Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ ĐÁNH VÀO HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (637.4 KB, 22 trang )

PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ
ĐÁNH VÀO HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU
I. Thuế xuất nhập khẩu
1. Khái niệm:
Thuế xuất nhập khẩu hay thuế quan (custom duty) là một biện pháp tài chính mà
các nước dùng để can thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thực chất đây là một loại thuế
gián thu đánh vào hàng hoá được phép xuất khẩu hoặc nhập khẩu qua biên giới.
II. 2. Phân loại thuế quan:
2.1 - Theo phương thức tính thuế, có các kiểu thuế quan như sau:
• Thuế quan theo đơn giá hàng (ad valorem tariff): Là một tỷ lệ phần trăm nào đó
của mặt hàng, chẳng hạn 10% trên giá CIF của hàng nhập khẩu, được gọi là thuế
suất thuế nhập khẩu. Đôi khi ở đây cũng có vấn đề do giá cả trên thị trường quốc
tế của hàng hóa giảm xuống thì thuế nhập khẩu cũng giảm theo và các ngành sản
xuất trong nước trở thành dễ bị thương tổn hơn trong cạnh tranh. Ngược lại, khi
giá hàng hóa tăng lên trên thị trường quốc tế thì thuế nhập khẩu cũng tăng lên,
nhưng khi đó thì sản xuất nội địa của mặt hàng đó thông thường cũng ít quan tâm
đến việc bảo hộ khi giá cả là cao hơn. Bên cạnh đó, ở đây còn có vấn đề chuyển
dịch giá khi mà các tổ chức nhập khẩu khai báo giá/giá trị của mặt hàng mà họ
đang kinh doanh thấp hơn nhiều so với giá thị trường, nhằm mục đích giảm nghĩa
vụ thuế tổng thể.
• Thuế quan theo trọng lượng (specific tariff): Được tính theo trọng lượng của mặt
hàng, chẳng hạn $5 trên 1 tấn. Kiểu tính thuế nhập khẩu này có thể là khó khăn
hơn trong việc quyết định số lượng tiền thuế phải nộp, do nó cần sự cập nhật
thường xuyên vì các thay đổi trên thị trường hay vì lạm phát.
Hiện nay, hải quan thực hiện tính thuế nhập khẩu theo đơn giá hàng là chủ yếu.
2.2 - Theo mục đích đánh thuế:
• Thuế quan tăng thu ngân sách: Là một tập hợp các mức thuế suất được đưa ra
mà mục đích chính là làm tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, còn mục đích
bảo hộ cho sản xuất trong nước chỉ là thứ yếu. Chẳng hạn thuế quan mà một quốc
gia không trồng cũng như không chế biến cà phê đánh vào cà phê nhập khẩu có
mục đích chủ yếu là tăng thu cho ngân sách.


• Thuế quan bảo hộ: Được đưa ra với mục đích làm tăng giá một cách nhân tạo đối
với hàng hóa nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh
từ nước ngoài. Ví dụ: một thuế suất 20% trên giá trị máy móc nhập khẩu với giá
nhập khẩu của chiếc máy là 2.000.000 VNĐ sẽ cho giá trị của nó sau thuế là
2.400.000 VNĐ. Giả sử không có khoản thuế nào khác nữa thì các nhà nhập khẩu
phải bán chiếc máy này ít nhất phải ở mức giá trên 2.400.000 VNĐ để đảm bảo có
lãi. Khi không có thuế nhập khẩu thì các nhà sản xuất trong nước nếu muốn bán
được mặt hàng tương tự chỉ có thể tính giá ở mức khoảng 2.000.000 VNĐ cộng
với một lợi nhuận hợp lý; nhưng do nhà nước đã áp thuế nhập khẩu đối với máy
móc nhập khẩu nên họ hiện nay có thể tính giá ở mức cao hơn, có thể ở ngưỡng
như giá bán ra của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế) và như vậy họ sẽ có khả
năng thu được nhiều lợi nhuận hơn cũng như ổn định hơn về mặt tài chính.
• Thuế quan cấm đoán: Là thuế quan đưa ra với thuế suất rất cao, gần như không
còn nhà nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa.
• Thuế quan đàm phán thương mại: loại thuế quan này thường được ấn định trên
giới hạn cần thiết để bảo hộ nền sản xuât trong nước, đồng thời là phương tiện
dùng để đạt được những kết quả nhất định trong đàm phán với những bên tham
gia.
2.3 - Thuế quan theo xu hướng vận động của hàng hoá
• Thuế xuất khẩu: là loại thuế đánh vào những mặt hàng mà Nhà nước muốn hạn
chế xuất khẩu. Nhằm bình ổn giá một số mặt hàng trong nước, hoặc có thể nhằm
bảo vệ nguồn cung trong nước của một số mặt hàng, hoặc có thể nhằm hạn chế
xuất khẩu để giảm xung đột thương mại với nước khác, hoặc có thể nhằm nâng giá
mặt hàng nào đó trên thị trường quốc tế (đối với nước chiếm tỷ trọng chi phối
trong sản xuất mặt hàng đó) việc hạn chế xuất khẩu có thể được Nhà nước cân
nhắc. Trong các biện pháp hạn chế xuất khẩu, thuế xuất khẩu là biện pháp tương
đối dễ áp dụng. Ngoài ra, Nhà nước cũng có thể sử dụng thuế xuất khẩu như một
biện pháp để phân phối lại thu nhập, tăng thu ngân sách. Ví dụ về thuế xuất khẩu
là thuế đánh vào phân bón xuất khẩu của Trung Quốc nhằm đảm bảo cân
đối cung - cầu về phân bón trong nước, thuế đánh vào một số nguyên liệu thô

của Việt Nam nhằm đảm bảo nguồn cung nguyên liệu cho sản xuất nội địa. Xu
hướng chung trên thế giới hiện nay là để thuế xuất thuế xuất khẩu thấp để hỗ trợ
cho việc xuất khẩu hàng hoá. Đối với các nước đang phát triển, nhằm khuyến
khích việc xuất khẩu sản phẩm hoàn thành, các nước thường quy định mức thuế
xuất khá cao đối với nguyên, nhiên vật liệu xuất khẩu.
• Thuế nhập khẩu: đánh vào hàng hoá nhập khẩu. ở mức độ khác nhau, các nước
đều sử dụng loại thuế quan này vào mục đích: Chống lại các hành vi phá
giá bằng cách tăng giá hàng nhập khẩu của mặt hàng phá giá lên tới mức giá
chung của thị trường. Trả đũa trước các hành vi dựng hàng rào thuế quan do
quốc gia khác đánh thuế đối với hàng hóa xuất khẩu của mình, nhất là trong
các cuộc chiến tranh thương mại. Bảo hộ cho các lĩnh vực sản xuất then
chốt, chẳng hạn nông nghiệp giống như các chính sách về thuế quan của Liên
minh châu Âu đã thực hiện trong Chính sách nông nghiệp chung của
họ. Bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ cho đến khi chúng đủ vững mạnh để
có thể cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường quốc tế. Không khuyến khích nhập
khẩu các mặt hàng có thể bị coi là xa xỉ phẩm hay đi ngược lại các truyền
thống văn hóa dân tộc. Giảm nhập khẩu bằng cách làm cho chúng trở nên đắt
hơn so với các mặt hàng thay thế có trong nước và điều này làm giảm thâm hụt
trong cán cân thương mại.
2.4. Thuế quan theo phạm vi tác dụng:
• Thuế quan tự quản: là loại thuế quan thể hiện tính độc lập trong việc đánh thuế
của một quốc gia, không phụ thuộc vào các Hiệp định song phương hay đa
phương đã ký kết. Loại thuế quan này được chia thành thuế quan tối đa có thuế
suất cao nhất và loại thuế quan tối thiểu có thuế suất thấp nhất.
• Thuế quan hiệp định: loại thuế quan này có thuế suất ấn định thoe những điều
khoản đã cam kết trong Hiệp định song phương hoặc đa phương.
III. 3. Vai trò của thuế xuất - nhập khẩu.
- Thuế xuất nhập khẩu là một trong những biện pháp tài chính mà các nước dùng để can
thiệp vào hoạt động ngoại thương. Thuế xuất nhập khẩu thực chất là một khoản thu bắt
buộc điều tiết vào giá của hàng hoá, dịch vụ được trao đổi buôn bán giữa các quốc gia mà

chủ sở hữu chúng phải nộp thuế cho nhà nước.
- Thuế chính là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước.
- Thuế nhập khẩu bảo hộ sản xuất trong nước, đảm bảo các cam kết với chính phủ nước
ngoài, là công cụ để nhà nước thực hiện các chiến lược lớn liên quan tới thương mại quốc
tế.
4.Đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp thuế:
Tất cả hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam đều
là đối tượng chịu thuế xuất khẩu hoặc thuế nhập khẩu ngoại trừ các trường hợp sau:
1/ Hàng quá cảnh và mượn đường qua lãnh thổ Việt Nam.
2/ Hàng kinh doanh theo phương thức chuyển khẩu.
3/ Hàng hóa từ nước ngoài nhập khẩu vào khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo
thuế, kho ngoại quan; Hàng hóa từ khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế,
kho ngoại quan xuất khẩu ra nước ngoài; Hàng hóa đưa từ khu chế xuất, doanh nghiệp
chế xuất, kho bảo thuế, kho ngoại quan này sang khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất,
kho bảo thuế, kho ngoại quan khác trong lãnh thổ Việt Nam; Hàng hoá xuất nhập khẩu ra
vào các khu vực được phép miễn thuế theo quy định của Chính phủ.
4/ Hàng viện trợ nhân đạo.
5. Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
5.1- Số lượng từng mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hàng hoá xuất khẩu,
nhập khẩu.
Theo quy định tại điều 8 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 ngày 14
tháng 06 năm 2005 của Quốc Hội khóa 11 thì Căn cứ tính thuế, phương pháp tính thuế
và đồng tiền nộp thuế được xác định như sau:
1. Căn cứ tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế
xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan, giá tính thuế, thuế suất theo tỷ lệ phần
trăm (%); đối với mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì căn cứ tính thuế là số lượng đơn vị
từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan và mức thuế tuyệt
đối quy định trên một đơn vị hàng hóa.
2. Phương pháp tính thuế được quy định như sau:
a) Số thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng

thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi trong tờ khai hải quan nhân với giá tính thuế và thuế
suất của từng mặt hàng ghi trong Biểu thuế tại thời điểm tính thuế;
b) Trong trường hợp mặt hàng áp dụng thuế tuyệt đối thì số thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu phải nộp bằng số lượng đơn vị từng mặt hàng thực tế xuất khẩu, nhập khẩu ghi
trong tờ khai hải quan nhân với mức thuế tuyệt đối quy định trên một đơn vị hàng hoá tại
thời điểm tính thuế.
3. Đồng tiền nộp thuế là đồng Việt Nam ; trong trường hợp được phép nộp thuế bằng
ngoại tệ thì phải nộp bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi.
5.2- Giá tính thuế:
5.2.1/ Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá:
Đối với hàng hoá xuất khẩu: là giá bán cho khách hàng tại cửa khẩu xuất (giá FOB),
không bao gồm phí bảo hiểm (I) và chi phí vận tải (F). Căn cứ để xác định giá bán cho
khách hàng là hợp đồng mua bán hàng hoá với đầy đủ nội dung chủ yếu của một bản hợp
đồng theo quy định tại Luật Thương mại phù hợp với các chứng từ hợp pháp, hợp lệ có
liên quan đến việc mua bán hàng hoá;
Đối với hàng hoá nhập khẩu:
Hàng hoá nhập khẩu theo hợp đồng mua bán hàng hoá thuộc đối tượng áp dụng của
Thông tư số 118/2003/TT/BTC ngày 8/12/2003 của Bộ Tài chính hướng dẫn Nghị định
số 60/2002/NĐ-CP ngày 6/6/2002 của Chính phủ quy định về việc xác định trị giá tính
thuế đối với hàng hoá nhập khẩu theo nguyên tắc của Hiệp định thực hiện Điều 7 Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại thì giá tính thuế được xác định theo hướng dẫn
tại Thông tư số 118/2003/TT/BTC nêu trên.
Giá tính thuế là giá thực tế phải thanh toán cho người bán.
5.2.2/ Đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu không theo hợp đồng mua bán hàng
hoá hoặc hợp đồng không phù hợp theo quy định tại Luật Thương mại thì giá tính thuế
xuất khẩu, nhập khẩu do Cục Hải quan địa phương qui định.
5.3- Thuế suất của mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu.
Thuế suất thuế xuất khẩu được quy định cụ thể cho từng mặt hàng tại Biểu thuế thuế xuất
khẩu.
6. Thời điểm tính thuế:

Thời điểm tính thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu là ngày đối tượng nộp thuế đăng ký Tờ
khai hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu với cơ quan Hải quan theo qui định của Luật Hải
quan. Trường hợp đối tượng nộp thuế khai báo điện tử thì thời điểm tính thuế là ngày cơ
quan Hải quan cấp số Tờ khai tự động từ hệ thống.
Quá 15 ngày kể từ ngày đăng ký Tờ khai nhưng chưa có hàng hoá thực xuất khẩu, thực
nhập khẩu thì Tờ khai đã đăng ký không có giá trị. Khi có hàng hoá thực tế xuất khẩu,
nhập khẩu phải làm lại thủ tục kê khai và đăng ký Tờ khai hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
7. Thời hạn nộp thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
1/ Đối với hàng hoá xuất khẩu là 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo thuế của cơ
quan Hải quan về số thuế phải nộp.
2/ Đối với hàng hoá là vật tư, nguyên liệu nhập khẩu để trực tiếp sản xuất hàng hoá xuất
khẩu là 9 tháng (được tính tròn là 275 ngày) kể từ ngày nhận được thông báo thuế của cơ
quan Hải quan về số thuế phải nộp.
3/ Trường hợp hàng hoá kinh doanh theo phương thức tạm xuất - tái nhập hoặc tạm nhập
- tái xuất thì thời hạn nộp thuế là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn của cơ quan có thẩm
quyền cho phép tạm xuất - tái nhập hoặc tạm nhập - tái xuất (áp dụng cho cả trường hợp
được phép gia hạn) theo quy định của Bộ Thương mại.
4/ Đối với hàng hoá tiêu dùng phải nộp xong thuế trước khi nhận hàng hoá
5/ Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phi mậu dịch; hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu
của cư dân biên giới thì đối tượng nộp thuế phải nộp xong thuế trước khi xuất khẩu hàng
hoá ra nước ngoài hoặc nhập khẩu hàng hoá vào Việt Nam.
6/ Đối với hàng hóa không thuộc diện thực hiện nộp thuế theo qui định tại điểm 2, 3, 4 và
5 nêu trên, thì thời hạn nộp thuế là 30 ngày kể từ ngày đối tượng nộp thuế nhận được
thông báo thuế của cơ quan Hải quan về số thuế phải nộp.
7/ Hàng hóa có thời hạn nộp thuế khác nhau thì phải mở Tờ khai hàng hóa riêng theo
từng thời hạn nộp thuế.
8/ Trường hợp hàng hoá còn trong sự giám sát của cơ quan Hải quan, nhưng bị cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền tạm giữ để điều tra, chờ xử lý thì thời hạn nộp thuế đối với từng
loại hàng hoá thực hiện theo quy định của Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và tính từ
ngày cơ quan Nhà nước có thẩm quyền có văn bản cho phép giải toả hàng hoá đã tạm

giữ.
IV. PHÂN TÍCH CHÍNH SÁCH THUẾ
1. Tác động của chính sách thuế hàng xuất khẩu mặt hàng than đá.
Khi chưa có xuất khẩu giá than trong nước rẻ hơn giá than thế giới. Sau khi được
phép xuất khẩu giá trong nước sẽ tăng lên bằng giá thế giới. Không người bán nào chấp
nhận giá bán thấp hơn giá thế giới. Và không người mua nào trả giá cao hơn giá thế giới.
Với giá trong nước bằng giá thế giới. Lượng cung trong nước khác với lượng cầu
trong nước. Đường cung chỉ ra lượng cung than mà người bán ở VN sẵn sàng cung ứng.
Đường cầu chỉ ra lượng cầu than của người mua ở VN. Vì lượng cung trong nước lớn
hơn lượng cầu trong nước nên VN bán than sang các nước khác. Mặt dù lượng cung và
lượng cầu trong nước khác nhau. Nhưng thị trường than vẫn cân bằng vì giờ đây còn có
những người tham gia thị trường khác là phần còn lại của thế giới. Người ta có thể xem
đường nằm ngang tại mức giá thế giới là đường biểu thị về đường cầu than của phần còn
lại của thế giới.
Lúc này các nhà sản xuất than trong nước được lợi vì bán được giá cao hơn. Còn
người tiêu dùng phải trả một mức giá cao bằng giá thế giới.
Lúc này khi nhà nước đánh thuế xuất khẩu giá của người mua phải trả bằng giá
thế giới trừ đi thuế ( P
w-t
). Và người bán cũng chỉ bán được tại giá P
w-t
. Nhờ thuế của
chính phủ sẽ làm cho tăng thặng dư của người tiêu dùng, giảm thặng dư người sản xuất,
bản thân chính phủ thu được một lượng thuế. Mặc dù có tổn thất xã hội, chính phủ vẫn
thực hiện để bảo vệ người tiêu dùng trong nước và đảm bảo tăng thu ngân sách.
Tác động của thuế nhập khẩu lên cầu than đá
Việt Nam là một trong những quốc gia có trữ lượng than lớn, than cũng là nguồn
năng lượng chủ yếu của đất nước. Hiện tại than đang chiếm khoảng 70% tỉ trọng tiêu thụ
nguồn năng lượng không thể tái tạo và hữu hạn của nước ta và trong tương lai than vẫn là
một trong những ngành sản xuất trụ cột của nền công nghiệp Việt Nam. Than đóng vai

trò chính trong sản xuất ra điện (than đá và than non), các sản phẩm thép và kim loại
(than cốc). Ngành than đóng vai trò là ngành kinh tế trọng điểm cung cấp nhiên liệu hoạt
động cho hầu hết các ngành khác, đặc biệt là điện, thép và kim loại,phân bón, giấy, xi-
măng và các loại chất đốt hóa lỏng – những ngành sử dụng nhiều than nhất trong sản
xuất, do đó nguồn cầu về than trên thị trường hiện đang rất lớn.
Theo Vinacomin, dự kiến số lượng than nhập khẩu từ nay đến năm 2012 vào
khoảng 10 triệu tấn mỗi năm. Đến năm 2020, Tập đoàn sẽ nhập về khoảng 100 triệu tấn
mỗi năm. Các chủng loại than mà các ngành công nghiệp ở Việt Nam đang có nhu cầu,
nhất là ngành thép và xi măng cũng sẽ được nhập về để phục vụ nhu cầu trong nước. Nhu
cầu dùng điện của hai ngành này cũng đã tăng thêm tới 27,5% so với năm 2009. Trong
đó, sản xuất thép tiêu thụ 4,67 tỉ KWh, chiếm tỉ lệ 5,52%; sản xuất xi măng tiêu thụ 5,52
tỉ KWh, chiếm 6,5% sản lượng điện cả nước. Việc sản xuất thép còn tiêu thụ một lượng
than cốc (loại than có giá trị kinh tế cao) rất lớn. Năm 2010, giá điện bình quân bán cho
hai ngành này chỉ 909 đồng/KWh, thấp hơn 50 đồng so với giá bình quân chung là 1.060
đồng/KWh và còn… thấp hơn cả giá thành khiến ngành điện thiệt hại tới hàng trăm tỉ
đồng. Do tiềm năng thủy điện đã khai thác gần hết, nguồn khí đốt thiên nhiên có thể khai
thác không nhiều, nên vấn đề phát triển nguồn điện trong những năm tới sẽ phụ thuộc
phần lớn vào các nhà máy nhiệt điện chạy bằng than. Do vậy, cần hạn chế, hoặc ngưng
xuất khẩu than để Việt Nam bớt phụ thuộc nguồn năng lượng nhập khẩu trong tương lai.
Do than là khoáng sản không thể phục hồi được, do đó việc khai thác phụ thuộc
vào trữ lưỡng của đất nước. Từ năm 2006 Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cảnh báo nếu không
có biện pháp hạn chế thì nguồn tài nguyên quan trọng này sẽ sớm bị cạn kiệt, ảnh hưởng
xấu đến việc bảo đảm an ninh năng lượng cho nền kinh tế. Mặc dù có sự cảnh bảo của bộ
KH và ĐT Theo thông tư số 25/2009/TT-BTC Bộ Tài chính, thuế xuất khẩu các mặt hàng
than như than đá, than bùn nhiên liệu rắn tương tự được sản xuất từ than đá…được giảm
thuế xuất từ 20% xuống còn 10%.
Sau một thời gian trì hoãn, Bộ Tài chính quyết định tăng thuế xuất khẩu các sản
phẩm than lên 20%, thay cho mức 15%, trước nguy cơ thiếu than phục vụ nhu cầu trong
nước. Theo quyết định của Bộ Tài chính, từ ngày 11/9/2011, các loại than đá, than bánh,
than quả bàng, nhiên liệu rắn tương tự sản xuất từ than đá, than cốc, than luyện đều

phải chịu thuế xuất khẩu 20%.
2. Tác động của chính sách thuế hàng nhập khẩu mặt hàng xe hơi .
Với mặt hàng là xe hơi nhập khẩu được người tiêu dùng trong nước ưa chuộng.
Nếu với chính sách nhập khẩu tự do : Khi đó lượng cung trong nước thấp hơn lượng
cầu trong nước. Mức chênh lệch giữa lượng cung và lượng cầu trong nước được đáp ứng
bằng cách mua hàng từ các nước khác. Khi đó người tiêu dùng trong nước được lợi vì
học có thể được mua với giá thấp hơn. Còn người sản xuất trong nước bị thiệt.
Lúc này để bảo hàng trong nước thì chính phủ đánh thuế nhập khẩu làm tăng giá xe nhập
khẩu lên mức cao hơn giá thế giới một lượng bằng thuế nhập khẩu. Các nhà cung cấp xe
hơi trong nước có thể bán xe của mình bằng giá thế giới cộng với thuế nhập khẩu. Sẽ
khuyến khích sản xuất trong nước, ngăn chặn cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài. Còn
người mua trong nước bị thiệt. Ngoài ra chính phủ trong nước tạo được nguồn thu. Như
vậy thuế nhập khẩu làm giảm lượng nhập khẩu và chuyển thị trường trong nước gần tới
mức cân bằng khi không có thương mại quốc tế.
Tác động của thuế nhập khẩu lên cầu xe hơi:
Với dân số gần 100 triệu dân năm 2011, nhu cầu của người dân VN về xe ô tô
ngày càng tăng cao. Tại thị trường Việt Nam các thương hiệu như Hyundai, Kia, Toyota,
Honda, Ford, chiếm gần 80% tổng lượng xe tiêu thụ. Các DN Việt Nam có chăng chỉ
giành được quyền nhập khẩu và phân phối những mẫu xe ít tên tuổi như xe Trung Quốc
hay có số lượng tiêu thụ không nhiều như Land Rover, Citroen, Chrysler
Nắm giấy uỷ quyền nhập khẩu và phân phối xe chính hãng tại Việt Nam hiện chia
thành 2 nhóm. Một là các liên doanh lắp ráp và sản xuất ô tô như Toyota Việt Nam,
Mercedes-Benz Việt Nam - các doanh nghiệp thuộc Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt
Nam (VAMA). Hai là các đại lý có giấy phép nhập khẩu chính hãng như Euro Auto phân
phối xe BMW, World Auto phân phối xe Volkswagen, VinaMazda phân phối xe
Mazda… Mặc dù kinh tế năm 2011 gặp nhiều khó khăn do lạm phát cao gây ra, người
tiêu dùng phải thắt chặt chi tiêu, nhưng tiêu thụ xe nhập khẩu hạng sang vẫn có sự tăng
trưởng mạnh mẽ. Mặc dù thuế nhập khẩu ô tô ở VN hiện nay vẫn đang ở mức rất cao
khoảng 80%( năm 2011). Xe nhập khẩu được ưa chuộng hơn vì nó sang trọng, tích hợp
nhiều công nghệ hiện đại hơn xe trong nước lắp ráp.

Công ty Euro Auto, nhà phân phối chính thức xe BMW tại Việt Nam - cho biết,
năm 2011 mức tăng trưởng tiêu thụ xe BMW đạt 35% so với cùng kỳ 2010. Công ty cổ
phần Liên Á Quốc tế, nhà phân phối chính hãng của Audi tại Việt Nam, cũng cho biết,
tính đến hết tháng 7 năm 2011, Audi đã bán được bằng tổng doanh số xe bán ra trong
năm 2010 và đạt được sự tăng trưởng 169% so với cùng kỳ năm ngoái. World Auto, nhà
phân phối chính thức thương hiệu Volkswagen tại Việt Nam cũng đạt mức tăng trưởng
khá ấn tượng. Trong 8 tháng đầu năm 2011, số lượng xe Volkswagen bán ra tăng 159%
so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo dự báo của Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp (Bộ Công
Thương), giai đoạn 2015-2020 nhu cầu ôtô cả nước sẽ tăng lên tới mức 300.000 xe/năm,
trong đó xe từ 9 chỗ trở xuống sẽ chiếm tới 60%. Bên cạnh đó, thuế suất thuế nhập khẩu
ôtô nguyên chiếc ngày càng giảm theo lộ trình gia nhập AFTA và WTO. Đến 2018 thuế
nhập khẩu ô tô nguyên chiếc từ khu vực ASEAN chỉ còn 0%.
Tác động của thuế nhập khẩu lên tình hình tiêu thụ ô tô:
Năm 2001, thuế nhập khẩu ô tô nguyên chiếc chưa qua sử dụng vẫn là 100%.
Thuế linh kiện bộ CKD, IKD luôn ở mức thấp 3-25%
Tháng 11/2005, thuế đối với mặt hàng này giảm từ 100% xuống 90%
Ngày 11/1/2007 - thời điểm gia nhập WTO, thuế ôtô mới nguyên chiếc giảm từ
90% xuống còn 80%
Tháng 8/8/2007, thuế ôtô mới nguyên chiếc giảm xuống còn 70%
Ngày 19/10/2007, thuế của mặt hàng này còn 60%.
Do được giảm thuế nên năm 2007, lượng xe ô tô nhập khẩu về tăng ở mức kỷ lục,
đạt 28.000 chiếc, gấp hơn hai lần so với năm 2006, kim ngạch nhập khẩu lên tới 523 triệu
USD. Năm 2008, lượng xe nhập khẩu về tiếp tục tăng, 2 tháng đầu năm lượng xe cập
cảng Việt Nam đạt khoảng 10.000 chiếc, bằng doanh số 8 tháng đầu năm 2007. Số liệu từ
tổng cục thống kê cho thấy, xe nhập khẩu nguyên chiếc đã xấp xỉ 80% lượng lắp ráp xe
trong nước, tương đương với 44% thị phần, trong khi đó, vào thời điểm tháng 8/2007, thị
phần xe nhập hằng tháng chiếm không quá 25%. Trước tình hình đó, các thành viên
VAMA( hiệp hội xe ô tô VN) cho rằng giảm thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc không hề
tác động đến giá thành xe lắp ráp trong nước( giá ô tô sản xuất trong nước có giảm nhưng

không như kỳ vọng). Muốn xe nội giảm giá thì thuế nhập khẩu linh kiện phải giảm, đồng
thời quy mô thị trường phải lớn.
Như vậy, việc giảm thuế nhập khẩu ô tô năm 2007 đã không những đóng góp lớn
về thuế cho ngân sách mà còn góp phần làm đa dạng hóa các chủng loại sản phẩm,
thương hiệu ô tô cho người tiêu dùng lựa chọn( do nhà nhập khẩu mạnh tay hơn trong
việc nhập khẩu nhiều loại ô tô đắt tiền)
Vì vậy, ngày 21/4/2008, Bộ Tài chính đã chính thức thông báo quyết định tăng
thuế suất nhập khẩu ô tô mới nguyên chiếc dùng chở người từ 70% lên 83%, việc tăng
thuế được áp dụng cho các tờ khai hải quan bắt đầu từ ngày 22/4/2008. Mục đích của
việc tăng thuế lần này mà Bộ Tài Chính đưa ra là để giảm ác tắc giao thông, giảm tình
trạng nhập siêu nhằm kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.
Nguyên nhân đánh thuế xe nhập khẩu:
• Cơ sở hạ tầng giao thông hiện nay của Việt Nam chưa đủ để đáp ứng nhu cầu đi lại
của hàng triệu ô tô, phương tiện đi lại chủ yếu hiện nay vẫn là xe máy.
• Mức thu nhập của Việt Nam còn rất thấp.
• Ý thức chấp hành pháp luật khi tham gia giao thông của người Việt Nam chưa thật sự
tốt. Do đó, nếu lượng ô tô đi lại trên đường quá đông vượt ngưỡng có thể kiểm soát
được thì ùn tắc chắc chắn sẽ trở thành một bài toán hóc búa, đau đầu.
• Ngoài ra, đối với các nước đang phát triển hay chậm phát triển thì nguồn thu từ thuế
nhập khẩu chiếm một tỷ trọng rất lớn trong thu ngân sách nhà nước.
• Một lý do quan trọng khác, việc sử dụng thuế nhập khẩu giúp bảo hộ ngành công
nghiệp xe hơi còn non trẻ của chúng ta
Có được như mong muốn của các nhà quản lý kinh tế không?
Một chiếc Camry bán tại Việt Nam giá 54.000 USD trong khi tại Mỹ giá bán vào
khoảng 20.000 USD. Chiếc Camry nhập về VN, sau khi cộng thêm các loại phí, thuế, giá
bán ra thị trường vào khoảng 57.000 USD, đắt hơn xe nội 2.000-3.000 USD.
Hiện nay, các hãng xe trong nước chỉ đóng thuế linh kiện vào khoảng 23-25%, trong
khi thuế nhập khẩu xe nguyên chiếc đóng thuế với mức 83%. Như vậy, xe nội được ưu ái
tới gần 60% thuế, nếu tính chi phí cho mỗi chiếc xe thêm 25% thì xe nội có cơ hội giảm
giá bán tới 25%. Giá xe nội chỉ khoảng 42.750 USD. Phải rẻ hơn xe nhập từ 14.250 USD.

Trong khi giá thực tế chỉ rẻ hơn 2000 – 3000 USD thì khoảng chênh lệch từ 11.250 –
12.250 USD sẽ thuộc các nhà sản xuất xe hơi trong nước để tái đầu tư sản xuất.
Tham vọng tự xây dựng một nền CN xe hơi cùng với sự nôn nóng của nhà quản lý với
đầy đủ công cụ tài chính, thuế trong tay sau dăm năm triển khai đã khiến người tiêu dùng
lãnh đủ, hệ quả tất yếu là giá xe hơi tại VN thuộc hàng cao nhất thế giới.
Hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt được 65-
70%, Thái Lan đạt tới 80%. Tại các nước này thuế suất thuế nhập khẩu cũng chỉ ở mức 5-
7%. Hiện cả nước có 397 DN tham gia lĩnh vực ô tô, trong đó có 51 DN lắp ráp ô tô (13
DN nhà nước, 23 DN tư nhân và 15 DN có vốn đầu tư nước ngoài), 40 DN sản xuất
khung gầm, thân xe, thùng xe, 210 DN sản xuất linh kiện phụ tùng và 97 DN sửa chữa.
Ngành công nghiệp ôtô VN được đánh giá là một trong những ngành công nghiệp gần
như sớm nhất thu hút được lượng vốn FDI cao với hàng loạt các tên tuổi lớn của ngành
ôtô thế giới như Ford, Toyota, Mercedes - Benz Nhưng hầu hết các doanh nghiệp chỉ
NK linh kiện về lắp ráp mà chưa chú trọng đầu tư sản xuất phụ tùng linh kiện, gia tăng tỉ
lệ nội địa hóa. Cao nhất là Toyota Việt Nam, thành lập từ năm 1995, là liên doanh đầu tư
sản xuất ô tô lớn nhất tại Việt Nam, đến nay sau 16 năm hoạt động, đạt tỉ lệ nội địa hoá
từ 17%-37%. Với các DN 100% vốn trong nước, "đầu đàn" của DN nhà nước là Tập
đoàn Công nghiệp ô tô Việt Nam ( Vina Motor) mới chỉ dừng lại ở lắp ráp xe buýt, xe tải
với sản lượng chiếm khoảng 10% thị trường.
Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ôtô Việt Nam thực hiện theo Quyết định
177/2004/QĐ-TTg ngày 5/10/2004 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến
lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020:
+ Về các loại xe thông dụng (xe tải, xe khách, xe con): Đáp ứng khoảng 40 - 50% nhu
cầu thị trường trong nước về số lượng và đạt tỷ lệ sản xuất trong nước (hàm lượng chế
tạo trong nước) đến 40% vào năm 2005; đáp ứng trên 80% nhu cầu thị trường trong
nước về số lượng và đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 60% vào năm 2010 (riêng động cơ
phấn đấu đạt tỷ lệ sản xuất trong nước 50%, hộp số đạt 90%).
Người tiêu dùng thực sự mong đợi điều gì và ai bảo vệ người tiêu dùng khi Hiệp hội
các nhà sản xuất ô tô Việt Nam VAMA là đại diện lợi ích cho các nhà sản xuất. Các

thành viên VAMA đã hưởng lợi lớn từ sự bảo hộ của Chính phủ.
V. TÌNH HÌNH THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU TẠI VIỆT NAM
Là một nớc đang phát triển, nguồn thu Ngân sách Nhà nớc của Việt Nam chủ yếu dựa
vào thuế, trong đó các khoản thu về thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu chiếm một tỷ lệ
lớn, khoảng 23 - 25% tổng thu Ngân sách Nhà nớc. Điều này đợc thể hiện qua bảng
sau:Qua nhiu nm thc hin chớnh sỏch xut nhp khu, VN ó cú nhng thnh cụng
ỏng k. Mc dự VN hin nay ó tham gia vo WTO, AFTA, MFN nhng tng s thu
ngõn sỏch tng hng nm. T l thu thu XNK trờn tng ngõn sỏch cú gim trong nhng
nm 2004-2009 trong khong 12-18% nhng ó tng li trong cỏc nm t 2010 tr i.
Triu ụ la M
2007 2008 2009 2010 2011 2012
TNG TR GI
GDP 431,057 548,529 629,187 461,500 595,000 740,500
Thu cõn i t hot ng xut nhp khu 60,271 91,457 105,629 95,500 138,700 153,900
Tng s thu t hot ng xut nhp khu 84,921 125,505 143,629 131,500 180,700 223,900
Thu xut khu nhp khu tiờu th c bit hng nhp khu 38,309 60,474 76,996 66,500 80,400 80,500
Thu giỏ tr gia tng hng nhp khu ( tng s thu ) 46,612 65,031 66,633 65,000 100,300 143,400
Hon thu giỏ tr gia tng hng nhp khu 24,650 34,048 38,000 36,000 42,000 70,000
Chờnh lch giỏ hng húa xut nhp khu
T l thu thu XNK / tng thu ngõn sỏch (t l) 14.0% 16.7% 16.8% 20.7% 23.3% 20.8%

( S liu : Tng cc thng kờ, B ti chớnh )
Hiện nay, song song với thuế xuất nhập khẩu, chúng ta còn áp dụng hai sắc thuế mới,
đó là thuế TTĐB và thuế GTGT đối với hàng hoá xuất nhập khẩu. Đây thực chất chỉ là sự
điều chỉnh nhằm làm tách bạch các sắc thuế gián thu. Điều này một mặt phù hợp với yêu
cầu của các tổ chức kinh tế quốc tế mà Việt Nam sẽ tham gia về việc hoàn thiện hệ thống
thuế gián thu, mặt khác sẽ góp phần đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nớc khi Việt
Nam tham gia cắt giảm thuế quan theo cam kết với các tổ chức quốc tế này.
C cu cỏc loi hng xut nhp khu
Tr giỏ xut khu hng húa phõn theo khu vc kinh t v phõn theo nhúm hng

2006 2007 2008 2009
S b
2010
TNG S 39,826.2 48,561.4 62,685.1 57,096.3 72,191.9
Phõn theo khu vc kinh t
Khu vc kinh t trong nc 16,764.9 20,786.8 28,162.3 26,724.0 33,105.4
Khu vc cú vn u t nc ngoi
(*)
23,061.3 27,774.6 34,522.8 30,372.3 39,086.5
Phõn theo nhúm hng
Hng cụng nghip nng v khoỏng sn 14,428.6 16,646.7 23,209.4 17,621.8 20,100.0
Hng CN nh v TTCN 16,382.4 20,693.6 24,896.4 25,580.3 32,526.0
Hng nụng sn 5,352.4 7,032.8 9,239.6 8,352.8
11,799.6
Hng lõm sn 297.6 408.4 468.7 463.4
Hàng thủy sản 3,358.0 3,763.4 4,510.1 4,255.3 5,016.3
Vàng phi tiền tệ 7.2 16.5 360.9 822.6 2,750.0
( Số liệu : Tổng cục thống kê, Bộ tài chính. ĐVT Triệu đô la Mỹ )
(*)
Điều chỉnh số liệu của các năm 2006, 2009, 2008 do tách riêng vàng phi tiền tệ từ nhóm hàng công
nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp .
Tổng giá trị xuất khẩu giữa khu vực kinh tế trong nước và khu vực đầu tư nước
ngoài gần như nhau. Nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu là hàng công nghệ nhẹ và tiểu thủ
công nghệ. Đây là các loại hàng ko có giá trị gia tăng cao chủ yếu sử dụng thâm dụng lao
động và tài nguyên.
Tính đến hết tháng 12 năm 2011 tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu của cả
nước đạt 203,66 tỷ USD, tăng 29,7% so với cùng kỳ năm trước. Hàng thủy sản, gạo, cafe,
dầu thô, than đá, hàng dệt may, giày dép các loại, túi xách vali nón ô dù, sản phầm sắt
thép, điện thoại và các loại linh kiện là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Trị giá nhập khẩu hàng hoá theo danh mục tiêu chuẩn ngoại thương



Triệu đô la Mỹ
2005 2006 2007 2008 2009
TỔNG TRỊ GIÁ
36761.
1 44891.1 62764.7 80713.8 69948.8
Hàng thô hay mới sơ chế 9308.2 11481.3 15420.8 21766.1 16340.8
Lương thực, thực phẩm và động vật sống 1955.2 2299.3 3279.6 4525.0 4631.2
Đồ uống và thuốc lá 175.8 145.0 183.3 269.4 341.6
Nguyên liệu thô, không dùng để ăn, trừ nhiên liệu 1623.2 2084.3 2740.8 4005.8 3388.5
Nhiêu liệu, dầu mỡ nhờn và vật liệu liên quan 5365.7 6699.0 8744.2 12329.7 7497.4
Dầu, mỡ, chất béo, sáp động, thực vật 188.3 253.7 472.9 636.2 482.1
Hàng chế biến hoặc đã tinh chế
26633.
1 31531.0 46027.8 56219.4 53225.4
Hoá chất và sản phẩm liên quan 5309.9 6317.4 8368.7 10297.8 10225.4
Hàng chế biến phân loại theo nguyên liệu 10172.2 12164.0 17062.3 20112.8 17777.4
Máy móc, phương tiện vận tảI và phụ tùng 9252.3 10805.7 17859.8 22425.3 21908
Hàng chế biến khác 1898.7 2243.9 2737.0 3383.5 3314.6
Hàng hoá không thuộc các nhóm trên 819.8 1878.8 1316.1 2728.3 382.6

Hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng chế biến hoặc đã tinh chế. Máy móc phương tiện
vận tải và phu tùng và hóa chất chiếm 46% còn lại nguyên liệu chiếm 25% tổng giá trị
nhập khẩu.
Trong năm 2011, Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng là nhóm hàng dẫn đầu về
kim ngạch nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với kim ngạch năm 2011 đạt 15,34 tỷ
USD. Trong đó, khu vực FDI nhập khẩu 6,59 tỷ USD và các doanh nghiệp trong nước
nhập khẩu 8,75 tỷ USD. Nhóm hàng máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng nhập khẩu chủ
yếu có xuất xứ từ Trung Quốc với 5,18 tỷ USD. Tổng trị giá hàng hóa nhập khẩu là

106,75 tỷ USD.
Nh ững hạn chế đang tồn tại .
• Thuế suất thuế xuất khẩu áp dụng theo biểu thuế, trong đó, các dòng hàng chủ yếu áp
dụng mức thuế suất 0%, ngoại trừ một số nguyên liệu chưa qua chế biến mà Nhà nước
không khuyến khích xuất khẩu. Trong điều kiện Việt Nam thời gian qua, việc duy trì
các mức thuế suất thuế xuất khẩu ngoài mức 0% là hoàn toàn cần thiết, vừa tạo nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước (NSNN), đồng thời góp phần quản lý nguồn tài nguyên
thiên nhiên của đất nước để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, khuyến khích hoạt động xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến nhằm tăng
cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội
nhập kinh tế ngày càng sâu và rộng, đặc biệt khi đã là thành viên chính thức của
WTO, các quy định về trợ cấp xuất khẩu vi phạm nguyên tắc của WTO phải bãi bỏ thì
việc duy trì hàng rào thuế xuất khẩu sẽ không đưa lại nguồn thu bao nhiêu cho NSNN,
mà lại không khuyến khích hoạt động xuất khẩu. Thông lệ các nước thường không
đánh thuế xuất khẩu, chỉ đánh thuế nhập khẩu. Vì vậy, quy định này chưa phù hợp với
thông lệ quốc tế.
• Mặc dù chính sách thuế nhập khẩu đã chú trọng bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến
khích đầu tư thông qua việc phân biệt mức thuế suất thuế nhập khẩu đối với hàng hoá
nhập khẩu từ các thị trường. Tuy nhiên, hiệu quả bảo hộ qua thuế chưa cao, chưa có
sự chọn lọc, và xác định cụ thể về thời hạn và lộ trình bảo hộ để các doanh nghiệp chủ
động nâng cao năng lực cạnh tranh, phát huy lợi thế sẵn có của mình.
• Hiện nay, những ngành được bảo hộ cao nhất là những ngành sản xuất hàng thay thế
nhập khẩu chứ không phải là những ngành sản xuất có tiềm năng xuất khẩu hoặc
những ngành có tiềm năng, có tầm ảnh hưởng lớn đối với nền kinh tế nhưng hiện tại
chưa đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu. Hàng rào bảo hộ hiện nay chỉ chú trọng
trong các ngành công nghiệp. Điều này gây bất lợi khi Việt Nam tham gia vào các tổ
chức thương mại khu vực và quốc tế, khi hàng rào thuế quan dần dần bị xoá bỏ - hàng
nhập khẩu có nguy cơ tràn ngập, trong khi đó hàng xuất khẩu chủ lực lại không có
điều kiện chiếm lĩnh thị trường.
• Biểu thuế suất thuế nhập khẩu thường xuyên thay đổi. Do biến động của thị

trường thế giới và trong nước, biểu thuế nhập khẩu đã được sửa đổi, bổ sung nhiều
lần, đặc biệt là mặt hàng xăng, dầu, sữa bột. Việc thường xuyên sửa đổi biểu thuế suất
thuế nhập khẩu tuy đáp ứng yêu cầu bảo hộ một số ngành sản xuất, góp phần đảm bảo
nguồn thu ngân sách, tạo điều kiện bình ổn thị trường khi giá cả của một số mặt hàng
trên thế giới tăng đột biến làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD)
trong nước nhưng lại gây không ít khó khăn trong quá trình thực hiện, các doanh
nghiệp sẽ bị động khi có sự thay đổi về thuế trong tính toán hiệu quả SXKD, trong
xây dựng được chiến lược kinh doanh, thương hiệu sản phẩm Mặt khác, việc
thường xuyên thay đổi biểu thuế suất thuế nhập khẩu sẽ làm cho chính sách thuế xuất
khẩu, nhập khẩu của Việt Nam không minh bạch theo quy định của WTO.
• Biểu thuế suất thuế nhập khẩu quá phức tạp. Thuế suất thuế nhập khẩu nhìn chung
thấp đối với nguyên liệu đầu vào (thường là 0%) và cao đối với các sản phẩm đầu ra,
thuế suất cao nhất thường áp dụng cho hàng tiêu dùng. Thực tế cho thấy, chiến lược
thúc đẩy tăng trưởng hàng sản xuất trong nước thay thế hàng nhập khẩu thông qua
việc đưa ra rào cản thuế nhập khẩu cao, thường dẫn đến mức độ bảo hộ cao và việc
lợi dụng chính sách bảo hộ của các nhà sản xuất thay vì hướng đến việc thay đổi công
nghệ, cắt giảm chi phí.
Giải pháp khắc phục
• Điều chỉnh Biểu thuế suất thuế xuất khẩu cho phù hợp với bối cảnh kinh tế trong nước
và quốc tế, tiến dần đến loại bỏ hoàn toàn thuế xuất khẩu. WTO không có quy định về
điều chỉnh thuế xuất khẩu. Tuy nhiên, trên thực tế, trong quá trình đàm phán và ký kết
một số hiệp định song phương, một số thành viên, đặc biệt là các nước đã phát triển
như Mỹ, EU, Canađa, Úc yêu cầu Việt Nam phải cắt giảm thuế xuất khẩu đối với một
số mặt hàng và cam kết ràng buộc cả Biểu thuế xuất khẩu (không mở rộng phạm vi
mặt hàng và không tăng thuế so với danh mục của Biểu thuế hiện tại của Việt Nam),
với lý do đây là một hình thức nhằm hạn chế thương mại, gây nên tình trạng khan
hiếm nguyên liệu, làm đẩy giá trên thị trường thế giới và trợ cấp cho doanh nghiệp
trong nước sử dụng các mặt hàng này. Ngược lại, một số nước đang phát triển cho
rằng thuế xuất khẩu không thuộc phạm vi điều chỉnh của WTO và không tán thành
các yêu cầu nói trên. Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận rằng, WTO vẫn là sân chơi chịu

sự chi phối chủ yếu bởi các nước phát triển. Vì vậy, việc xem xét và hoàn thiện biểu
thuế xuất khẩu vẫn phải được cân nhắc trong thời gian dài, đồng thời có tính đến
những biến động của các yếu tố kinh tế, chính trị trên thế giới cũng như kết quả của
các vòng đàm phán của WTO trong tương lai. Việc hoàn thiện Biểu thuế suất thuế
xuất khẩu nên theo hướng:
Xây dựng biểu thuế nhập khẩu phù hợp với định hướng bảo hộ có chọn lọc đối với
các ngành kinh tế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thuế nhập khẩu cần được
sửa đổi theo hướng bảo vệ, hỗ trợ những ngành sản xuất có khả năng cạnh tranh và
xuất khẩu trên thị trường khu vực và thế giới. Chính sách thuế xuất khẩu, nhập khẩu
phải góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu, định hướng phát triển các ngành
kinh tế phù hợp với mục tiêu đã đề ra.
• Không thực hiện chính sách bảo hộ tràn lan đối với tất cả các ngành kinh tế, chỉ thực
hiện sự bảo hộ một cách có chọn lọc, có điều kiện và có thời hạn. Bảo hộ cũng cần
phải có lộ trình giảm dần. Có như vậy, chính sách bảo hộ mới có tác dụng nâng cao
sức cạnh tranh, chứ không phải triệt tiêu sức cạnh tranh của sản xuất trong nước. Cụ
thể là: bảo hộ cao đối với những ngành sử dụng nhiều nguyên liệu và lao động trong
nước, giá trị gia tăng cao. Đối với những ngành hàng xét thấy hiện tại và triển vọng
tương lai không có lợi thế cạnh tranh thì không nên tiếp tục bảo hộ. Về lâu dài, việc
điều hành chính sách thuế nhập khẩu nên dựa trên quan điểm coi đó là một công cụ
bảo hộ sản xuất trong nước chứ không phải là một nguồn thu quan trọng. Có như vậy,
thuế nhập khẩu mới đáp ứng được là một hàng rào hữu hiệu để bảo hộ sản xuất trong
nước. Đây là xu hướng tất nhiên khi thực hiện những cam kết quốc tế về hội nhập khu
vực và quốc tế, đặc biệt là các quy định của WTO.
• Các ưu đãi về thuế quan tuy là quan trọng song không phải là nhân tố quyết định thu
hút vốn FDI mà còn tuỳ thuộc đáng kể tới các nhân tố khác (như dung lượng thị
trường hiện tại và tiềm năng, kết cấu hạ tầng ). Do vậy, điều quan trọng đối với Việt
Nam trong thu hút vốn FDI có hiệu quả là tạo dựng một chính sách thuế mang tính
“trung lập”, tạo một sân chơi kinh doanh bình đẳng mà không cần có sự chọn lọc, hay
ưu tiên ngành nghề quá mức.
+ Cần giảm bớt các mức thuế suất, đơn giản hoá biểu thuế cả về số lượng mức thuế

suất và khoảng cách giữa các mức thuế suất để đảm bảo cho biểu thuế đơn giản, dễ
hiểu, dễ thực hiện và hiệu quả. Chỉ nên có tối đa 2 hoặc 3 mức thuế suất cơ bản ở mức
trung bình dựa trên sự phân loại hàng hoá và cũng nên thống nhất các mặt hàng này
với các sắc thuế trong nước theo một tiêu thức phù hợp. Với số lượng thuế suất ít, phù
hợp với cách phân loại của các sắc thuế trong nước sẽ tạo thuận lợi cho công tác quản
lý, giảm thiểu những gian lận thương mại do năng lực hành chính ở Việt Nam còn hạn
chế và do vậy sẽ đảm bảo tính hiệu quả cao.
+ Phải đảm bảo sự ổn định tương đối của biểu thuế xuất khẩu, nhập khẩu. Trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, mức thuế suất thuế nhập khẩu sẽ phụ thuộc nhiều vào
bối cảnh kinh tế quốc tế. Bên cạnh việc phải công khai hoá lộ trình giảm thuế nhập
khẩu theo các cam kết với các nước trong khu vực cũng như WTO, biểu thuế suất
thuế nhập khẩu phải đảm bảo sự ổn định tương đối, góp phần đảm bảo sự ổn định và
minh bạch của chính sách thuế, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể xây
dựng được các phương án và chiến lược kinh doanh có hiệu quả.
• Cần xây dựng tiến độ và phương án cụ thể để thuế hoá các hàng rào phi thuế quan
nhằm đáp ứng một nguyên tắc hàng đầu của WTO là chỉ bảo hộ bằng thuế quan, mọi
hàng rào phi thuế quan phải được loại bỏ. Việc thuế hoá cần được tiến hành theo tiến
độ và phương án cân nhắc cụ thể, sẽ tránh cho nền kinh tế gặp phải những biến động
đột ngột khi phải loại bỏ ngay hàng rào phi thuế quan và thay bằng hàng rào thuế
quan, nhất là trong trường hợp chưa có các biện pháp hữu hiệu khác để bảo vệ hợp lý
nền sản xuất nội địa và ngăn chặn gian lận thương mại.
• Thực hiện các cam kết với WTO với lộ trình giảm thuế nhập khẩu, trong đó cần chú
trọng tiến hành đẩy nhanh tốc độ giảm thuế đối với những lĩnh vực, ngành hàng có
thể thực hiện được như những ngành hàng ít có ảnh hưởng tới nền kinh tế và việc
nhập khẩu chỉ cho mục đích phục vụ sản xuất. Lý do cơ bản là, mặc dù thuế nhập
khẩu được coi là công cụ bảo hộ hữu hiệu, nhưng trong nền kinh tế phát triển đa dạng
nh hin nay thỡ vic bo h ch mang tớnh cht trc tip i vi cỏc ngnh sn xut
cỏc mt hng ú nhng li l gỏnh nng (lm tng chi phớ) i vi cỏc ngnh s dng
cỏc mt hng ny lm nguyờn liu u vo cho khõu sn xut kinh doanh. V nu
nh mt hng ú c nhiu ngnh trong nn kinh t s dng thỡ vic bo h cú th s

tớch cc hn i vi cỏc ngnh ny, nhng s to nờn s bo h õm (tng chi phớ)
i vi mt s ngnh khỏc hoc i vi ton b nn kinh t. Vic gim thu nhp
khu s lm tng sc cnh tranh cho sn xut trong nc do tng h s bo h thc t.
Vấn đề công tác tổ chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu: Xây dựng
quy trình làm thủ tục hải quan đơn giản, khoa học và công khai hoá thủ tục hải quan.
Đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ công chức thực hiện chính sách thuế xuất - nhập
khẩu. Sắp xếp bộ máy thực hiện chính sách thuế xuất - nhập khẩu hợp lý. Hệ thống
hoá các văn bản quy phạm pháp luật về chính sách thuế xuất - nhập khẩu. Tăng cờng
công tác tuyên truyền, hớng dẫn và chỉ đạo chính sách thuế xuất nhập khẩu cho các
doanh ngiệp. Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách thuế
xuất - nhập khẩu.

Ti liu tham kho:
1. Lut thu xut khu, thu nhp khu nm 1991
2. Lut sa i, b sung mt s iu ca lut thu xut khu, thu nhp
khu nm 1993
3. Lut sa i, b sung mt s iu ca lut thu xut khu, thu nhp
khu nm 1998
4. Ngh nh Ca Chớnh Ph S 54-CP Ngy 28-8-1993 Quy nh chi tit thi
hnh Lut thu xut khu, thu nhp khu v Lut sa , B Sung mt s
iu ca Lut Thu xut khu, thu nhp khu
5. Ngh nh 94/CP ngy 17/11/1998 Quy nh chi tit thi hnh Lut Sa i
b sung mt s iu ca Lut Thu xut khu, thu nhp khu s
04/1998/QH10 ngy 20 thỏng 5 nm 1998.
6. Thụng T 87/2004/TT-BTC 31/08/2004 Thụng t hng dn thi hnh
thu xut khu, thu nhp khu

×