Tải bản đầy đủ (.doc) (184 trang)

GIÁO TRÌNH XÂY DỰNG ĐẢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (899.07 KB, 184 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO TỪ XA
HOÀNG NGỌC VĨNH
GIÁO TRÌNH
XÂY DỰNG ĐẢNG
TÀI LIỆU GIẢNG DẠY
LƯU HÀNH NỘI BỘ
Chịu trách nhiệm xuất bản:
PGS.TS VÕ DUY DẦN
Biên tập nội dung: TS NGUYỄN TIẾN DŨNG
Biên tập mỹ thuật: HÙNG PHONG
Biên tập kỹ thuật: HÙNG PHONG
Trình bày bìa: THU HƯƠNG
HUẾ - 2003
1
MỤC LỤC
L I NÓI UỜ ĐẦ 2
B i 1: I T NG, PH NG PHÁP VÀ C I M NGHIÊN C U C A B MÔN XÂY à ĐỐ ƯỢ ƯƠ ĐẶ Đ Ể Ứ Ủ Ộ
D NG NGỰ ĐẢ 3
BÀI 2: H C THUY T MÁC-LÊNIN Ọ Ế 8
V CH NH NG CÁCH M NG C A GIAI C P CÔNG NHÂNỀ Í ĐẢ Ạ Ủ Ấ 8
BÀI 3: QUAN NI M C A CH NGH A MÁC-LÊNIN Ệ Ủ Ủ Ĩ 21
V NG C M QUY N.Ề ĐẢ Ầ Ề 21
BÀI 4: NGUYÊN T C T P TRUNG DÂN CH C A NGẮ Ậ Ủ Ủ ĐẢ 30
BÀI 5: T T NG H CH MINH V XÂY D NG NGƯ ƯỞ Ồ Í Ề Ự ĐẢ 41
BÀI 6: NÂNG CAO CH T L NG Ấ ƯỢ 51
T CH C C S NGỔ Ứ Ơ ỞĐẢ 51
BÀI 7: NÂNG CAO CH T L NG LÃNH O Ấ ƯỢ ĐẠ 64
C A C P Y NG TRONG CÔNG CU C I M IỦ Ấ Ủ ĐẢ Ộ ĐỔ Ớ 64
BÀI 8: XÂY D NG KH I OÀN K T TH NG NH T V NG CH C TRONG NGỰ Ố Đ Ế Ố Ấ Ữ Ắ ĐẢ 78


BÀI 9: XÂY D NG I NG NG VIÊNỰ ĐỘ Ũ ĐẢ 84
BÀI 10: S LÃNH O C A NG Ự ĐẠ Ủ ĐẢ 97
I V I NHÀ N C XÃ H I CH NGH AĐỐ Ớ ƯỚ Ộ Ủ Ĩ 97
BÀI 11: I M I CÔNG TÁC QU N CHÚNG C A NG, T NG C NG M I QUAN H ĐỔ Ớ Ầ Ủ ĐẢ Ă ƯỜ Ố Ệ
GI A NG VÀ QU N CHÚNG NHÂN DÂNỮ ĐẢ Ầ 105
BÀI 12: CÔNG TÁC T T NG C A NGƯ ƯỞ Ủ ĐẢ 117
BÀI 13: CÔNG TÁC LÝ LU N C A NG.Ậ Ủ ĐẢ 129
BÀI 14: CÔNG TÁC CÁN B C A NGỘ Ủ ĐẢ 138
BÀI 15: PHONG CÁCH LÀM VI C Ệ 149
C A NG I LÃNH OỦ ƯỜ ĐẠ 149
BÀI 16: N I DUNG, TH T C KI M TRA VÀ THI HÀNH K LU T NG C SỘ Ủ Ụ Ể Ỷ Ậ ĐẢ Ơ Ở 162
BÀI 17: N I DUNG v TH T C K T N P, QU N LÝ, THUYÊN CHUY N NG VIÊN.Ộ à Ủ Ụ Ế Ạ Ả Ể ĐẢ
173
DANH M C TÀI LI U THAM KH OỤ Ệ Ả 183
LỜI NÓI ĐẦU
Chúng tôi biên soạn cuốn “Giáo trình Xây dựng Đảng” nhằm đáp ứng nhu
cầu học tập, nghiên cứu của sinh viên Trung tâm Đào tạo Từ xa và sinh viên Đại học
Huế về môn học “Xây dựng Đảng”.
Nội dung cuốn sách được hoàn thành dựa trên cơ sở biên tập và bổ sung nội
dung hai cuốn sách: “Xây dựng Đảng” - Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Hà Nội -
1995 và “Xây dựng Đảng” - Giáo trình Trung học Chính trị - Tài liệu lưu hành nội
bộ - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - 1997.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song không thể tránh khỏi những sai sót.
Tác giả rất mong nhận được sự góp ý của các bạn đồng nghiệp, đọc giả xa
gần để cuốn sách ngày càng hoàn thiện hơn.
2
Chân thành cảm ơn!
Huế, tháng 5 năm 2003
Th.s Hoàng Ngọc Vĩnh
Bài 1: ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP VÀ ĐẶC ĐIỂM NGHIÊN CỨU

CỦA BỘ MÔN XÂY DỰNG ĐẢNG
I. Đối tượng nghiên cứu của bộ môn xây dựng Đảng.
Xây dựng Đảng là một môn khoa học xã hội, là bộ phận không thể tách rời
của học thuyết Mác-Lênin về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Khoa học xây
dựng Đảng ra đời và phát triển trên cơ sở lý luận Mác-Lênin, trên cơ sở tổng kết thực
tiễn xây dựng Đảng của các Đảng Cộng sản và Công nhân. Xây dựng Đảng là khoa
học về những quy luật về sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội, nâng cao vai trò lãnh
đạo của Đảng đối với xã hội; về những quy luật xây dựng nội bộ Đảng, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Nói cách khác, khoa học xây dựng Đảng nghiên cứu những quy luật và cơ chế
xây dựng và hoạt động của Đảng làm cho Đảng ngày càng vững mạnh về phẩm chất,
năng lực, trí tuệ và năng lực lãnh đạo, làm tròn vai trò đội tiên phong chính trị của
giai cấp công nhân, lãnh đạo xã hội phát triển toàn diện.
Trong điều kiện có chính quyền, xây dựng Đảng là khoa học về những nguyên
tắc và phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ
thống chính trị, về những nguyên tắc và phương pháp lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế, xã hôi, tư tưởng, văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ
thuật, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Trong nội bộ Đảng thì đó là những nguyên
lý về tư tưởng và tổ chức, những nguyên tắc, tiêu chuẩn sinh hoạt và những cơ chế để
thực hiện những nguyên tắc, tiêu chuẩn đó.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở lý luận của khoa học xây dựng Đảng. Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về Đảng, về xây dựng Đảng chiếm một vị trí quan trọng
trong các tác phẩm của Mác, Ăngghen và Lênin. Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ, Đảng
cách mạng của giai cấp công nhân phải được xây dựng trên cơ sở khoa học nghiêm
túc, tức được xây dựng và hoạt động theo những quy luật khách quan. Những nguyên
lý tư tưởng và tổ chức, những nguyên tắc lãnh đạo và các tiêu chuẩn sinh hoạt của
Đảng đều mang tính khách quan. Tất cả đều bắt nguồn từ những đòi hỏi của cuộc đấu
tranh giai cấp của giai cấp công nhân, của những nhiệm vụ chính trị trong từng giai
đoạn cách mạng và trong từng thời kỳ cách mạng.
3

Lênin đã phân tích một cách toàn diện những nguyên lý tư tưởng và tổ chức
của một Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Lênin là người đầu tiên chỉ rõ sự cần
thiết phải thành lập chính Đảng kiểu mới ở nước Nga. Với thiên tài đặc biệt, Lênin đã
nhìn thấy sức mạnh của một tổ chức Đảng đối với quá trình cách mạng. Người nêu ra
luận điểm nổi tiếng: “Hãy cho chúng tôi một tổ chức những người cách mạng, và
chúng tôi sẽ đảo ngược cả nước Nga lên”
1
. Chính Lênin đã đề ra lý luận về Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân chống lại các lý luận phản động, xét lại, cơ hội chủ
nghĩa về xây dựng Đảng.
Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, lợi dụng những khuyết điểm và sai
lầm trong cải tổ, cải cách ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa, chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động khác luôn tập trung mũi nhọn tấn công vào vai trò lãnh đạo của các
Đảng cầm quyền. Đặc biệt là các chiêu bài “dân chủ”, “đa nguyên” chúng đã lật đổ
được chính quyền cách mạng, thủ tiêu được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản ở
Liên Xô và các nước Đông Âu. Sự thất bại của các Đảng cầm quyền ở Liên Xô và
Đông Âu không phải là do chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và học thuyết về Đảng
của chủ nghĩa Mác-Lênin nói riêng đã lỗi thời, mà là do sai lầm trong nhận thức của
các Đảng đó khi vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin và có cả sự phản bội lại chủ nghĩa
Mác-Lênin.
Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo, tổ chức mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam trên 70 năm qua. Sự kiên định vững vàng của Đảng ta là điều kiện
quyết định nhất cho mọi thắng lợi của cách mạng nước ta.
Thực tiễn và lý luận xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 73 năm
qua rất phong phú. Đi dôi với việc nghiên cứu những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin về xây dựng Đảng, Đảng ta coi trọng nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng và thực tiễn xây dựng Đảng đã được tổng kết trong các văn kiện của
Đảng.
II. Đặc điểm nghiên cứu và vị trí của bộ môn xây dựng Đảng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhưng sự lãnh đạo của Đảng tiên

phong là nhân tố đầu tiên quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng
lãnh đạo toàn diện đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và đối với mọi tổ chức
trong hệ thống chính trị.
Lãnh đạo vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Vì vậy việc trang bị cho cán bộ
lãnh đạo những tri thức về Đảng, những kiến thức và những kinh nghiệm lãnh đạo
của Đảng và về xây dựng Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc nâng cao
chất lượng và hiệu quả lãnh đạo chính trị của Đảng.
1
V.I Lênin toàn tập - tập 6 - Nxb Tiến bộ Matxcova 1975 - trang 162.
4
Khoa học xây dựng Đảng có quan hệ hữu cơ với chủ nghĩa duy vật biện
chứng, với kinh tế chính trị học, với khoa học Lịch sử Đảng, với Chủ nghĩa xã hội
khoa học và với lịch sử phong trào công nhân và cộng sản quốc tế.
“Điều cốt yếu để công cuộc đổi mới giữ vững được định hướng xã hội chủ
nghĩa và đi đến thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì vận dụng
sáng tạo chủ nghiã Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giữ vững vai trò lãnh đạo
xã hội. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của mình”
2
Tư tưởng chỉ đạo trong các văn kiện của các Đại hội đại
biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam từ lần thứ VI đến XIX là phải nâng cao
tính cách mạng và khoa học trong công tác xây dựng Đảng, phải coi trọng việc
nghiên cứu, tổng kết lý luận về đảng cầm quyền. Việc nghiên cứu lý luận về xây
dựng Đảng đòi hỏi phải gắn chặt lý luận với thực tiễn. Đó là thực tiễn cải tạo xã hội
chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc và thực tiễn xây dựng Đảng ta,
đặc biệt là trong qua trình đổi mới từ sau Đại hội VII. Đó còn là những kinh nghiệm
(cả thành công và thất bại) về cải tổ, cải cách ở các nước xã hội chủ nghĩa.
Trong tình hình quốc tế hiện nay, khi chủ nghĩa xã hội đã sụp đổ ở Liên Xô và
Đông Âu, khi các thế lực thù địch đang tìm mọi thủ đoạn tấn công vào sự lãnh đạo
của Đảng ta, hòng thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” thì việc nghiên cứu môn

xây dựng Đảng càng cần được coi trọng, càng có ý nghĩa to lớn cả về lý luận, cả về
thực tiễn đối với mọi cán bộ, đảng viên.
Mục tiêu của bộ môn xây dựng Đảng là nhằm nâng cao chất lượng công tác
cho cán bộ lãnh đạo chính trị, giúp cho cán bộ, đảng viên có khả năng nhận thức và
giải quyết đúng đắn, kịp thời những vấn đề trước mắt, cũng như những vấn đề cơ bản
đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng và việc xây dựng nội bộ Đảng trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Môn xây dựng Đảng còn giúp cho cán bộ, đảng viên của
Đảng quán triệt và vận dụng những nguyên tắc, phương pháp lãnh đạo của Đảng và
những tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền.
III. Phương pháp nghiên cứu của bộ môn xây dựng Đảng.
Phép biện chứng duy vật là phương pháp cơ bản của khoa học xây dựng
Đảng. Vận dụng trung thành và khoa học phép biện chứng duy vật vào nghiên cứu
khoa học xây dựng Đảng, nó cho phép:
a. Trong nghiên cứu sâu sắc khoa học xây dựng Đảng, không rơi vào chủ
quan duy ý chí, không rơi vào chủ nghĩa giáo điều, công thức, rập khuôn, máy móc
và không rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm trong công tác Đảng.
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, nhà xuất bản Sự Thật , Hà Nội, 1991, tr 53.
5
b. Có quan điểm lịch sử cụ thể đối với mọi quá trình và mọi hiện tượng, phân
tích những quá trình, hiện tượng đó trong sự biến đổi và phát triển.
c. Nhận thức được những quy luật lịch sử về sự ra đời và phát triển của Đảng
Cộng sản và vai trò lãnh đạo của Đảng ngày càng tăng lên trong tiến trình xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
d. Xác định được đúng đắn vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng với tư cách là đội
tiên phong chính trị lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội và đối
với sự phát triển của toàn xã hội.
e. Xác định được mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức, mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa các tổ chức trong cơ cấu xây dựng Đảng, hình thức
và phương pháp xây dựng Đảng tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, những nhiệm

vụ của Đảng và những kinh nghiệm của Đảng đã tích lũy được.
f. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo của Đảng ngày
càng tăng lên trên tất cả mọi mặt, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước và sự không ngừng hoàn thiện những hình thức của tổ chức
Đảng cũng như những phương pháp lãnh đạo sinh động của Đảng đối với xã hội.
g. Kết hợp đúng đắn tính cách mạng và tính khoa học của những nguyên tắc
của Đảng đối với xã hội, của những nguyên tắc và tiêu chuẩn sinh hoạt Đảng.
h. Xác định đúng được ý nghĩa của thành phần xã hội xuất thân và của hệ tư
tưởng đối với bản chất giai cấp công nhân của Đảng, mối quan hệ của hai yếu tố đó
trong công tác xây dựng nội bộ Đảng.
i. Phép biện chứng mac-xít cho phép xem xét hoạt động của Đảng như một
quá trình không ngừng phát triển cùng với quá trình phát triển của đời sống xã hội -
một quá trình không ngừng phát triển mâu thuẫn, không ngừng đổi mới những hình
thức hợp lý với nội dung. Cùng với sự phát triển của xã hội xã hội chủ nghĩa, bản
thân Đảng - người lãnh đạo toàn xã hội - cũng phát triển trưởng thành, nội dung lãnh
đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng ngày càng phong phú. Đồng thời, cơ cấu,
hình thức và những phương pháp công tác của Đảng cũng ngày càng được hoàn
thiện. Nội dung, cơ cấu, cơ chế, hình thức xây dựng nội bộ Đảng cũng không ngừng
phát triển.
j. Ngoài phương pháp cơ bản chung trên đây, thực tiễn xây dựng Đảng đòi
hỏi sử dụng một phương pháp khác gắn liền lý luận với thực tiễn xây dựng Đảng. Đó
là phương pháp tổng kết điển hình tiên tiến.
Các Đảng Cộng sản chân chính đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng
của tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, đều dựa trên những nguyên tắc của chủ
6
nghĩa Mác-Lênin để lãnh đạo toàn xã hội, đều phải dựa trên những nguyên tắc và tiêu
chuẩn Lêninnít về sinh hoạt Đảng để xây dựng nội bộ Đảng. Nhưng mỗi Đảng ra đời
và hoạt động trong những điều kiện chính trị, lịch sử, kinh tế, xã hội, khác nhau, có
những nhiệm vụ lịch sử khác nhau và có những đặc điểm riêng về nội bộ Đảng.
Thực tiễn đó đòi hỏi tính sáng tạo cao trong việc vận dụng các nguyên lý của

chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng, cũng như những kinh nghiệm về xây dựng
Đảng của các Đảng khác, cả kinh nghiệm thành công và kinh nghiệm không thành
công.
Đảng ta lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở một nước mà nền kinh tế chủ
yếu là sản xuất nhỏ, lại bị chiến tranh tàn phá lâu dài, nên việc sáng tạo được mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi một quá trình tìm tòi, thử nghiệm công phu.
Tình hình đó đòi hỏi phải đặc biệt coi trọng việc tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, coi
trọng những sáng kiến từ cơ sở, coi trọng việc tổng kết những điển hình tiên tiến để
bổ sung và phát triển lý luận về xây dựng Đảng. Đảng Cộng sản chân chính là Đảng
có lời nói đi đôi với việc làm, là Đảng nhạy cảm với cái mới, giải quyết được kịp thời
và đúng đắn những vấn đề do cuộc sống đặt ra. Do đó, tổng kết điển hình tiên tiến là
một phương pháp quan trọng để xây dựng Đảng, gắn lý luận với thực tiễn, khẳng
định cái đúng, phê phán cái sai, góp phần sáng tạo lý luận, không ngừng nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

7
PHẦN 1
MỘT SỐ NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
VỀ XÂY DỰNG ĐẢNG
BÀI 2: HỌC THUYẾT MÁC-LÊNIN
VỀ CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân là
một bộ phận cấu thành của chủ nghĩa xã hội khoa học - khoa học về cuộc đấu tranh
của giai cấp công nhân, về cách mạng vô sản, về những quy luật chính trị-xã hội của
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Học thuyết đó chỉ ra những quy luật về sự ra
đời của Đảng, những nguyên tắc về xây dựng tư tưởng, tổ chức và hoạt động lãnh
đạo chính trị của Đảng nhằm cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Học thuyết gắn liền với tên tuổi của Mác, Ăngghen,
Lênin và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Quá trình đó gắn liền với những
điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và

công nhân quốc tế.
I. MÁC VÀ ĂNGGHEN BÀN VỀ CHÍNH ĐẢNG CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN
1. Quy luật ra đời của Đảng Cộng sản với tư cách là đội tiên phong chính
trị của giai cấp công nhân.
a) Giai cấp, đấu tranh giai cấp, chính Đảng và cách mạng xã hội.
Xã hội loài người từ sau chế độ xã hội cộng sản nguyên thủy tới nay là xã hội
có giai cấp. Các giai cấp có lợi ích khác nhau, do đó có mâu thuẫn về lợi ích. Đó là
nguồn gốc cơ bản dẫn đến mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Đấu tranh giai cấp thoạt đầu là đấu tranh về quyền lợi kinh tế. Cuộc đấu tranh
đó phát triển đến một trình độ nhất định thì chuyển hóa thành cuộc đấu tranh chính
trị. Đấu tranh chính trị là cuộc đấu tranh biểu hiện tập trung nhất, bao quát nhất và
mạnh mẽ nhất của đấu tranh giai cấp. Đó là cuộc đấu tranh dành quyền lực chính trị
về tay một giai cấp. Cuộc đấu tranh này phát triển đến gioai đoạn cao thì cách mạng
xã hội chủ nghĩa có thể nổ ra.
Cách mạng xã hội là đỉnh cao của cuộc đấu tranh chính trị mang mục đích
giành quyền lực về tay giai cấp mình. Cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến một
trình độ nào đó thì chính Đảng ra đời.
8
Chính Đảng ra đời là một tất yếu lịch sử, là sản phẩm tự nhiên của cuộc đấu
tranh giai cấp đạt đến trình độ đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất mọi hoạt động
của giai cấp, nhằm hướng các nổ lực chung vào mục tiêu chống lại giai cấp đối lập
cùng với nhà nước thống trị của giai cấp đó. Cuộc đấu tranh của các chính Đảng là sự
biểu hiện hoàn chỉnh nhất, đầy đủ nhất và rõ rệt nhất của cuộc đấu tranh chính trị của
giai cấp.
Đảng là một tổ chức chính trị, là sản phẩm lịch sử tự nhiên của cuộc đấu tranh
chính trị của một giai cấp, và chủ yếu, trước hết nó đại biểu cho quyền lợi của giai
cấp đó. Bất kỳ một chính Đảng của một giai cấp nào cũng ra đời theo quy luật đó.
Không có Đảng siêu giai cấp. Đảng bao giờ cũng mang tính chất của một giai cấp.
Chính Đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan

của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử thế giới của mình.
Mục tiêu đấu tranh của Đảng Cộng sản không có gì khác là giải phóng giai
cấp công nhân và nhân dân lao động thoát khỏi ách áp bức bóc lột, xóa bỏ chủ nghĩa
tư bản, đưa dân tộc đến chế độ tự do ấm no và hạnh phúc nhất - xã hội cộng sản chủ
nghĩa - mà giai đoạn đầu của nó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Hiện nay nhiều học giả tư sản và bọn cơ hội xét lại hiện đại trong phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế đang ra sức phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Họ bắt đầu từ sự phủ nhận vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và những thành
quả cách mạng của nó.
Hậu quả của sự sụp đổ ở Liên Xô và một số nước Đông Âu mà Đảng Cộng
sản đã giành được chính quyền trước đây không phải vì bản thân chủ nghĩa xã hội
khoa học mà vì các Đảng Cộng sản ở các nước ấy phạm sai lầm chủ quan duy ý chí,
mà chủ yếu ở sự nhận thức và vận dụng nó một cách xơ cứng giáo điều; càng không
phải ở chỗ giai cấp công nhân đã mất vai trò lịch sử thế giới của mình. Vai trò đó
được quyết định trước hết và chủ yếu bởi vai trò của nó trong nền sản xuất xã hội và
điều kiện lịch sử quy định một cách khách quan. Giai cấp công nhân đã và vẫn là giai
cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, song chúng ta cũng cần có một nhận
thức mới về giai cấp công nhân hiện đại. Đó là giai cấp công nhân có khoa học, kỹ
thuật, có trí tuệ, được tri thức hóa.
Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học
với phong trào công nhân.
Phong trào công nhân các nước đều phải một thời kỳ đấu tranh tự phát. Phong
trào tự phát đó không vượt quá giới hạn cao nhất của nó là chủ nghĩa công đoàn. Cho
9
tới nay, công đoàn ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa chủ yếu vẫn chỉ là những tổ
chức nghề nghiệp của giai cấp công nhân được tổ chức ra nhằm bênh vực quyền lợi
của giai cấp mình về mặt kinh tế trong khuôn khổ của chủ nghĩa tư bản. Theo Lênin,
cuộc đấu tranh của các công đoàn ở các nước tư bản chủ nghĩa là chỉ nhằm thay đổi
một hình thức bóc lột này bằng một hình thức bóc lột khác.

Chủ nghĩa xã hội khoa học do Mác và Ăngghen sáng lập và được Lênin làm
phong phú cả về lý luận và thực tiễn. Chủ nghĩa xã hội khoa học khi chưa kết hợp với
phong trào công nhân, thì về mặt tổ chức, sự phát triển cao nhất của nó cũng chỉ dẫn
đến một sự ra đời của các hội truyền bá chủ nghĩa Mác.
Về mặt lịch sử , nó ra đời sau phong trào công nhân, nhưng giữa chủ nghĩa xã
hội khoa học và phong trào công nhân lại có chung nguồn gốc, đó là những quan hệ
kinh tế tư bản chủ nghĩa. Do quan hệ kinh tế này, nảy sinh cuộc đấu tranh giữa giai
cấp tư sản và giai cấp công nhân và từ đó phong trào công nhân ra đời. Mác và
Ăngghen đã nghiên cứu những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa mà phát hiện ra sứ
mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân và từ đó xây dựng nên lý luận về chủ
nghĩa xã hội khoa học.
Tuy nhiên, chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân lại sinh ra từ
hai tiền đề khác nhau. Chủ nghĩa xã hội khoa học, một mặt là sản phẩm của việc
nghiên cứu những quan hệ kinh tế tư bản chủ nghĩa; mặt khác nó còn là kết quả
khách quan, tất yếu của quá trình phát triển của những tư tưởng tiến bộ do loài người
đã tạo ra từ đầu thế kỷ XIX: Triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã
hội không tưởng phê phán Anh và Pháp. Phong trào công nhân ra đời từ tiền đề trực
tiếp của cuộc đấu tranh hàng ngày của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản.
Chỉ từ khi chủ nghĩa xã hội khhoa học xâm nhập và soi sáng vào phong trào
công nhân, giai cấp công nhân mới thấy rõ bản chất bóc lột của nhà tư bản, thấy rõ sứ
mệnh vẻ vang của mình. Và chỉ từ khi đó, giai cấp công nhân mới ý thức được rằng,
nó cần phải tự tổ chức ra chính Đảng độc lập của mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh
của giai cấp đi đến thắng lợi hoàn toàn. Từ khi có chủ nghĩa xã hội khoa học soi
sáng, có chính Đảng cách mạng lãnh đạo, giai cấp công nhân mới chuyển thành giai
cấp tự giác, đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giải phóng nhân loại khỏi ách áp bức
và bóc lột, mới từ giai cấp tự mình trở thành giai cấp vì mình như Ăngghen đã nói.
Kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng Lao Động Việt Nam, Hồ Chí Minh đã
tổng kết: “Chủ nghĩa Mác-Lênin kết hợp với phong trào công nhân và phong trào yêu
nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vào đầu năm 1930”
3

.
3
Hồ Chí Minh , Về xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội 1981, Trang 126.
10
Quá trình kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học và phong trào công nhân là
một quá trình đấu tranh cách mạng, gay go, quyết liệt chống các trào lưu tư tưởng tư
sản, cơ hội, vô chính phủ. Việc kết hợp đó phải được thể hiện một cách khoa học thì
Đảng mới ra đời được. Có thể nói, chính Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân ngay
từ khi ra đời đã mang bản chất cách mạng và khoa học. Những bản chất này được
củng cố và phát triển đồng thời với quá trình xây dựng Đảng, cũng tức là quá trình
tiếp tục thực hiện sự kết hợp giữa chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công
nhân để Đảng ngày càng phát triển, vững mạnh.
2. Những tư tưởng cơ bản của Mác và Ăngghen về chính Đảng cách mạng
của giai cấp công nhân.
Mác và Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên những tư tưởng cơ bản
về chính Đảng Cộng sản. Những tư tưởng đó bắt nguồn từ luận điểm khoa học về vai
trò lịch sử thế giới của giai cấp công nhân với tư cách là người đào huyệt chôn chủ
nghĩa tư bản, sáng tạo ra xã hội mới không còn người bóc lột người: xã hội cộng sản,
mà giai đoạn thấp của nó là chủ nghĩa xã hội. Những tư tưởng đó còn được rút ra từ
sự phân tích một cách biện chứng những điều kiện lịch sử cụ thể của quá trình phát
triển của xã hội loài người nói chung và giai cấp công nhân nói riêng.
Mác và Ăngghen thảo ra “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” và sáng lập nên tổ
chức cộng sản đầu tiên trên thế giới mang tên “Đồng minh những người cộng sản”.
Hai ông cũng tổ chức và lãnh đạo Quốc tế I, quốc tế đầu tiên của giai cấp công nhân.
Sau khi Mác mất, Ăngghen đã tiếp tục sự nghiệp của Mác sáng lập và lãnh đạo Quốc
tế II.
Hai ông đã chỉ rõ rằng, giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên
tiến nhất trong xã hội. Nhưng giai cấp công nhân chỉ có thể thực nhiện được sứ mệnh
lịch sử của mình khi nó tự tổ chức ra được chính Đảng độc lập của nó. Ăngghen viết:
“Để cho giai cấp công nhân có đủ sức mạnh và có thể chiến thắng trong giờ phút

quyết định thì điều cần thiết là Mác và tôi đã bảo vệ quan điểm này từ 1847: Phải tổ
chức được một Đảng riêng biệt, tách khỏi tất cả các Đảng khác và đối lập với các
Đảng đó, nhận thức rõ mình là Đảng của giai cấp”
4
.
Khi chứng minh tính tất yếu của việc cần phải thành lập chính Đảng của giai
cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã chỉ ra rằng: đó là điều kiện tiên quyết để bảo
đảm cho cách mạng xã hội thu được thắng lợi và thực hiện được mục đích cuối cùng
của nó là tiêu diệt giai cấp.
4
Các Mác - Ăngghen, toàn tập, tập 4, nhà xuất bản Chính trị, Matxcova 1978, trang 35 (Tiếng Nga).
11
II. LÊNIN KẾ THỪA NHỮNG DI SẢN CỦA MÁC VÀ ĂNGGHEN
SÁNG TẠO HỌC THUYẾT VỀ CHÍNH ĐẢNG KIỂU MỚI CỦA GIAI CẤP
CÔNG NHÂN
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là thời kỳ đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng của phong trào công nhân quốc tế. Lúc này chủ nghĩa tư bản đã bước vào giai
đoạn cao - giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp tư sản đã trở thành lực lượng phản
động, cản trở sự phát triển của xã hội. Tính phản động của nó đã bao trùm lên nhiều
lĩnh vực của xã hội tư bản. Dựa vào những kết luận trong Bộ Tư Bản của Mác, Lênin
đã phân tích một cách sâu sắc chủ nghĩa tư bản trong giai đoạn mới và chỉ ra rằng,
chủ nghĩa đế quốc là đêm trước của cách mạng xã hội chủ nghĩa, rằng trên thực tế đã
có những điều kiện khách quan để lật đổ chế độ tư bản.
Đồng thời trong quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân
cũng đã lớn mạnh không ngừng về số lượng và chất lượng, về chính trị và tổ chức, ý
thức giác ngộ được nâng cao. Những cuộc đấu tranh mạnh mẽ ở nhiều nước châu Âu
đã chứng minh rằng, giai cấp công nhân hoàn toàn có khả năng đoàn kết xung quanh
mình những người bị áp bức và bóc lột để lật đổ chế độ tư bản và xây dựng xã hội
mới. Cách mạng vô sản đã trở thành một vấn đề thực tiễn trước mắt. Lênin đưa ra
khẩu hiệu như một lời hiệu triệu: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn

kết lại!”.
Những điều kiện lịch sử mới đòi hỏi giai cấp công nhân phải có đường lối
chiến lược, sách lược mới; đòi hỏi Đảng của nó phải là một đội tiên phong chính trị
có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh mới. Trong khi đó, các lãnh tụ của Quốc tế II đã
xét lại chủ nghĩa Mác, biến các Đảng Dân chủ Xã hội thành các Đảng cải lương, thực
hiện một chính sách đầu hàng giai cấp tư sản. Lênin đã đấu tranh không khoan
nhượng đối với quan điểm cơ hội, xét lại của họ và phát triển sáng tạo những luận
điểm của Mác và Ăngghen về xây dựng Đảng, xây dựng nên học thuyết về Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân.
Dựa trên những quan điểm của Lênin, Đảng Bônsêvich Nga đã ra đời năm
1903, và năm 1919 Quốc tế III - Quốc tế Cộng sản - được thành lập theo sáng kiến
của Lênin. Quốc tế III đã đóng một vai trò to lớn đối với sự ra đời của hàng loạt các
Đảng Cộng sản trên thế giới.
Dưới đây là hệ thống những nguyên tắc cơ bản của Lênin về Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân. Hệ thống những nguyên tắc cơ bản ấy có thể khái quát thành
8 điểm sau:
1. Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho mọi
hoạt động của Đảng.
12
Chủ nghĩa Mác-Lênin là một hệ thống lý luận khoa học về cuộc cách mạng
của giai cấp công nhân nhằm tự giải phóng mình, là kết quả của sự phát triển một
cách khoa học những tư tưởng tiên tiến của xã hội loài người, thể hiện đúng đắn lợi
ích cơ bản của giai cấp công nhân, đã chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ những
phương hướng chính trị của tất cả các mặt hoạt động cần thiết trong cuộc đấu tranh
để thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Lênin đã chứng minh rằng, không có
lý luận cách mạng sẽ không có phong trào cách mạng, và khi lý luận cách mạng đã
thâm nhập vào quần chúng nhân dân thì nó sẽ trở thành sức mạnh vật chất to lớn.
Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở khoa học của công tác xây dựng Đảng, là ngọn
cờ đoàn kết những người cộng sản và là cơ sở để vạch ra cương lĩnh hành động,
chiến lược và sách lược của cách mạng.

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo có ý
nghĩa phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng
Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta,
những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần
kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta
đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”
5
. Điều lệ
Đảng Cộng sản Việt Nam viết: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động, tiếp thu tinh hoa trí
tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất
nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, Đường lối cách mạng đúng đắn và phù hợp với
yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân”
6
.
Đó là nguồn gốc của những thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên,
Đảng cũng nhận thấy còn lạc hậu về lý luận, thể hiện trên cả hai mặt nhận thức và
vận dụng các quy luật của chủ nghĩa xã hội như giáo điều, duy ý chí, giản đơn, nóng
vội. Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình và nhấn mạnh rằng, đổi mới tư duy là yêu cầu
bức thiết của cuộc sống.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VII đã chỉ ra rằng, cần phải “tổ chức tốt công tác nghiên cứu lý
luận và tổng kết thực tiễn, nâng cao trình độ và năng lực vận dụng chủ nghĩa Mác-
Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta, góp phần xây dựng chủ trương, chính sách
của Đảng, lý giải những vấn đề mới mà cuộc sống đặt ra. Đổi mới căn bản công tác
giáo dục chính trị, lý luận”
7
.
5
Hồ Chí Minh , Tuyển tập, Tập 1, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1980, Trang 176 - 177.

6
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Sự THật, Hà Nội, 1991, trang 4.
7
Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 95.
13
2. Đảng Cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ
chức chặt chẽ nhất, giác ngộ nhất của giai cấp công nhân.
Đảng là một bộ phận của giai cấp công nhân, nhưng phải phân biệt Đảng với
toàn bộ giai cấp. Theo Lênin, Đảng là đội tiên phong chính trị và là đội ngũ có tổ
chức chặt chẽ, có giác ngộ nhất của giai cấp công nhân, Đảng là người đưa yếu tố tự
giác nhất vào phong trào công nhân, là người định hướng chính trị và là người giáo
dục, động viên, tổ chức cho quần chúng hành động cách mạng. Lênin chỉ ra rằng:
“Không được lẫn lộn Đảng, tức là đội tiên phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ
giai cấp”
8

Vai trò tiên phong của Đảng được thể hiện trước hết trên lĩnh vực lý luận.
Lênin đã chỉ rõ: “Chỉ Đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò người chiến sỹ tiền phong”
9
.
Đòi hỏi đầu tiên về tư cách người Đảng viên phải là giác ngộ lý tưởng cộng
sản chủ nghĩa, có trình độ nhất định về chủ nghĩa Mác-Lênin, nắm vững được đường
lối chính sách của Đảng. Theo Lênin: “trong điều kiện có chính quyền, Đảng phải là
trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại chúng ta”
10
.
Vai trò tiên phong của Đảng còn được thể hiện về mặt tổ chức và sự hoạt động
gương mẫu của người Đảng viên trong thực tiễn. Đảng phải được tổ chức chăt chẽ để
bảo đảm là một đội ngũ thống nhất ý chí và hành động, có kỷ luật nghiêm minh. Chủ

tịch Hồ Chí Minh nói: “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một
người”
11
.
Đảng là của giai cấp, nhưng không phải là toàn bộ giai cấp. Không được lẫn
lộn giữa Đảng và giai cấp. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ của mình những người giác
ngộ nhất, có ý thức tổ chức và kỷ luật cao nhất trong giai cấp công nhân và nhân dân
lao động.
3. Khi có chính quyền, Đảng là lực lượng lãnh đạo hệ thống chính trị của
chủ nghĩa xã hội và là một bộ phận của hệ thống đó.
Đảng là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, do đó,
trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và
năng lực xứng đáng là người lãnh đạo. Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng
công nhân, là giáo dục đội tiên phong của giai cấp vô sản, đội tiên phong này đủ sức
nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, đủ sức lãnh đạo và tổ
chức một chế độ mới, đủ sức làm thầy, làm người dẫn đường, làm lãnh tụ của tất cả
8
V.I. Lêni n, Toàn tập, Tập 8, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1979, Trang 289.
9
Sdd, tập 6, 1978,32.
10
Sđ, tập 34, 1976, trang 122
11
Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Tập 1, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1980, Trang 445.
14
những người lao động và những người bị bóc lột để giúp họ tổ chức đời sống xã hội
của họ, mà không cần đến giai cấp tư sản và chống lại giai cấp tư sản”
12
. Lênin nhấn
mạnh, về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn

phải nghi ngờ gì nữa.
Trở thành Đảng cầm quyền, Đảng có quyền lãnh đạo, định hướng sự phát triển
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên
quyết đảm bảo cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội thành công.
Buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng là sai lầm về nguyên tắc, là thủ tiêu sức
mạnh của Nhà nước và của cả hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã hội, là mở đường
cho những phần tử phản động trở lại con đường tư bản chủ nghĩa. Hiện nay, chủ
nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại đang ra sức thổi phồng cái gọi là “đa nguyên”, “đa
Đảng”, lợi dụng “con đường dân chủ” nhằm tiếm đoạt quyền lãnh đạo của các Đảng
Cộng sản. Những sự kiện ở Đông Âu và Liên Xô trong thời gian qua đã chứng minh
điều đó.
Đảng lãnh đạo về chính trị trên mọi mặt hoạt động của Nhà nước và các tổ
chức quần chúng bằng đường lối và các chính sách của Đảng. Thông qua các tổ chức
Đảng cùng với đội ngũ cán bộ, Đảng viên hoạt động trong các cơ quan Nhà nước và
trong các tổ chức quần chúng, mà mọi định hướng chính trị, đường lối, chủ trương
của Đảng được cụ thể hóa thành những chính sách, những quy định pháp lý. Đảng ý
thức rõ rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, sự lãnh đạo của Đảng luôn luôn gắn liền
với việc phát huy hiệu lực quản lý của Nhà nước và vai trò của các tổ chức quần
chúng. Đảng phê phán thói chuyên quyền, độc đoán, bao biện, làm thay công việc
của Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị xã hội. Đồng thời, Đảng
cũng lên án sự buông lỏng, xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng.
4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức sinh
hoạt và hoạt động của Đảng.
Đảng là một liên minh tự nguyện của những người cùng chung lý tưởng và lợi
ích cơ bản của những đại biểu ưu tú nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động. Thực hiện dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí tuệ và mọi khả năng sáng tạo
của những chiến sỹ tiên phong trong Đảng. Đó là điều kiện cơ bản đảm bảo cho
Đảng có trí tuệ cao nhất để làm tròn được vai trò người lãnh đạo toàn xã hội. Đảng
còn là một tổ chức chiến đấu. Dân chủ trong Đảng phải có sự chỉ đạo của tập trung
để đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng.

Tập trung là quyền lực của tập thể giao cho những người lãnh đạo để thực
hiện ý chí của đa số. Tập trung dân chủ hoàn toàn đối lập với chuyên quyền độc
12
V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 33, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1976, Trang 33.
15
đoán, vô chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng được thực hiện, vận
dụng phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của cuộc đấu tranh giai cấp, với điều kiện
hoạt động và vị trí của Đảng trong đời sống xã hội. Thiếu sự chỉ đạo tập trung, dân
chủ có thể trở thành vô chính phủ. Coi nhẹ dân chủ là phá hoại tính tập thể lãnh đạo
và sẽ dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, chuyên quyền, độc đoán. Buông lỏng tập
trung sẽ rơi vào tình trạng vô chính phủ, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, phá hoại sự
thống nhất và làm giảm sức chiến đấu của Đảng.
Trong điều kiện Đảng nắm chính quyền, nguyên tắc tập trung dân chủ của
Đảng phải được thực hiện trong bộ máy Nhà nước nhằm bảo đảm xây dựng được
một cơ chế quản lý tập trung và phân cấp hợp lý giữa trung ương và địa phương, cấp
trên và cấp dưới; bảo đảm xây dựng được chế độ trách nhiệm của mỗi cấp, mỗi tổ
chức và mỗi cá nhân, giữ vững được nguyên tắc tập thể lãnh đạo đi đôi với phân
công trách nhiệm cá nhân phụ trách rõ ràng.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc chỉ đạo trong xây dựng tổ chức và hoạt động
của Đảng. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc này được phản ánh sâu sắc trong
Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Nguyên tắc tập trung dân chủ kết hợp hữu cơ giữa
tập trung và dân chủ; tập trung phải trên cơ sở dân chủ và dân chủ phải dưới sự chỉ
đạo của tập trung.
Đảng ta kiên quyết phản đối việc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ. Sự
phủ nhận đó không tránh khỏi tạo nên sự lỏng lẻo về kỷ luật, rạn nứt về tổ chức trong
Đảng. Đảng coi tập trung dân chủ “là nguyên tắc tổ chức cơ bản, phân biệt chính
Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng cách mạng chân chính, với các Đảng
khác. Phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận Đảng Cộng sản từ bản chất”
13
. Kinh

nghiệm lịch sử phong trào công nhân trên thế giới trước đây, ở Liên Xô và Đông Âu
vừa qua đều cho thấy những kẻ phản bội Đảng đều phá Đảng bắt đầu từ việc tìm mọi
cách phủ nhận nguyên tắc này.
5. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Tự phê
bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng.
Đoàn kết thống nhất là quy luật trưởng thành của Đảng. Sự đoàn kết thống
nhất trong Đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp vô sản, từ sự kết cấu chặt chẽ của
Đảng. Đảng chỉ thu nhận vào đội ngũ của mình những đại biểu ưu tú của giai cấp vô
sản tự nguyện xin gia nhập Đảng. Đó là những người có cùng lý tưởng, mục đích và
lợi ích.
Trong nhiều tác phẩm của mình, Lênin đã lý giải một cách toàn diện, sâu sắc
tính tất yếu và tầm quan trọng đặc biệt của sự thống nhất trong đội ngũ Đảng. Theo
13
Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 130.
16
Lênin, muốn đưa cách mạng đến thắng lợi, Đảng “phải có một sự thống nhất ý chí
hết sức chặt chẽ, tuyệt đối”
14
. Đồng thời Người chỉ rõ, đó là nguồn gốc sức mạnh chủ
yếu, vô địch và vô tận của Đảng, là điều kiện để đoàn kết giai cấp. Người coi mục
tiêu của công tác xây dựng và củng cố Đảng là nhằm xây dựng và củng cố sự thống
nhất đội ngũ Đảng.
Trong điều kiện có chính quyền, Lênin đặc biệt quan tâm đến sự thống nhất
của Đảng. Thực tế ở nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã chứng tỏ sự thống nhất đội ngũ
Đảng là nguồn gốc của mọi thắng lợi, là nhân tố để đoàn kết toàn dân, quyết định sự
vững mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa và nền tảng chính trị, xã hội của nó.
Lênin còn chỉ rõ, khi đã có chính quyền, nếu để xảy ra chia rẽ thì không chỉ là nguy
hiểm mà còn là cực kỳ nguy hiểm nếu Đảng đó lại nắm chính quyền ở một nước mà
giai cấp công nhân chiếm một tỷ lệ nhỏ bé trong dân cư
15

.
Để đảm bảo sự thống nhất trong Đảng luôn luôn được củng cố và phát triển,
Đảng cần phải thường xuyên và nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình.
Lênin chỉ ra rằng: “Thái độ của một chính Đảng trước những sai lầm của mình là một
trong những tiêu chuẩn quan trọng nhất và chắc chắn nhất để xem xét Đảng ấy có
nghiêm túc không và có thực sự làm tròn nghĩa vụ của mình đối với giai cấp mình và
đối với quần chúng lao động không. Công khai thừa nhận sai lầm, tìm ra nguyên
nhân sai lầm, phân tích hoàn cảnh đã đẻ ra sai lầm, nghiên cứu cẩn thận những biện
pháp để sửa chữa sai lầm ấy, đó là dấu hiệu chứng tỏ một Đảng nghiêm túc, đó là
Đảng làm tròn những nghĩa vụ của mình, đó là giáo dục và huấn luyện giai cấp, rồi
đến quần chúng”
16
.
Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và
giải quyết những mâu thuẫn trong Đảng. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính
Đảng, tính nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng, nâng cao được mối quan hệ chặt chẽ giữa Đảng và quần chúng. Tự phê bình
và phê bình là một nội dung thường xuyên của sinh hoạt Đảng.
Đảng ta đã trải qua nhiều thời kỳ đấu tranh cách mạng và trong bất kỳ một
thời kỳ nào, Đảng cũng luôn luôn coi trọng xây dựng khối đoàn kết thống nhất của
Đảng. Hồ Chí Minh dạy: “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”
17
.
Đảng ta rất coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng và
thường xuyên, nghiêm chỉnh thực hiện tự phê bình và phê bình. Trong điều kiện có
chính quyền, Đảng đặc biệt chăm lo xây dựng khối đoàn kết thống nhất và coi đó là
14
V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 36, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1978, Trang 245.
15
Xem sách đã dẫn, Tập 42, Trang 336.

16
V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 41, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxcova, 1978, Trang 51.
17
Hồ Chí Minh, Về xây dựng Đảng, Nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1981, Trang 183.
17
cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của Đảng trong điều kiện mới. Đảng kiên
quyết ngăn chặn và phê phán nghiêm khắc những hiện tượng như: đàn áp, trù dập
người phê bình, chủ nghĩa thành tích, che dấu khuyết điểm, coi tự phê bình và phê
bình là dịp để đả kích lẫn nhau, đi đến chia rẽ, bè phái trong Đảng.
6. Đảng gắn bó chặt chẽ với quần chúng, kiên quyết đấu tranh để ngăn
ngừa và khắc phục bệnh quan liêu, xa rời quần chúng.
Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Đảng là một tổ chức tự nguyện, đấu
tranh vì sự nghiệp giải phóng quần chúng khỏi ách áp bức bóc lột. Quần chúng cần
có Đảng với tư cách là người lãnh đạo họ trong cuộc đấu tranh ấy. Nếu không có sự
đồng tình và ủng hộ của quần chúng thì mọi chủ trương, đường lối của Đảng không
trở thành hiện thực.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản là một sự nghiệp hoàn toàn
mới mẻ và vô cùng khó khăn. Sự nghiệp đó chỉ có thể thành công nếu Đảng tổ chức
và phát huy được tính sáng tạo, cách mạng của quần chúng. Lênin chỉ ra rằng, những
người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân dân mênh mông và
chỉ riêng với bàn tay những người cộng sản thì không thể xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Tính sáng tạo linh động của quần chúng, đó là nhân tố cơ bản của xã
hội mới. Chủ nghĩa xã hội không phải là kết quả của những sắc lệnh từ trên ban
xuống. Tính chất máy móc, hành chính và quan liêu không dung hợp được với tinh
thần của chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản
thân quần chúng nhân dân.
Khi Đảng Bônsevich Nga đã có chính quyền, Lênin thường nhấn mạnh rằng,
sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ mối liên hệ mật thiết với quần chúng, từ sự đồng
tình và ủng hộ của quần chúng đối với Đảng. Thiếu điều kiện đó không những không
thể xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, mà còn có thể dẫn đến mất chính quyền.

Kinh nghiệm ở một số nước Đông Âu và Liên Xô vừa qua đã chứng minh luận điểm
đó.
Khi đã có chính quyền, Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới rất thuận
lợi cho việc tăng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng; đồng thời trong Đảng
cũng dễ nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh làm cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên
thiếu rèn luyện có thể rơi vào tình trạng thoái hóa, biến chất, xa rời quần chúng.
Lênin coi đó là một trong những nguy cơ mà Đảng cầm quyền cần chú ý đề phòng,
khắc phục.
Từ thực tiễn của cách mạng Việt Nam, Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VII
của Đảng ta đã khẳng định: “Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng đặc biệt
coi trọng đổi mới công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm: cách mạng là sự
18
nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó
mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, làm suy yếu sức mạnh
của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận
mệnh của đát nước”
18
.
7. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động vào Đảng, phải thường xuyên đưa những người
không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp. Đảng chỉ có thể làm tròn vai trò ấy nếu
trong Đảng chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên phong. Tích cực kết nạp những đại biểu
ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao động vào Đảng là biện pháp quan trọng
để cải thiện thành phần, chất lượng của Đảng là điều kiện vô cùng trọng yếu để nâng
cao uy tín và giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng.
Ở mỗi thời kỳ của cách mạng, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đều không
tránh khỏi có một số người không còn giữ được vai trò tiên phong. Có người do trình
độ nhận thức, năng lực hoạt động thực tiễn, có người do không kiên định về chính trị,
thiếu ý thức tổ chức kỷ luật, thoái hóa, biến chất trở thành những kẻ quan liêu, tham

nhũng, ức hiếp quần chúng Đặc biệt là trong điều kiện Đảng có chính quyền không
tránh khỏi có những phần tử cơ hội tìm mọi cách luồn lọt chui vào Đảng với mưu đồ
đặc quyền, đặc lợi, phá hoại sự thống nhất đội ngũ Đảng, làm niềm tin của quần
chúng đối với Đảng bị giảm sút. Từ thực tiễn của Đảng Cộng sản (B) Nga sau những
năm có chính quyền, trước khi qua đời, Lênin đã nhấn mạnh rằng: “Phải đuổi ra khỏi
Đảng những kẻ gian giảo, những Đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung
thực, nhu nhược ”
19
.
Để đội ngũ của Đảng luôn luôn trong sạch, chỉ bao gồm những chiến sỹ tiên
phong được quần chúng tin yêu thì Đảng phải thường xuyên đưa những người không
đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi Đảng. Đó là một biện pháp đặc biệt
quan trọng nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã ý thức rõ điều đó nên từ ngày thành lập đến nay,
nhất là từ khi có chính quyền, Đảng đã thực hiện nhiều hình thức khác nhau nhằm
chỉnh đốn đội ngũ Đảng. Tình hình một số Đảng ở Liên Xô và Đông Âu vừa qua cho
phép chúng ta có thể rút ra kết luận rằng: Khi đội ngũ của Đảng có nhiều Đảng viên
không còn giữ được vai trò tiên phong và có nhiều phần tử cơ hội thì khi gặp những
biến cố của lịch sử, Đảng khó có thể giữ vững được vai trò lãnh đạo của mình. Chất
18
Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng, nhà xuất bản Sự Thật, Hà Nội, 1991, Trang 20.
19
V.I. Lênin, Toàn tập, Tập 44, Nhà xuất bản Tiến Bộ, Matxova, 1978, Trang 154.
19
lượng chứ không phải số lượng đội ngũ Đảng viên là yếu tố cơ bản quyết định sức
mạnh của Đảng.
8. Tính quốc tế của Đảng.
Chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của Đảng cộng sản. Bản
chất đó bắt nguồn từ vai trò, sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.
Tính chất quốc tế của Đảng thể hiện trước hết ở chỗ Đảng được tổ chức và hoạt động

theo những nguyên lý của học thuyết Mác-Lênin về Đảng, ở đường lối chiến lược,
sách lược đối nội và đối ngoại của Đảng, ở chỗ Đảng luôn luôn quan tâm giáo dục
đội ngũ Đảng viên và nhân dân lao động chủ nghĩa quốc tế vô sản. Trong thời đại
ngày nay, chủ nghĩa yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản
trong sáng. Đảng kiên quyết chống mọi khuynh hướng vô vanh nước lớn hoặc chủ
nghĩa dân tộc hẹp hòi.
III. Ý NGHĨA THỰC TIỄN CỦA HỌC THUYẾT MÁC-LÊNIN VỀ
CHÍNH ĐẢNG CÁCH MẠNG CỦA GIAI CẤP CÔNG NHÂN
Học thuyết Mác-Lênin về chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân,
cũng như toàn bộ chủ nghĩa Mác-Lênin với thuộc tính cách mạng và khoa học của nó
đòi hỏi các chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân phải xuất phát từ điều kiện
cụ thể của dân tộc, giai cấp, thực tiễn chính trị và xã hội của đất nước mình mà vận
dụng sáng tạo. Kinh nghiệm của lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã
chứng minh rằng, học thuyết Mác-Lênin về Đảng cộng sản đến nay vẫn có giá trị to
lớn.
Kinh nghiệm ở một số nước Đông Âu và Liên Xô vừa qua cũng đã chứng
minh quan điểm đúng đắn của Đảng ta rằng: mọi thành công hay thất bại của cách
mạng vô sản đều bắt nguồn từ sự lãnh đạo của Đảng; bất cứ nơi nào và lúc nào,
Đảng nào vận dụng một cách giáo điều, xơ cứng, duy ý chí, vi phạm nguyên tắc về
Đảng của giai cấp công nhân thì nhất định trước sau Đảng đó sẽ phạm sai lầm, đội
ngũ Đảng chia rẽ, mất uy tín trước quần chúng, có thể đưa cách mạng đến thất bại
nặng nề.
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã
trải qua nhiều thử thách, trở thành một Đảng Mác-Lênin kiên cường, trưởng thành về
chính trị, vững vàng trước những biến cố vô cùng khó khăn của lịch sử ở trong nước
và trên thế giới. Đó là thành công của học thuyết Mác-Lênin về Đảng được vận dụng
sáng tạo và việc xây dựng một chính Đảng cách mạng của giai cấp công nhân trong
một nước có nền kinh tế chậm phát triển, vốn là xã hội thuộc địa, nửa phong kiến.
20
Hiện nay, trên thế giới, bọn cơ hội, xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi

cách xuyên tạc nhằm phủ nhận giá trị của học thuyết Mác-Lênin về Đảng, thì việc
nghiên cứu thực chất các nguyên lý của học thuyết Mác-Lênin càng có ý nghĩa to
lớn, giúp chúng ta những cơ sở lý luận để quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối,
chính sách xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, xứng đáng là đội tiên phong cách
mạng, người lãnh đạo chính trị duy nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
BÀI 3: QUAN NIỆM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN
VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN.
Khái niệm Đảng cầm quyền chỉ rõ đặc điểm vị trí vai trò của Đảng Cộng Sản
trong giai đoạn cách mạng mà mà giai cấp công nhân đã giành được chính quyền,
thiết lập hệ thống chính trị mới và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam,
do điều kiện lịch sử cụ thể, giai cấp công nhân đã giành được chính quyền từ tháng
Tám năm 1945, Đảng ta đã trở thành Đảng cầm quyền từ đó, nhưng đến năm 1954
Đảng mới lãnh đạo cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Lý luận về Đảng cầm quyền là vấn đề còn mới và khó, mặc dù chủ nghĩa xã
hội ra đời đã trên bảy mươi năm. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và ở
Liên Xô đã chứng minh rất rõ lý luận và thực tiễn của Đảng cầm quyền, đặt ra hàng
loạt vấn đề mới cần nghiên cứu và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Trong những vấn đề
đó, trước hết cần làm rõ đặc điểm, vị trí, vai trò, chức năng của Đảng.
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN CẦM QUYỀN
Đảng cộng sản cầm quyền có nhiều đặc điểm chi phối mọi hoạt động lãnh đạo
và sinh hoạt nội bộ Đảng. Trong đó có 3 đặc điểm đáng lưu ý sau đây:
Một là, nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi căn bản.
Từ chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặt căn bản của
cách mạng, là một bước phát triển mới về chất trong sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân. Trước kia, nhiệm vụ là lật đổ chế độ cũ, bây gờ là xây dựng xã hội mới
bao hàm cả nhiệm vụ bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được. Theo cách nói
của Lênin: Khi đã có chính quyền thì chủ nghĩa xã hội từ lĩnh vực lý luận chuyển
sang lĩnh vực thực tiễn; nhiệm vụ quản lý đã trở thành nhiệm vụ chủ yếu và trung

tâm, toàn bộ đặc điểm của tình thế hiện thời, tất cả sự khó khăn là ở chỗ phải hiểu
rõ những đặc điểm của bước từ nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân và dùng
lực lượng quân sự trấn áp bọn bóc lột sang nhiệm vụ chủ yếu là quản lý.
21
Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng chịu trách nhiệm trước lịch sử về vận mệnh
phát triển của dân tộc, về sự phát triển toàn diện của xã hội, về sự phồn vinh của đất
nước, về tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Nếu trước đây, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng ta là nhiệm vụ quân sự thì hiện nay là xây dựng, phát triển kinh tế. Tổ chức
quản lý là một khoa học và là một nghệ thuật. Giai cấp tư sản phải trải qua mấy trăm
năm mới đạt được trình độ quản lý hiện nay. Lênin đã chỉ rõ rằng: “Sự xuất hiện của
một giai cấp mới trên vũ đài lịch sử với tư cách là người lãnh tụ và là người lãnh đạo
xã hội, không bao giờ diễn ra mà không có một thời kì “tròng trành” hết sức dữ dội,
một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; mặt klhác, không bao
giờ diễn ra mà không có một thời kỳ mò mẫm, thí nghiệm, do dự, ngã nghiêng trong
việc lựa chọn những phương pháp mới đáp ứng đúng với tình thế khách quan mới”
20
Sự nghiệp xây dựng một xã hội mới - xã hội chủ nghĩa - trên lý luận cũng như
trong thực tiễn rõ ràng là khó khăn, gian khổ. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
diễn ra ở một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, kinh tế bị chiến tranh tàn phá
nặng nề, lại đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa nên lại càng khó khăn, phức tạp.
Hai là, có nhà nước xã hội chủ nghĩa
Dành được chính quyền là một thắng lợi có ý nghĩa quyết định trong toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của Đảng. Nhà nước xã hội chủ nghĩa là công cụ chủ yếu mới
rất sắc bén, thông qua nó Đảng thực hiện sự lãnh đạo của mình đối với xã hội. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa do bản chất của nó là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Trong hệ thống chính trị của xã hội chủ nghĩa, nhà nước giữ vị trí trung tâm và có vai
trò cực kì quan trọng. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện tập trung của nhà nước, được
thực hiện chủ yếu thông qua nhà nước. Nhà nước cũng là tổ chức thể hiện tập trung
nhất quyền lực của nhân dân, là tổ chức sắc bén thể hiện và thực hiện ý chí và lợi ích

của nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân, nhân danh nhân dân để quản lý xã
hội.
Có chính quyền rồi, trừ những vấn đề thuần tuý về nội bộ, về tất cả đường lối,
chủ trương, chính sách lớn của Đảng đều phải được thể chế hoá thành chủ trương,
chính sách và pháp luật của nhà nước. Uy tín và quyền lãnh đạo của Đảng trước hết
được thực hiện thông qua hoạt động của nhà nước. Nhà nước mạnh, hoạt động có
hiệu lực là điều kiện đầu tiên để Đảng thực hiện vai trò của mình đối với xã hội. Sức
mạnh của Đảng cầm quyền không chỉ là sức mạnh của bản thân mình mà phải là sức
mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, trong đó nòng cốt là nhà nước do Đảng lãnh
đạo.
20
Sđđ, t.36 tr.235
22
Mọi ý nghĩ và việc làm đem đối lập vai trò lãnh đạo của Đảng với phát huy
vai trò, hiệu lực của nhà nước đều sai lầm và có hại. Nâng cao vai trò lãnh đạo của
Đảng phải gắn liền với việc phát huy vai trò, hiệu lực của nhà nước. Coi nhẹ, hạ thấp
vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là sai lầm về nguyên tắc. Đảng bao biện
công việc của nhà nước làm suy yếu vai trò của nhà nước và hạ thấp vai trò lãnh đạo
của Đảng. Cả hai khuynh hướng đó đều nguy hại đến vận mệnh của chủ nghĩa xã hội.
Có chính quyền là thuận lợi cơ bản, nhưng mặt khác khi có chính quyền thì
trong Đảng và trong bộ máy nhà nước cũng dễ nảy sinh những tiêu cực mới. Có
chính quyền thì cán bộ, đảng viên được bố trí vào các cương vị, chức vụ trong bộ
máy nhà nước. Đó là việc làm cần thiết để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng.
Nhưng khi có chức, có quyền thì một bộ phận cán bộ, đảng viên dễ lợi dụng và lạm
dụng chức quyền để làm điều sai trái: quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, hách dịch,
tham nhũng, hối lộ, thoái hóa, biến chất, ức hiếp nhân dân, vi phạm nghiêm trọng
quyền dân chủ của nhân dân, làm cho nhân dân oán ghét, uy tín của Đảng bị giảm
sút. Hiện tượng này không gắn với bản chất của Đảng, của nhà nước, nhưng nếu
không có biện pháp ngăn chặn, nếu kỉ luật của Đảng, pháp luật của nhà nước thiếu
nghiêm minh, không kịp thời khắc phục thì sẽ gây ra hậu quả khó lường.

Xuất phát từ đặc điểm trên, qua thực trạng đội ngũ cán bộ, đảng viên của
Đảng ta, Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII) đã chỉ rõ một trong
bốn thử thách, nguy cơ mà Đảng ta cần khắc phục trong quá trình đổi mới và chỉnh
đốn Đảng là bệnh tham nhũng.
Ba là, phương pháp lãnh đạo của Đảng thay đổi.
Có chính quyền, nhiệm vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo công cuộc xây
dựng, trước hết trên lĩnh vực kinh tế. Có chính quyền rồi, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn
tiếp tục nhưng bằng những hình thức, phương pháp và biện pháp khác.
Lênin đã chỉ ra rằng: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết
những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những
phương pháp của ngày hôm qua”.
Khi nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn được đặt ra, Lênin đã
cảnh cáo những người cộng sản rằng: ai muốn dùng phương pháp cũ trong cuộc đấu
tranh giành chính quyền để giải quyết những nhiệm vụ tổ chức thì người đó sẽ phá
sản hoàn toàn với tính cách là nhà chính trị, là người xã hội chủ nghĩa.
Có chính quyền, giai cấp công nhân phải biết loại trừ khỏi “cẩm nang” của
mình những phương pháp, hình thức không còn phù hợp. Có phương pháp, hình thức
trước đây là phù hợp, nhưng nay phải loại bỏ. Có phương pháp, hình thức trước đây
23
có tính chất phổ biến đến nay không còn phổ biến nữa như phương pháp tuyên truyền
vận động cá biệt từng người, từng nhà, nay vẫn cần nhưng phải sử dụng rộng rãi hệ
thông thông tin đại chúng; sử dụng cả hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội để
tuyên truyền, giáo dục, vận động, tổ chức quần chúng hành động cách mạng có hiệu
quả trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trước hết là lĩnh vực kinh tế. Đồng thời,
nhiệm vụ xây dựng đòi hỏi phải sáng tạo nhiều phương pháp, hình thức mới ngày
càng phong phú. Đó là những phương pháp, hình thức kết hợp giáo dục chính trị, tư
tưởng với kích thích lợi ích vật chất, kết hợp hài hòa với lợi ích cá nhân, lợi ích tập
thể và lợi ích toàn xã hội; kết hợp giáo dục với hành chính và cưỡng bức; kết hợp
chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức và công tác kinh tế.
Đảng cầm quyền cần đặc biệt chú trọng đến phương pháp lãnh đạo thông qua

nhà nước, phát huy vai trò, hiệu lực của nhà nước trong việc thể chế hóa đường lối
chính sách của đảng bằng các hình thức, biện pháp quản lý của nhà nước.
I. VỊ TRÍ, VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CẦM QUYỀN
Trong lịch sử, giai cấp cầm quyền cũng tổ chức ra hệ thống chính trị để thông
qua đó thực hiện mục tiêu chính trị của giai cấp mình. Hệ thống chính trị của chủ
nghĩa xã hội là hệ thống công cụ mới do giai cấp công nhân cầm quyền - thông qua
đội tiên phong chính trị là Đảng Cộng Sản - để thực hiện sự lãnh đạo chính trị đối với
toàn xã hội. Sự ra đời của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trước hết là của nhà
nước, không hề làm giảm vị trí của Đảng Cộng Sản - đội tiên phong chính trị của giai
cấp công nhân - đồng thời là lực lượng lãnh đạo toàn xã hội. Vị trí của Đảng Cộng
sản không phải là do ý muốn chủ quan, do sự áp đặt của những người cộng sản mà do
đòi hỏi khách quan của sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, giai cấp trung tâm
của thời đại.
Thực tế, cải tổ, cải cách, đổi mới có ở nhiều nước trên thế giới đã xuất hiện
khuynh hướng cho rằng, cứ để quá trình phát triển lịch sử tự nhiên quyết định số
phận của nhân loại đi lên chủ nghĩa xã hội hay chủ nghĩa tư bản, không cần có Đảng
Cộng sản lãnh đạo cũng đi lên chủ nghĩa xã hội được. Rõ ràng là khuynh hướng này
đã quay lưng lại với lịch sử. Khi mỗi chính đảng ra đời thì nó đều là lãnh tụ của một
giai cấp nhất định.
Trong thời đại ngày nay, tương ứng với các hệ tư tưởng có các chính đảng cơ
bản, chính đảng của giai cấp công nhân và chính đảng của giai cấp tư sản. Hai chính
đảng đối kháng về hệ tư tưởng này đều là lãnh tụ chính trị của giai cấp mình. Chỉ
khác là đảng của giai cấp công nhân thực hiện mục tiêu chính trị của nền chuyên
chính vô sản (tồn tại dưới nhiều hình thức), đảng của giai cấp tư sản nhằm thực hiện
mục tiêu chính trị của nền chuyên chính tư sản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa, do bản
24
chất giai cấp của nó, tất yếu phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo của
Đảng Cộng sản trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội là đòi hỏi của sự nghiệp sáng
tạo xã hội mới, của cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản
trên phạm vị toàn cầu.

Nhưng khi nhấn mạnh vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa, cần chú ý rằng, đây là vị trí của đội tiên phong chính trị chứ
không phải là của một tổ chức quyền lực đứng trên mọi tổ chức của xã hội. Trong
điều kiện Đảng cầm quyền, vị trí này càng đặc biệt quan trọng, vì khi đã có chính
quyền thì Đảng vừa là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân đồng thời đã
trở thành người lãnh đạo toàn xã hội, nghĩa là không chỉ đại diện cho lợi ích của giai
cấp công nhân mà còn đại biểu cho lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân
tộc. Đó là sự thay đổi cơ bản về vị trí của Đảng Cộng sản. Thay đổi đó chỉ rõ trách
nhiệm của Đảng không hề giảm đi, mà trái lại càng tăng lên và nặng nề hơn nhiều.
Đảng không chỉ chịu trách nhiệm trước giai cấp mà còn chịu trách nhiệm hoàn toàn
trước vận mệnh phát triển của dân tộc.
Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam từ trước đến nay và
từ nay về sau là một tất yếu lịch sử. Đảng ta là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-
Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đã thể hiện cả tính tất yếu
kinh tế, cả tính tất yếu chính trị ngay từ khi ra đời. Nhìn chung, trong hơn sáu mươi
năm qua, cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng về cơ bản phản ánh được ý chí,
nguyện vọng và những lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của
cả dân tộc, đã không ngừng đưa cách mạng Việt Nam đi lên theo phương hướng gắn
liền độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn đó của cách mạng Việt Nam đã gắn bó Đảng ta với nhân dân bằng
cả chiều dài và chiều sâu lịch sử, không có lực lượng chính trị nào thay thế được.
Nhân dân ta tự giác thừa nhận sự lãnh đạo của Đảng ta rõ ràng không phải là do áp
đặt, mà xét đến cùng là do tính tất yếu khách quan của cách mạng nước ta.
Khẳng định vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng ta đối với cách mạng Việt
Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là vấn đề quy luật, là vấn đề có tính
nguyên tắc. Qua thực tiễn của cải tổ, cải cách, đổi mới, bài học kinh nghiệm quan
trọng đầu tiên Đảng ta rút ra được là bài học về vai trò lãnh đạo của Đảng. Mọi loại
kẻ thù chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội trên thế giới và trong nước đều lợi dụng
những sai lầm trong cải tổ, cải cách, đổi mới của một số Đảng Cộng sản để tập trung
mũi nhọn đả kích, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Ở một số nước xã hội chủ

nghĩa trước đây, Đảng Cộng sản, trước hết là những người lãnh đạo dao động, hữu
khuynh, xét lại đi đến phạm sai lầm về quan điểm, về chủ trương trên vấn đề cải tổ,
25

×