hai: Xác định độ quan trọng của mỗi tiêu chuẩn.
Độ quan trọng của mỗi tiêu chuẩn được xác định theo hệ số phù hợp với quan điểm
của người giao hàng. Có thể xếp loại độ quan trọng theo thứ tự: hệ số 1 là quan trọng nhất,
hệ số 3 là kém nhất.
- Bước ba: Đánh giá kết quả thực hiện mỗi tiêu chuẩn của từng đơn vị cung cấp dịch
vụ vận chuyển
Kết quả thực hiện tiêu chuẩn của từng đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển được đánh
giá bằng cách cho điểm với thang điểm từ 1-tốt đến 3-kém; điểm đánh giá này phải bao gồm
cả yếu tố số lượng và chất lượng.
-Bước bốn: Xác định tổng số điểm đánh giá.
Tổng số điểm đánh giá được xác định bằng cách nhân điểm thực hiện tiêu chuẩn với
hệ số quan trọng để được điểm đánh giá từng tiêu chuẩn, sau đó, cộng điểm đánh giá các
tiêu chuẩn được tổng số điểm đánh giá. Đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển nào có tổng số
điểm đánh giá thấp nhất thì được đánh giá cao nhất.
Trong môi trường logistics ngày nay, việc đánh giá và lựa chọn đơn vị cung cấp dịch
vụ vận chuyển khó khăn hơn do những đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển đều tăng cường
khả năng cung cấp dịch vụ vận chuyển. Vì vậy, ngoài việc đánh giá các tiêu chuẩn chi phí
và dịch vụ, cần cân nhắc thêm các yếu tố bổ sung. Bảng 5.2 minh hoạ phương pháp đánh

giá này.
Bảng 5.2: Đánh giá đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển bằng phương pháp cho điểm
Các tiêu chuẩn
Độ
quan
trọng
(1-3)
Kết quả đánh giá
Đơn vị cung cấp
DVVC A
Đơn vị cung cấp
DVVC B
Điểm
tiêu
chuẩn
Tổng
điểm
Điểm
tiêu
chuẩn
Tổng
điểm
1. Chi phí 1 1 1 2 2
2. Thời gian vận chuyển 3 2 6 3 9
3. Độ tin cậy 1 3 3 1 1
4. Khả năng vận chuyển các loại hàng 2 2 4 1 2
5. Tính linh hoạt 2 2 4 1 2
6. Độ an toàn vận chuyển 2 2 4 3 6
Cộng
22 24

16
Như vậy, nếu không xét thêm các nhân tố khác thì đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển
A được lựa chọn để đặt các mối quan hệ vận chuyển hàng hoá, bởi tổng số điểm đánh giá là
22 nhỏ hơn tổng số điểm đánh giá của đơn vị cung cấp dịch vụ vận chuyển B-24 điểm.
5.8- Quyết định phối hợp vận chuyển.
Trong vận chuyển, giá cước giảm cùng với qui mô lô hàng vận chuyển lớn để khuyến
khích các nhà quản trị giao hàng với số lượng lớn. Phối hợp giao các lô hàng nhỏ trong cùng
một lô hàng lớn là cách chủ yếu để đạt được chi phí vận chuyển /1đơn vị khối lượng thấp
hơn. Việc phối hợp các lô hàng giao thường được tiến hành theo 4 cách:
- Cách 1: Phối hợp dự trữ
Có nghĩa dự trữ các mặt hàng đáp ứng cho cùng một nhu cầu. Điều này cho phép giao
lô hàng lớn, thậm chí chở đầy phương tiện vận tải.
- Cách 2: Phối hợp phương tiện
Có nghĩa, nếu lô hàng giao nhỏ hơn trọng tải phương tiện, thì có thể kết hợp các lô
hàng có cùng hướng vận động để vận chuyển trong cùng một phương tiện vận tải có trọng
tải lớn.
-Cách 3: Phối hợp kho.
Trong trường hợp khoảng cách vận chuyển từ nguồn hàng đến các khu vực tiêu thụ
lớn, có thể phối hợp mạng lưới kho trong kênh logistics để tập trung vận chuyển hàng hoá
giữa kho thu nhận và kho phân phối ở cự ly xa, và sau đó vận chuyển cung ứng hàng hoá
cho khách hàng ở cự ly ngắn.
- Cách 4: Phối hợp thời gian.
Trì hoãn thực hiện các đơn hàng của nhiều khách hàng cho đến khi tạo nên lô hàng lớn
hơn để tập trung vận chuyển.
Ví dụ: Một công ty bán buôn phân phối hàng hoá từ tổng kho cho 3 trạm bán buôn khu
vực. Phân tích các đơn đặt hàng của 3 trạm trong 3 ngày liên tiếp có số liệu qui mô đơn đặt
hàng(tính theo đơn vị sản phẩm ) như sau:
Từ tổng kho đến Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3
Trạm A 5.000 25.000 18.000
Trạm B 7.000 12.000 21.000

Trạm C 42.000 38.000 61.000
Công ty thường giao các lô hàng cùng ngày nhận đơn đặt hàng. Các nhà quản trị
đang nghĩ xem có nên phối hợp các đơn đặt hàng của 3 ngày hay không
Trên cơ sở giá cước vận chuyển, có thể tính được tổng cước phí vận chuyển hàng
hoá trong trường hợp thực hiện đơn đặt hàng trong từng ngày:
Đơn vị: 1000đ
Trạm Ngày 1 Ngày 2 Ngày 3 Cộng
A
34,2.5000=17100
0
11,4.25000=28500
0
13,6.18000=22480
0
700800
B
36,0.7000=25200
0
14,4.12000=17280
0
12,0.21000=25200
0
676800
17
C
6,8.42000=28560
0
6,8.40000=272000 6,8.61000=414800 972400
Cộng 708.600 729.800 891.600 2.350.000
40.000: Lô hàng 38.000 coi như chở đầy phương tiện vận tải 40.000

Nếu các đơn đặt hàng giữ lại 3 ngày sau đó mới giao, chi phí vận chuyển sẽ là:
Trạm 3 ngày
A 8,2.48000=393600
B 8,6.40000=344000
C 6,8.141000=988800
Cộng 1.696.400
Tiết kiệm chi phí vận chuyển do phối hợp đơn đặt hàng sẽ là:
2.350.000-1.696.400=683.600(nghìn đồng)
Trên cơ sở này, so sánh ảnh hưởng của việc kéo dài thời gian cung ứng đến doanh
thu, và đánh giá xem phối hợp đơn hàng có lợi không.
5.9- Quá trình nghiệp vụ vận chuyển.
Quá trình nghiệp vụ vận chuyển là hệ thống các mặt công tác nhằm di chuyển hàng
hoá từ nơi giao hàng đến nơi nhận hàng, đảm bảo thoả mãn những yêu cầu của quá trình
mua, bán với chi phí thấp nhất. Quá trình nghiệp vụ vận chuyển nằm trong 2 quá trình
logistics cơ bản của doanh nghiệp thương mại: quá trình nghiệp vụ mua và quá trình
nghiệp vụ bán.
Như vậy, hoàn thiện quá trình nghiệp vụ vận chuyển có vai trò rất lớn trong việc thực
hiện những mục tiêu của vận chuyển hàng hoá, nâng cao trình độ dịch vụ khách hàng, giảm
chi phí logistics, đảm bảo lợi thế cạnh tranh và khả năng lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
Tuỳ thuộc vào các mối quan hệ mua bán, vận chuyển mà thành phần tham gia có thể khác
nhau, nhưng về cơ bản là: người giao (nguồn hàng), doanh nghiệp thương mại, khách hàng,
người vận chuyển.
Hình 5.8 trình bày sơ đồ tổng quát quá trình nghiệp vụ vận chuyển cùng các mối quan
hệ giữa các tổ chức tham gia vào quá trình nghiệp vụ vận chuyển.
Đứng trên góc độ doanh nghiệp thương mại là bên bán (người gửi hàng), quá trình
nghiệp vụ vận chuyển bao gồm 4 giai đoạn cơ bản: chuẩn bị gửi hàng; gửi hàng; bảo vệ và
bốc dỡ hàng hoá trên đường vận chuyển; và giao hàng.
5.9.1- Chuẩn bị gửi hàng
Bao gồm những mặt công tác đảm bảo sẵn sàng để vận chuyển hàng hoá. Yêu cầu của
giai đoạn này là: Lô hàng vận chuyển phải phù hợp với lịch giao hàng và hợp đồng, đảm

bảo những điều kiện giao nhận vận chuyển và phải thuận tiện để thực hiện các khâu nghiệp
vụ khác. Chuẩn bị gửi hàng có 2 mặt công tác cơ bản là: chuẩn bị về hàng hoá, và chuẩn bị
các loại giấy tờ.
18
Chun b v hng hoỏ thc cht l to lp lụ hng giao cho khỏch hng. õy l ni
dung c bn trong cụng on nghip v phỏt hng kho;
Hỡnh 5.8: S tng quỏt quỏ trỡnh nghip v vn chuyn
Chun b v giy t nhm to nờn nhng iu kin kinh t - phỏp lý trong vn chuyn
v giao nhn hng hoỏ, m bo cho hng hoỏ vn chuyn c thụng sut, giao nhn
nhanh, v do ú tng tc quỏ trỡnh nghip v vn chuyn hng hoỏ.
Cỏc chng t trong giao nhn, vn chuyn
Trong giao nhn vn chuyn thụng thng (Ni a)
Vn n (bill of lading): l mt bn hp ng hp phỏp gia ngi thuờ vn chuyn
v cỏc hóng vn chuyn v vic vn chuyn mt khi lng hng hoỏ ti mt a im c
th v khụng cú nguy him. Cú 3 chc nng:
+ Cú tỏc dng nh biờn lai
+ Coi nh l hp ng vn chuyn
+ L bng chng bng vn bn
Hoỏ n vn chuyn (Freight bill): Nh vn n nhng cú thờm thụng tin v cc vn
chuyn
Khiu ni vn chuyn (Freight claims): Thng l Khiu ni trỏch nhim phỏp lý ca
ngi vn chuyn v Khiu ni mc giỏ cao
Trong giao nhn vn chuyn kinh doanh quc t
Chng t dựng trong hot ng xut khu: vn n, hoỏ n cng, hng dn giao
hng, khai bỏo xut khu, th tớn dng, chng nhn ca lónh s quỏn, chng nhn v ngun
gc ca hng hoỏ, hoỏ n thng mi, chng t bo him, th chuyn giao.
Chng t dựng trong nhp khu: thụng bỏo n, giy khai bỏo hi quan, chng nhn
ca hóng vn chuyn v yờu cu gii phúng hng, giy yờu cu giao hng, chng nhn gii
phúng hng, hoỏ n hi quan c bit.
Ngờinhận

ĐVvậntải
Ngờigửi
Quanhtraoi/giao dch hng hoỏ
Quanhvnchuyn
Kênh VC
vc
Dòng hàng hoá
Vận đơn
Thông tin đơn đặt hàng
Hoá đơn/chi tiết vc
Hoá đơn vc
Chuyển tiền
Chuyển tiền
Tuyến đ ờng
19
5.9.2- Gửi hàng
Bao gồm những mặt công tác chuyển giao hàng hoá lên phương tiện vận tải. Yêu cầu
của giai đoạn này là: Xác định trách nhiệm vật chất về hàng hoá vận chuyển giữa các bên có
liên quan- người giao, nhận và vận chuyển hàng hoá, tận dụng trọng tải và dung tích của
phương tiện vận tải, đảm bảo an toàn cho hàng hoá trong quá trình vận chuyển.
Tuỳ thuộc loại dịch vụ vận chuyển sử dụng mà nội dung gửi hàng phức tạp hoặc đơn
giản. Gửi hàng tại kho bằng phương tiện vận tải ôtô là đơn giản nhất; phức tạp nhất vẫn là
gửi hàng bằng phương tiện vận tải đường dài như :đường sắt, đường thuỷ,đường không.Nội
dung gửi hàng bằng đường sắt bao gồm: viết giấy gửi hàng- xác định địa điểm gửi hàng-
chuyển hàng ra địa điểm bốc xếp- kiểm tra số lượng và chất lượng hàng hoá - kiểm tra
phương tiện vận tải - chất xếp hàng lên phương tiện vận tải - làm thủ tục chứng từ giao
nhận.
5.9.3- Bảo vệ và bốc dỡ hàng hoá trên đường vận chuyển.
Bao gồm những mặt công tác gắn liền với việc di chuyển hàng hoá từ nơi giao đến nơi
nhận hàng. Yêu cầu: đảm bảo di chuyển hàng hoá nhanh, liên tục, giảm đến mức thấp nhất

hao hụt hàng hoá trong quá trình di chuyển và bốc dỡ chuyển tải.
Trách nhiệm bảo vệ hàng hoá trong quá trình vận chuyển có thể thuộc về bên sở hữu
hàng hoá - nguồn hàng, doanh nghiệp thương mại, khách hàng-hoặc người vận chuyển tuỳ
thuộc vào đặc điểm hàng hoá, địa điểm giao hàng, khả năng thực hiện các dịch vụ của người
vận chuyển. Trong vận chuyển hiện đại, người vận chuyển đảm nhiệm cả dịch vụ bảo vệ
hàng hoá, và do đó nâng cao trách nhiệm của bên vận chuyển đồng thời giải phóng các bên
sở hữu hàng hoá khỏi công tác này.
Trong quá trình vận chuyển, phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, duy trì và tạo nên
những điều kiện bảo vệ và bảo quản hàng hoá, xử lý kịp thời và hợp lý những trường hợp
hàng hoá bị suy giảm chất lượng.
Trong quá trình vận chuyển, có thể phải thay đổi phương tiện vận tải do chuyển đổi
loại hình phương tiện (đường sắt-ôtô, đường thuỷ-ôtô, ), hoặc do hư hỏng cầu đường hay
phương tiện vận tải. ,và do đó phải tiến hành bốc dỡ hàng hoá. Trách nhiệm bốc dỡ trong
quá trình vận chuyển thường là do người vận chuyển đảm nhiệm bằng cách sử dụng các loại
hình tổ chức lực lượng bốc dỡ khác nhau. Cần phải quản lý tốt hàng hoá trong quá trình bốc
dỡ chuyển tải.
5.9.4- Giao hàng.
Bao gồm những mặt công tác nhằm chuyển giao hàng hoá từ phương tiện vận tải cho
bên nhận hàng. Đây là giai đoạn kết thúc và thể hiện kết quả của cả quá trình nghiệp vụ vận
chuyển. Yêu cầu của giai đoạn này là: Xác định trách nhiệm vật chất giữa các bên giao,
nhận và vận chuyển hàng hoá; giải phóng nhanh phương tiện vận tải, đảm bảo giữ gìn an
toàn cho hàng hoá.
Tuỳ thuộc vào việc giao hàng từ loại phương tiện vận tải nào mà nội dung giao hàng
đơn giản hay phức tạp. Đối với bên nhận hàng thì đây là nghiệp vụ tiếp nhận hàng hoá và do
đó có nội dung như nghiệp vụ tiếp nhận hàng hoá ở kho.
20
21

×