Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Ngộ độc thủy ngân ở trẻ em pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.26 KB, 7 trang )

Ngộ độc thủy ngân
ở trẻ em

Nuốt phải thủy ngân
(Hg) là tai nạn có thể
xảy ra ở trẻ em nhỏ và
là vấn đề mà các bậc
phụ huynh khắp nơi
thường quan tâm, lo
lắng.

Theo thống kê của Trung tâm Kiểm soát độc chất
Hoa Kỳ, có hơn 21.000 cuộc gọi hỏi về ngộ độc Hg
năm 2001, trong đó hơn 80% trường hợp hỏi về ngộ
độc khi trẻ nuốt phải Hg từ nhiệt kế bị vỡ.


Tại BV. Nhi Đồng I TP.HCM, những trường hợp tai
nạn nuốt Hg vẫn là một nguyên nhân nhập viện ở trẻ
em, vì biến chứng do xử trí tại nhà không đúng. Bài
viết này nhằm cung cấp cho các bậc phụ huynh một
số hiểu biết về ngộ độc Hg ở trẻ em và các biện pháp
phòng ngừa.

Trẻ nhỏ dễ nuốt phải Hg

Cháu N.H.L., 2 tuổi, nhà ở quận 5 (TP.HCM) được
mẹ đưa đến bệnh viện vì nuốt phải Hg. Mẹ cháu rất lo
lắng cho biết, bà để nhiệt kế trên giường sau khi đo
nhiệt độ cho em của L Cháu đang nằm chơi cạnh
đó, thấy nên cầm lấy chơi rồi cho vào miệng. Người


nhà phát hiện khi nhìn thấy cháu nhợn ói, trên tay còn
cầm chiếc nhiệt kế không còn Hg. Thân nhân cố gắng
móc họng để gây ói đã làm cháu ho sặc sụa nhiều,
thấy cháu tím tái nên người nhà đưa cháu đến bệnh
viện. Chụp phim Xquang kiểm tra phổi, có tình trạng
viêm phổi nhưng rất may cháu không bị hít Hg. Sau 7
ngày điều trị và theo dõi, cháu được xuất viện và tiếp
tục tái khám sau đó.

Có nhiều dạng Hg

Hg hiện diện rất nhiều trong thức ăn, thuốc và môi
trường sống con người, được sử dụng chủ yếu trong
sản xuất các hóa chất, trong kỹ thuật điện và điện tử.
Hg tạo ra sự ô nhiễm đáng kể đối với môi trường, vì
nó tạo ra các hợp chất hữu cơ trong các cơ thể sinh
vật. Đây là một kim loại, dạng nguyên tố ở thể lỏng,
màu óng ánh như bạc, không tan trong nước và có
thể bốc hơi tương đối dễ ở nhiệt độ phòng. Khi đặt
giọt Hg ở trên mặt bàn, nó có dạng giống hạt ngọc
trai và rất dễ tan thành hạt nhỏ li ti và bay hơi. Có 3
dạng Hg tồn tại dưới dạng nguyên tố hay kết hợp với
chất khác:

Hg nguyên tố: có trong nhiệt kế, máy đo huyết áp, các
thiết bị điện, bóng đèn, pin, sơn.

Hg vô cơ: dạng đôi hoặc đơn hóa trị, được sử dụng
điều chế thuốc sát trùng, làm thuốc lợi tiểu, tẩy giun.


Hg hữu cơ: gồm hợp chất chuỗi alkyl ngắn có nhiều
trong môi trường bị ô nhiễm, đáng lưu ý là trong thức
ăn hải sản vùng bị ô nhiễm và chuỗi alkyl dài dùng
trong nông nghiệp để làm thuốc diệt nấm. Trong
Đông y, Hg gọi là chu sa được dùng làm thuốc an
thần.

Tổn thương não không hồi phục

Hg là chất độc có khả năng tích lũy sinh học dễ dàng
hấp thụ qua da, các cơ quan hô hấp và tiêu hóa. Các
dạng hóa học của Hg khác nhau về cả đặc điểm sinh
học, dược động học và độc tính. Hg vô cơ ít độc hơn
so với hợp chất Hg hữu cơ.

Hg nguyên tố gây độc cho người sau khi hít vào. Trẻ
em nuốt phải Hg do vỡ nhiệt kế thường không gây
độc vì nó hấp thu rất ít ở đường tiêu hóa. Tuy nhiên,
trường hợp trẻ bị tắc ruột hay viêm ruột thì lượng Hg
được hấp thu qua đường uống có thể cao hơn. Hg
nguyên tố hít vào sẽ hấp thu nhanh qua đường hô
hấp gây tổn thương, qua màng phế nang vào máu
đến thận, gan lách và hệ thần kinh trung ương. Nồng
độ đỉnh đạt sau vài ngày. Một lượng nhỏ Hg nguyên
tố thấm qua hàng rào mạch máu não và qua nhau
thai dễ dàng. Thời gian bán hủy kéo dài đến 60 ngày,
sau đó được thải qua phân và nước tiểu. Hg nguyên
tố cũng có thể chuyển đổi dạng thành Hg hữu cơ gây
độc khi ăn phải. Ngộ độc mãn do hít Hg nguyên tố
trong thời gian dài. Qua hàng rào máu não, Hg tích tụ

lại ở trong não và vỏ não. Tại đây, Hg sẽ oxy hóa
thành dạng ion, kết hợp với gốc sulfydryl và protein
của tế bào, cản trở các enzyme và chức năng vận
chuyển tế bào.

Hg vô cơ là chất ăn mòn nên có đặc điểm gây tác
dụng phỏng trực tiếp trên niêm mạc. Tỉ lệ hấp thu qua
ống tiêu hóa chỉ là 10% lượng nuốt vào, Hg tích lũy ở
thận gây tổn thương thận. Mặc dù kém tan trong chất
béo nhưng nếu tiếp xúc trong thời gian dài, Hg cũng
được tích lũy dần dần trong não, vùng tiểu não và vỏ
não gây tổn thương hệ thần kinh trung ương. Liều
gây chết người của Hg vô cơ là 1 – 4g ở người lớn.

Hg hữu cơ hấp thu tốt qua hít, nuốt và cả qua da.
Hấp thu ở ống tiêu hóa với tỉ lệ 90%, ít hơn đối với
chuỗi dài. Độc tính của Hg hữu cơ thường xảy ra với
các chuỗi alkyl ngắn, đặc biệt methyl Hg. Nuốt 10 –
60mg/kg đủ gây tử vong, và nuốt lượng ít trong một
thời gian dài, chỉ cần lượng 10µg/ kg đủ tác hại lên hệ
thần kinh và khả năng sinh sản của người lớn. Do có
khả năng tan trong mỡ nên Hg hữu cơ nhanh chóng
vào màu phân bố khắp cơ thể, tích tụ trong não, thận,
gan, tóc và da.

Tác dụng độc rõ ràng đầu tiên và nguy hiểm nhất
là ở não.

Hg kết hợp và bất hoạt gây thoái hóa tế bào thần kinh
ở vỏ não va tiểu não, dẫn đến triệu chứng liệt, thất

điều, điếc, thu hẹp thị trường. Chất này qua nhau dễ
dàng và tập trung trong thai gây độc tính nặng cho
bào thai. Thời gian bán hủy của Hg ở người lớn là 40
– 50 ngày, đào thải chủ yếu qua phân (90%) và nước
tiểu. Như vậy trên cơ thể người, Hg không chỉ có độc
tính cao mà còn tồn tại dai dẳng gây tác hại kéo dài.
Được giải thích nhờ vào các đặc tính sinh học của Hg
là (1) khả năng kết hợp chặt chẽ, loại thải chậm và
không hoàn toàn. (2) có tính tập trung, tích lũy cao và
(3) khuyếch đại tác dụng sinh học khi vào cơ thể
người. Riêng đối với trẻ em, đặc biệt thai nhi và trẻ
em nhỏ rất nhạy cảm với tác dụng độc của Hg. Khi so
sánh với người lớn thì thấy mức độ nhạy cảm này
nhiều hơn 10 – 15 lần, do vậy mà ngộ độc Hg ở trẻ
em thường để lại hậu quả tổn thương não nặng hơn
và không hồi phục.

×