Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế :Quản trị quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (513.76 KB, 57 trang )

GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
MỤC LỤC

LI M ĐU 4
CHƯƠNG 1: 5
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ QUỐC TẾ 5
1.3. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ QUỐC TẾ 6
CHƯƠNG 2: 9
ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯNG QUỐC TẾ 9
2.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƯNG KINH DOANH QUỐC TẾ 9
2.2. CÁC YẾU TỐ CỦA MÔI TRƯNG KINH DOANH QUỐC TẾ 10
2.2.1 Yếu tố kinh tế 10
2.3. LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC QUỐC GIA 20
2.3.1 Khái niệm 20
2.3.2 Tầm quan trọng của lợi thế cạnh tranh quốc gia 20
CHƯƠNG 3: 22
PHÁN ĐOÁN CÁC VẤN ĐỀ CHIẾN LƯỢC 22
3.1. KHÁI QUÁT VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH QUỐC TẾ 22
3.1.1 Khái niệm về chiến lược kinh doanh quốc tế 22
3.1.2 Vai trò của chiến lược 22
3.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIA NHẬP THỊ TRƯNG QUỐC TẾ 22
3.2.1 Xuất khẩu 22
3.2.3 Nhượng quyền thương mại (Franchising) – một hình thức đặc biệt của cấp phép 29
3.2.4 Liên minh chiến lược 31
3.2.5 Mở các chi nhánh 34
3.3. CÁC CHIẾN LƯỢC CỦA TẬP ĐOÀN ĐA QUỐC GIA (MNC) 37
3.3.1 Triết lý chiến lược của MNC 37
3.3.2 Các chiến lược 38
CHƯƠNG 4: TỔ CHỨC KINH DOANH QUỐC TẾ 40
CHƯƠNG 5: THÍCH ỨNG SỰ KHÁC BIỆT VĂN HOÁ 45
CHƯƠNG 6: TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC 54


6.1 CÁC KHOẢN THANH TOÁN NGOÀI SỔ SÁCH 54
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 1
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
6.2. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI QUỐC TẾ 55
TÀI LIỆU THAM KHẢO 57
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 2
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM 11

STT Họ & Tên Chữ ký
01 Ngô Lê Việt Anh
02 Võ Tiến Bình
03 Nguyễn Ngọc Thiên Bảo
04 Nguyễn Đăng Duy
05 Hồ Thị Hồng Hạnh
06 Nguyễn Thị Thu Hiền
07 Lê Nguyễn Hải Long
08 Nguyễn Thị Thu Trang
09 Dương Thị Xuân Thảo
10 Trương Thị Hồng Yến
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 3
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
LI M ĐU

Ngày nay với sự phát triển và hội nhập quốc tế, việc tham gia vào hoạt động
thương mại quốc tế là một xu thế bắt buộc, một yêu cầu khách quan thông qua
hoạt động này các doanh nghiệp có cơ hội mở rộng được thị trường tiêu thụ, vì rõ
ràng là thị trường nước ngoài lớn hơn nhiều so với thị trường trong nước, mở
rộng được đầu tư, giảm thiểu được rủi ro trong kinh doanh (do chia nhỏ thị
trường tiêu thụ), mở rộng chu kỳ sống của sản phẩm, tạo thêm thu nhập từ những

kỹ thuật hiện có thông qua nhượng bản quyền (licensing) đặc quyền kinh tiêu
( franchising),và đặc biệt là tạo cơ hội để doanh nghiệp nâng cao vị thế của
doanh nghiệp trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế đòi
hỏi các doanh nghiệp phải có những thay đổi để thích nghi với môi trường quốc
tế. Để hiểu rõ hơn về việc hoạt động này, chúng ta nghiên cứu về chuyên đề:
“Quản trị quốc tế”.
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 4
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ QUỐC TẾ
1.1. KHÁI NIỆM
Hoạt động kinh doanh quốc tế: là các hoạt động liên quan đến lợi nhuận
vượt qua các biên giới quốc tế. Nó bao gồm nguồn cung cấp từ các nước khác
nhau, sản phẩm hoặc dịch vụ được bán đi cho khách hàng khắp nơi và dòng
tiền được chuyển đi trên khắp thế giới.
Quản trị quốc tế: là những hoạt động nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh quốc
tế của doanh nghiệp thông qua nỗ lực của các thành viên trong doanh nghiệp.
Quản trị kinh doanh quốc tế: là quá trình lập kế hoạch, tổ chức lãnh đạo
và kiểm soát những con người làm việc trong một tổ chức hoạt động trên phạm
vi quốc tế nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức.
KDQT được tiến hành trên cơ sở quốc tế hoá các hoạt động kinh doanh.
Khi quyết định tham gia vào KDQT thì một doanh nghiệp phải đối mặt với
nhiều thách thức. Khi đó, các yếu tố nội tại của công ty phải đương đầu với các
yếu tố mới bên ngoài về văn hóa, chính trị, pháp luật, kinh tế và cạnh tranh. Các
yếu tố nội tại của công ty là những nhân tố công ty có thể kiểm soát được. Các
yếu tố này bao gồm:
- Xác định phương pháp và xây dựng kế hoạch sản xuất.
- Tìm kiếm và phân bổ nguồn tài chính.
- Chính sách phân bổ nguồn nhân lực, chương trình đào tạo và phát triển

nhân lực.
- Xây dựng văn hóa tổ chức.
- Đưa ra các quyết định marketing.
- Đưa ra các chính sách đánh giá nhà quản trị và hoạt động của công ty.
1.2. BẢN CHẤT QUẢN TRỊ QUỐC TẾ
QTQT là sự phối hợp các nguồn lực (con người, tiền vốn và nguồn lực vật
chất) sao cho chúng được sử dụng có hiệu quả nhất trong hoạt động kinh doanh
quốc tế của doanh nghiệp.
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 5
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
1.3. CHỨC NĂNG CỦA QUẢN TRỊ QUỐC TẾ
Quản trị kinh doanh quốc tế là hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát
trong các tổ chức có tham gia vào hoạt động kinh tế quốc tế.
1.3.1. Hoạch định:
Là một quá trình ấn định những mục tiêu, xây dựng và chọn lựa những
giải pháp tốt nhất để thực hiện có hiệu quả những mục tiêu đó.
− Hoạch định vạch rõ con đường để đi tới mục tiêu.
− Hoạch định chỉ ra các giải pháp để đạt được mục tiêu
1.3.2. Tổ chức:
Là Chức năng quản trị liên quan đến hoạt động xây dựng và phát triển
cơ cấu (bộ máy) tổ chức để đảm nhận những hoạt động cần thiết, xác lập các mối
quan hệ về quyền hạn và trách nhiệm giữa các bộ phận, phân hệ đó.
− Nội dung của Chức năng tổ chức
− Thiết kế, phát triển cơ cấu tổ chức
− Xây dựng nguyên tắc thủ tục và qui trình làm việc
1.3.3. Lãnh đạo:
Có nhiều cách hiểu khác nhau về lãnh đạo:
− Lãnh đạo là tìm cách ảnh hưởng đến người khác để đạt được các mục tiêu
của tổ chức.
− Lãnh đạo là chỉ dẫn điều khiển, ra lệnh và đi trước.

− Lãnh đạo là tác động đến người khác, truyền cảm hứng, khơi dậy lòng
nhiệt quyết của họ đối với công việc, tổ chức và những người xung quanh.
1.3.4. Kiểm soát:
Là quá trình đo lường kết quả thực tế và so sánh với những tiêu chuẩn
nhằm phát hiện sự sai lệch và nguyên nhân sự sai lệch, đưa ra biện pháp điều
chỉnh kịp thời nhằm khắc phục sự sai lệch hoặc nguy cơ sai lệch, đảm bảo tổ
chức đạt được các mục tiêu và các kế hoạch vạch ra.
− Kiểm soát là chức năng của mọi nhà quản trị trong tổ chức.
− Kiểm soát là chức năng cuối cùng khép kín quá trình quản trị.
1.4. CÁC TỔ CHỨC THAM GIA QUẢN TRỊ QUỐC TẾ
a. Các doanh nghiệp nội địa ( A domestic budiness):
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 6
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
Kinh doanh nội địa sử dụng chủ yếu tất cả các tài nguyên của mình và bán
tất cả sản phẩm, dịch vụ của mình trong phạm vi một nước duy nhất. Nhiều
doanh nghiệp nhỏ hoạt động chủ yếu ở trong nước. Tuy nhiên, một số ít (nếu có
thể) các doanh nghiệp nội địa lớn ngày nay đều tham gia vào hoạt động thế giới.
Các doanh nghiệp nhỏ đang ngày càng tham gia tích cực vào hoạt động
thương mại hay đầu tư quốc tế. Chính sự đổi mới công nghệ đã gỡ bỏ nhiều trở
ngại thực tế đối với các hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp nhỏ.
Trong khi các kênh phân phối truyền thông chỉ cho phép các doanh nghiệp
lớn thâm nhập vào các thị trường ở xa thì phân phối qua mạng điện tử là giải
pháp ít tốn kém và có hiệu quả đối với nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Doanh nghiệp quốc tế chủ yếu đặt căn cứ tại một quốc gia duy nhất, nhưng
lại chiếm một số thị phần có ý nghĩa về các tài nguyên hay doanh số của mình từ
các quốc gia khác.
b. Các doanh nghiệp đa quốc gia (A multinational business):
Các công ty đa quốc gia có thị trường tiêu thụ khắp thế giới nơi công ty mua
nguyên liệu, vay tiền, chế tạo và bán các sản phẩm của mình.
Một công ty lớn có các nhà máy phân bổ trên khắp thế giới cũng được gọi là

công ty quốc tế, hay còn gọi là tập đoàn đa quốc gia (MNC)- một công ty tiến
hành đầu tư trực tiếp (dưới hình thức các chi nhánh sản xuất hoặc marketing) ra
nước ngoài ở một vài hay nhiều quốc gia khác nhau, duy trì sự kiểm soát qua các
chính sách để đạt được các triển vọng, mục tiêu toàn cầu. MNC là công ty có sở
hữu hoặc kiểm soát các phương tiện sản xuất kinh doanh ở hải ngoại. Với triển
vọng này các nhà quản trị cấp cao phân phối nguồn lực và các hoạt động phối
hợp để đạt được lợi ích cao nhất của điều kiện kinh doanh.
Như vậy. mặc dù tất cả các công ty có liên quan đến một hay một vài khía
cạnh nào đó của thương mại hay của đầu tư quốc tế đều được coi là công ty quốc
tế, nhưng chỉ có các công ty đầu tư trực tiếp ra nước ngoài mới được gọi là công
ty đa quốc gia.
1.5. CÁC ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI QUẢN TRỊ QUỐC
Các nhà quản trị cao cấp thường có một trong bốn định hướng sau:
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 7
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
- Định hướng vị chủng: là định hướng mà các hoạt động điều hành của
công ty được thực hiện ở nơi đặt trụ sớ chính
- Định hướng đa trung tâm: là cách thức mà các nhà quản lý cho rằng sẽ
tốt vì các tổ chức nhỏ đặt ở các địa phương (nước ngoài) sẽ được đào tạo bởi
người bản xứ. Đây là phương pháp tốt giúp tổ chức hiểu rõ được văn hóa, ngôn
ngữ cũng như thị trường một cách tốt nhất. Ví dụ như các chi nhánh của công ty
được đặt tại các nơi trên thế giới sẽ hoạt động dưới sự hướng dẫn của địa phương
theo sát với sự kiểm soát tài chính của công ty mẹ.
- Định hướng vùng: là định hướng dựa vào sự tương đồng giữa các nước
trong một vùng và những vấn đề trong cùng một vùng sẽ được giải quyết bởi cá
nhân trong vùng đó. Điển hình, các trụ sở đại diện ở các vùng phối hợp các chi
nhánh trong vùng lại với nhau, còn trụ sở chính thì quản lý tổng thể.
- Định hướng toàn cầu: là định hướng cần thiết cho cả công ty mẹ lẫn
các chi nhánh dù là ở địa phương hay nước ngoài để giải quyết các vấn đề trên
toàn cầu.

Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 8
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
CHƯƠNG 2:
ĐÁNH GIÁ MÔI TRƯNG QUỐC TẾ
2.1. KHÁI QUÁT VỀ MÔI TRƯNG KINH DOANH QUỐC TẾ
2.1.1 Khái niệm về môi trường kinh doanh quốc tế
Môi trường kinh doanh quốc tế là tổng thể các môi trường thành phần như
môi trường pháp luật, chính trị, kinh tế văn hóa, cạnh tranh , chúng tác động và
chi phối mạnh mẽ đối với các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, buộc các
doanh nghiệp phải tự điều chỉnh các mục đích, hình thức và chức năng hoạt động
của mình cho thích ứng nhằm nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh và đạt hiệu
quả cao trong kinh doanh.
2.1.2 Phân loại môi trường kinh doanh quốc tế
 Khi nghiên cứu môi trường ở trạng thái “tĩnh”, có thể chia môi
trường kinh doanh thành phần thành môi trường địa lý, chính trị, pháp luật, kinh
tế, văn hoá, thể chế.
 Khi đứng trên góc độ chức năng hoạt động (tức là xem xét môi
trường ở khía cạnh động) thì môi trường kinh doanh gồm môi trường thương
mại, tài chính - tiền tệ, đầu tư
 Khi đứng trên góc độ điều kiện kinh doanh thì môi trường kinh
doanh phân chia thành môi trường trong nước, môi trường quốc tế.
Việc quản trị kinh doanh quốc tế mở ra nhiều cơ hội lớn nhưng môi
trường kinh doanh quốc tế là môi trường luôn luôn biến đổi, mang tính chất phức
tạp và phụ thuộc vào nhiều yếu tố nên nó cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc
hiểu biết các yếu tố môi trường rộng lớn hơn so với kinh doanh nội địa. Trong
phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu các yếu tố tác động của môi trường quốc tế và
khái niệm rộng hơn đó là các lợi thế cạnh tranh của các quốc gia.
2.1.3 Sự cần thiết của việc nghiên cứu môi trường kinh doanh quốc tế
Trong những điều kiện của xu hướng quốc tế hoá, toàn cầu hoá và khu
vực hoá nền kinh tế thế giới và nền kinh tế mỗi quốc gia, hoạt động kinh doanh

quốc tế ngày càng được mở rộng và phát triển, để thích ứng với xu hướng này,
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 9
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
các doanh nghiệp đang từng bước tăng dần khả năng hội nhập, thích ứng của
mình với điều kiện mới của môi trường kinh doanh trong và ngoài nước nhằm
tăng cơ hội, giảm thách thức, hạn chế rủi ro và gia tăng lợi nhuận.
Do đặc thù của môi trường kinh doanh quốc tế, đồng thời những thành
phần cơ bản của môi trường quốc tế tại mỗi nước có sự thay đổi tuỳ theo đặc
điểm riêng của mỗi quốc gia dẫn đến trách nhiệm của các nhà quản trị quốc tế
phức tạp hơn nhiều so với trách nhiệm của các nhà quản trị trong nước.
2.2. CÁC YẾU TỐ CỦA MÔI TRƯNG KINH DOANH QUỐC TẾ
2.2.1 Yếu tố kinh tế
Các quốc gia trên thế giới được phân chia thành ba nhóm dựa trên nền kinh
tế và mức độ phát triển công nghiệp:
• Các quốc gia phát triển:
Nhóm đầu tiên, được gọi là các nước phát triển, với nền kinh tế mạnh và tốc
độ phát triển công nghiệp cao, bao gồm Australia, New Zealand, Singapore,
Canada, Hoa Kỳ, Tây Âu và Nhật Bản.
• Các quốc gia kém phát triển:
Nhóm thứ hai là các nước kém phát triển (LDCs), bao gồm các quốc gia
tương đối nghèo với thu nhập bình quân đầu người thấp, công nghiệp nhỏ và có
tỷ lệ sinh cao.
• Các nước công nghiệp mới:
Các nước đang nổi lên như là các quốc gia xuất khẩu những hàng hóa sản
xuất chủ lực được gọi là các nước công nghiệp mới (NICs), bao gồm các quốc
gia như Malaysia, Đài Loan và Hàn Quốc.
Chúng ta có thể nghĩ rằng công ty đa quốc gia hoạt động trên toàn thế giới.
Trên thực tế, khoảng 95% có trụ sở tại các nước phát triển với khoảng 75% đầu
tư nước ngoài được phân phối ở các nước phát triển. Tuy nhiên, sự thịnh vượng
ngày càng tăng của nhiều nước kém phát triển (đặc biệt là nhóm NIC) có tiềm

năng lớn để mở rộng thị trường.
Trong yếu tố kinh tế tác động đến việc quản trị quốc tế. Chúng ta cần phân
tích làm rõ các yếu tố sau:
a. Cơ sở hạ tầng
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 10
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
Quyết định tiến hành kinh doanh ở một lãnh thổ cũng phụ thuộc vào cơ sở
hạ tầng. Cơ sở hạ tầng liên quan đến đường cao tốc, đường sắt, sân bay, cơ sở vật
chất nước thải, nhà ở, cơ sở giáo dục, mạng thông tin liên lạc, các cơ sở vui chơi
giải trí, và các tiện nghi kinh tế và xã hội khác là những dấu hiệu về sự phát triển
kinh tế ở vùng đó.
Do tầm quan trọng của việc phát triển hệ thống công nghệ thông tin, nên hạ
tầng truyền thông thông tin là quan trọng nhất. Theo nghiên cứu ngân hàng phát
triển Châu Á, các nước trong khu vực cần đầu tư mạnh để nâng cấp cơ sở hạ tầng
viễn thông. Ngoài ra cũng cần thiết chi đầu tư cho việc vận chuyển trong khu
vực, hệ thống nước và năng lượng. Do đó, xây dựng cơ sở hạ tầng để hỗ trợ phát
triển kinh tế là rất tốn kém. Nhưng nếu một quốc gia nào đó muốn kêu gọi các
nhà đầu tư đầu tư sang nước mình thì việc xây dựng cơ sở hạ tầng là thật sự cần
thiết.
b. Cán cân thanh toán và cán cân thương mại
Một nhân tố kinh tế khác là cán cân thanh toán của quốc gia, tài khoản ghi
chép hàng hóa và dịch vụ, vốn vay, vàng và các khoản mục khác đi vào và đi ra
khỏi quốc gia đó. Cán cân thương mại, tài khoản theo dõi giữa xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia, là một yếu tố quan trọng quyết định cán cân thanh toán
quốc gia đó. Nếu một quốc gia có kim nghạch xuất khẩu lớn hơn nhập khẩu tức
là quốc gia đó đã thặng dư được cán cân thương mại, điều này dẫn đến lượng dự
trữ ngoại hối ở quốc gia đó được dư thừa giúp cải thiện cán cân thanh toán.
c. Tỷ giá hối đoái
Nhắc đến môi trường kinh doanh quốc tế là nhắc đến tỷ giá hối đoái, là giá
trị mà tại đó một đơn vị tiền tệ của một quốc gia có thể đổi được bao nhiêu tiền

của quốc gia khác. Bởi vì tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến giá cả hàng hoá từ các
nước khác nhau, nên việc thay đổi tỷ giá ảnh hưởng đến khả năng của một công
ty tham gia vào kinh doanh quốc tế.
2.2.2 Yếu tố chính trị - pháp luật
Chính trị và luật pháp vốn dĩ là những yếu tố không thể tách rời hoạt động
kinh doanh. Đó là những yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng xã hội, tạo lập
những khuôn khổ chung cho các hoạt động kinh doanh diễn ra bình thường.
Nhưng ngược lại trong kinh doanh, nếu nắm bắt được những yếu tố trên thì sự
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 11
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
đảm bảo cho thành công sẽ là rất lớn. Đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc
tế, nơi mà môi trường pháp luật và chính trị đa dạng và phức tạp hơn rất nhiều thì
việc nghiên cứu yếu tố chính trị và luật pháp là rất cần thiết.
a. Rủi ro chính trị
Tất cả các công ty thực hiện kinh doanh vượt ra khỏi phạm vi một quốc
gia đều phải đối mặt với rủi ro chính trị- cụ thể sự thay đổi về chính trị có ảnh
hưởng xấu đến công việc kinh doanh. Rủi ro chính trị ảnh hưởng đến nhiều nước
khác nhau theo nhiều cách khác nhau. Nó có thể đe dọa đến thị trường xuất khẩu,
điều kiện sản xuất hoặc gây khó khăn cho nhà đầu tư chuyển lợi nhuận về trong
nước.
 Rủi ro chính trị phát sinh là do những nguyên nhân sau:
- Sự lãnh đạo của chính trị yếu kém;
- Chính quyền bị thay đổi thường xuyên;
- Sự dính líu đến chính trị của các nhà lãnh đạo tôn giáo và quân đội;
- Hệ thống chính trị không ổn định;
- Những vụ xung đột về chủng tộc, tôn giáo và các dân tộc thiểu số;
- Sự liên kết kém chặt chẽ giữa các quốc gia.
 Phân loại rủi ro chính trị:
Rủi ro chính trị có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau.
Trước hết theo các doanh nghiệp, rủi ro chính trị được chia làm hai loại:

− Rủi ro vĩ mô: đe dọa đến tất cả các doanh nghiệp không trừ một ngành
nào. Rủi ro vĩ mô ảnh hưởng đến hầu hết các công ty – cả doanh nghiệp trong và
ngoài nước.
− Rủi ro vi mô: tác động đến những công ty thuộc một ngành nào đó.
 Hậu quả mà rủi ro chính trị gây ra:
− Xung đột và bạo lực: Xung đột địa phương có thể gây cản trở mạnh mẽ
đến đầu tư của các công ty quốc tế. Bạo lực làm suy yếu khả năng sản xuất và
phân phối sản phẩm, gây khó khăn cho việc nhận nguyên liệu và thiết bị gây cản
trở việc tuyển dụng những nhân công giỏi. Xung đột nổ ra cũng đe dọa cả tài sản
(văn phòng, nhà máy và thiết bị sản xuất) và cuộc sống của nhân công
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 12
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
− Khủng bố và bắt cóc: Khủng bố có mục đích tạo ra sự lo sợ và ép buộc
sự thay đổi thông qua việc gây ra những cái chết và tàn phá tài sản một cách bất
ngờ và không lường trước được. Bắt cóc thường được sử dụng nhằm tài trợ tài
chính cho các hoạt động khủng bố. Các hãng kinh doanh nước ngoài lớn là mục
tiêu chính bởi vì những người làm việc ở đây khá “nặng túi” và có thể trả những
khoản chuộc khá hậu hĩnh.
− Sự thay dổi các chính sách: Sự thay đổi chính sách của chính phủ cũng
có thể là do nguyên nhân mất ổn định xã hội hoặc là do có sự tham gia của các
chính đảng mới.
b. Sự công hữu hóa
Đôi khi một số chính quyền chiếm đoạt tài sản của các công ty trên lãnh
thổ của họ. Sự chiếm đoạt diễn ra dưới 3 hình thức: Tịch thu, xung công và quốc
hữu hóa.
• Tịch thu: Là việc chuyển tài sản của công ty vào tay chính phủ mà không
có sự đền bù nào cả. Thông thường không có cơ sở pháp lý yêu cầu đền bù hoặc
hoàn trả lại tài sản.
− Xung công: Là việc chuyển tài sản của tư nhân vào tay chính phủ nhưng
được đền bù

Ngày nay, các chính phủ ít sử dụng đến giải pháp tịch thu hoặc xung công.
Tại sao? Bởi vì một lẽ ảnh hưởng đến đầu tư trong tương lai. Các công ty đã đầu
tư thì lo sợ mất tài sản và nó cũng ngăn cản các công ty mới bắt đầu đầu tư vào
địa phương nếu việc tịch thu xảy ra.
− Quốc hữu hóa: Quốc hữu hóa phổ biến hơn xung công và tịch thu. Trong
khi xung công áp dụng đối với một hoặc một số công ty nhỏ trong một ngành, thì
quốc hữu hóa diễn ra đối với toàn bộ ngành. Quốc hữu hóa là việc Chính phủ
đứng ra đảm nhiệm cả một ngành.
Quốc hữu hóa cũng có sự khác nhau giữa các quốc gia. Trong khi các chính
phủ Cuba, Bắc Triều Tiên kiểm soát mọi ngành, thì Mỹ và Canada chỉ kiếm1.1
soát một số ngành. Các nước khác như Pháp, Braxin, Mexico, Ban Lan và Ấn Độ
cố gắng làm cân bằng giữa sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân.
c. Các luật đặc thù / bản xứ
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 13
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
 Các chính sách địa phương:
Các nhà quản lý có thể phải xem xét đến những luật lệ và quy định áp
dụng trong kinh doanh ở mỗi quốc gia. Hơn nữa, pháp luật ở nhiều quốc gia rất
dễ thay đổi và luật mới ra đời tiếp tục tác động đến doanh nghiệp. Để những ảnh
hưởng của địa phương có lợi cho họ, các nhà quản lý đề nghị những định hướng
thay đổi có ảnh hưởng tích cực tới họ.
Các yêu cầu của địa phương có thể gây bất lợi sự tồn tại của các hãng
trong dài hạn. Đặc biệt, họ có thể gây ra hai điểm bất lợi đối với các công ty hoạt
động vượt ra ngoài phạm vi một quốc gia bất cứ lúc nào:
− Thứ nhất, yêu cầu phải tuyển dụng những nhân công địa phương của họ
có thể làm cho các công ty này thiếu những người làm việc có đủ trình độ
− Thứ hai, yêu cầu các công ty sử dụng toàn bộ hoặc một phần nguyên,
nhiên vật liệu của địa phương dẫn đến chi phí sản xuất cao, chất lượng giảm sút
hoặc cả hai.
 Luật mang tính chất tôn giáo:

Luật dựa trên nền tảng tôn giáo được gọi là luật thần quyền. Có 3 luật thần
quyền nổi lên đó là Luật Đạo Hồi, đạo Hin-đu, luật Do Thái.
Các hãng hoạt động ở những nước tồn tại luật thần quyền phải nhạy cảm
với niềm tin và văn hóa địa phương. Họ nên đánh giá hết các hoạt động sản xuất,
kinh doanh bao gồm những thông lệ và chính sách đầu tư để đảm bảo phù hợp
với không chỉ pháp luật mà còn tôn giáo và văn hóa địa phương.
 Luật chống độc quyền:
Các đạo luật nhằm chống các công ty ấn định giá cả, chiếm lĩnh thị trường
và tận dụng những lợi thế do độc quyền gọi là đạo luật chống độc quyền. Những
đạo luật này cố gắng cung cấp cho khách hàng những sản phẩm đa dạng ở mức
giá hợp lý.
Các công ty bị chế tài bởi luật chống độc quyền cho rằng họ bị mất lợi thế
do phải chia sẻ thị phần với các đối thủ cạnh tranh trong nước. Vì vậy, những
hãng hoạt động ở những nước có đạo luật chống độc quyền thường được miễn
thuế trong một số giao dịch quốc tế. Một số tiểu thương cho rằng họ có thể có
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 14
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
điều kiện cạnh tranh tốt hơn đối với các công ty quốc tế lớn nếu không vi phạm
luật chống độc quyền.
d. Thuế quan
Chính phủ các nước dùng thu nhập từ thuế doanh thu cho nhiều mục đích.
Tiền thuế được dùng để trả lương, xây dựng quân đội, điều hòa thu nhập từ người
giàu sang người nghèo. Chính phủ cũng đánh thuế trực thu, còn gọi là thuế tiêu
dùng cho 2 mục đích:
- Nó giúp cho việc chi trả cho những hậu quả của việc tiêu dùng 1 sản
phẩm.
- Làm cho hàng hóa nhập khẩu đắt hơn.
Thuế tiêu dùng được đánh trên các hàng hóa như rượu và thuốc lá để điều trị
những bệnh tật sinh ra từ những sản phẩm này. Tương tự, thuế đánh trên xăng
dầu để xây dựng và sữa chữa cầu cống và đường xá. Thuế đánh trên những mặt

hàng nhập khẩu làm cho những hàng hóa địa phương có lợi thế hơn về mặt giá
cả. Xét về tỷ lệ khác, các nước có tỷ lệ thuế suất khác nhau tính trên thu nhập.
e. Hạn ngạch nhập khẩu
Là một loại rào cản thương mại dưới hình thức giới hạn về số lượng sản
phẩm được nhập khẩu trong 1 khoàng thời giàn nào đó.
Hạn ngạch nhập khẩu có thể bảo vệ thị trường trong nước bằng cách hạn
chế những sản phẩm mà đối thủ cạnh tranh sẵn có.
g. Các rào cản hành chính
Vì thuế quan và hạn ngạch kích động sự trả thù trực tiếp từ các nước với
những sản phẩm có tầm ảnh hưởng nên phương pháp tiếp cận tinh tế hơn là sử
dụng rào cản hành chính. Đó là những quy tắc và quy định gây khó khăn đến các
công ty nước ngoài muốn hoạt động trong một quốc gia khác.
Ví dụ như máy ghi âm của người Nhật đã phải được kiểm tra từng cái một
bởi Hải quan Pháp tại một cơ sở nhỏ ở Poities. Điều này gây ra sự chậm trễ lớn
và làm cho việc nhập khẩu máy ghi âm vào nước Pháp bị trì trệ. Kết quả là, các
nhà sản xuất Nhật Bản đã đồng ý động thái “ hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện” để
hạn chế việc chuyển máy ghi âm sang Pháp.
2.2.3 Yếu tố văn hóa – xã hội
a. Khoảng cách quyền lực
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 15
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
Miêu tả mức độ của sự bất bình đẳng giữa con người ở các nghề nghiệp
khác nhau. Trong nền văn hóa có khoảng cách quyền lực lớn, các nhà lãnh đạo
và các nhà giám sát thích có sự thừa nhận đặc biệt và nhiều đặc quyền. Trong
những nền văn hóa có khoảng cách quyền lực ít, uy tín và các phần thưởng là
công bằng hơn cho các nhà chức trách và các nhân viên xếp thứ bậc trong công
ty.
Đối với một số nền văn hóa, phấn đấu lên tầng lớp xã hội cao hơn là dễ
dàng, nhưng ngược lại, ở một số nền văn hóa khác, điều này rất khó khăn hoặc
thậm chí là không thể. Khoảng cách quyền lực thể hiện tính linh hoạt của xã hội,

là biểu hiện sự dễ dàng đối với các cá nhân có thể di chuyển lên hay xuống trong
thứ bậc xã hội của một nền văn hóa hay không. Đối với hầu hết dân tộc trên thế
giới ngày nay, một trong hai hệ thống quyết định tính linh hoạt của xã hội là : hệ
thống đẳng cấp xã hội và hệ thống giai cấp xã hội.
 Hệ thống đẳng cấp
Hệ thống đẳng cấp là một hệ thống về phân tầng xã hội, trong đó con
người được sinh ra ở một thứ bậc xã hội hay đẳng cấp xã hội, không có cơ hội di
chuyển sang đẳng cấp khác.
Nhiều cơ hội về việc làm và thăng tiến bị từ chối trong hệ thống, những
nghề nghiệp nhất định bị hạn chế đối với thành viên trong mỗi đẳng cấp. Vì thế
có nhiều xung đột cá nhân là tất yếu, một thành viên ở đẳng cấp thấp không thể
giám sát một ai đó ở đẳng cấp cao hơn.
 Hệ thống giai cấp
Một hệ thống phân tầng xã hội trong đó khả năng cá nhân và hành động cá
nhân quyết định địa vị xã hội và tính linh hoạt của xã hội được gọi là hệ thống
giai cấp. Đây là hình thức thông dụng trong phân tầng xã hội trên thế giới ngày
nay. Ý thức về giai cấp của người dân trong một xã hội có ảnh hưởng mạnh mẽ
đến tính linh hoạt của xã hội đó. Các nền văn hóa có ý thức phân tầng cao thường
ít linh hoạt hơn và nó phải trải qua mâu thuẫn giai cấp cao hơn.
Ngược lại, ở mức ý thức giai cấp thấp hơn sẽ khuyến khích tính linh hoạt
xã hội và ít có mâu thuẫn. Phần lớn các công dân Mỹ cùng chung niềm tin rằng
làm việc tích cực có thể cải thiện các tiêu chuẩn sống và địa vị xã hội của họ. Họ
cho rằng các địa vị xã hội cao hơn gắn với thu nhập cao hơn và sung túc hơn, ít
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 16
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
xem xét đến nguồn gốc gia đình. Giàu có về mặt vật chất là quan trọng vì nó
khẳng định hay cải thiện địa vị xã hội. Khi mọi người cảm thấy vị trí xã hội cao
hơn trong tầm tay họ, họ sẽ có xu hướng bộc lộ sự hợp tác nhiều hơn ở nơi làm
việc.
b. Định hướng khuyến khích thành tích

Là sự nhấn mạnh vào khả năng cạnh tranh; tính quyết đoán và sự thành
đạt về vật chất hay nhấn mạnh vào các giá trị như sự thụ động, hợp tác và cảm
xúc. Ở các nước định hướng thành tích như Nhật, Ý, Mexico nhân viên tin rằng
công việc sẽ đem đến sự nhận thức, tăng trưởng và thách thức. Ở các nước định
hướng khuyến khích như Netherland, Thụy Điển, Phần Lan họ chú trọng vào
điều kiện làm việc, an ninh, tình cảm và quyết định theo trực giác.
c. Định hướng ngắn hạn - dài hạn
Thể hiện cho sự định hướng về cuộc sống và làm việc. Một xã hội theo
định hướng dài hạn như Singapore, Hong Kong, Đài Loan họ đề cao sự tiết kiệm
và kiên trì vào mục tiêu. Một nước theo định hướng ngắn hạn như Úc, Mỹ và
Pháp họ quan tâm nhiều đến cuộc sống hiện tại “ here- and-now” gắn liền với
duy trì sự ổn định cá nhân và hạnh phúc cá nhân, các thành viên trong xã hội sẽ
chi tiêu nhiều hơn và tiết kiệm ít hơn.
d. Chủ nghĩa cá nhân / tập thể
Xác định liệu trong một nền văn hóa cá nhân hay nhóm có trách nhiệm đối
với phúc lợi của mỗi thành viên. Những nhà kinh doanh theo văn hóa chủ nghĩa
cá nhân gắn trách nhiệm về các quyết định sai cho cá nhân. Trong nền văn hóa
tập thể, lỗi do quyết định sai được chia sẻ giữa các thành viên nhóm.
 Nền văn hóa định hướng theo cá nhân
Một nền văn hóa trong đó mỗi cá nhân có xu hướng chịu trách nhiệm cho
sự sung túc của anh ta hay cô ta được gọi là văn hóa định hướng theo cá nhân.
Hình thức văn hóa này thường thấy ở Úc, Canada, Tây Ban Nha, Anh và Mỹ. Sự
chú trọng vào chủ nghĩa cá nhân dẫn đến mức độ thay đổi nơi làm việc cao. Điều
này là một cân nhắc rất quan trọng.
Trong nền văn hóa chủ nghĩa cá nhân, đôi khi khó phát triển một môi
trường làm việc hợp tác hoặc “tinh thần đồng đội” giữa những người lao động.
Con người đã quen sự thừa nhận cá nhân có hướng liên đới tới các trách nhiệm
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 17
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
cá nhân hơn là cho hoạt động rộng rãi của công ty. Các công ty trong nền văn

hóa định hướng theo cá nhân có thể thấy khó tin vào sự hợp tác giữa các bên.
Các đối tác rất có thể sẽ rút lui khỏi sự hợp tác khi các mục tiêu của họ được thỏa
mãn.
 Nền văn hóa định hướng theo nhóm ( tập thể)
Một nền văn hóa trong đó một nhóm cùng chung chia sẽ trách nhiệm về
sự sung túc của mỗi thành viên được gọi là nền văn hóa định hướng theo nhóm.
Con người làm việc vì tập thể nhiều hơn các mục tiêu cá nhân và có trách nhiệm
trong nhóm đối với các hành động của họ. Toàn thể các thể chế xã hội, chính trị,
kinh tế và luật pháp phản ánh vai trò chủ yếu của nhóm. Mục tiêu duy trì sự hài
hòa nhóm được minh chứng tốt nhất thông qua cấu trúc gia đình.
Nhật Bản là một nền văn hóa khuynh hướng nhóm cổ điển. Các nhà quản
lý Nhật Bản ra quyết định chỉ sau khi xem xét ý kiến của tất cả các nhân viên cấp
dưới.
e. Các khác biệt văn hóa
Văn hoá của mỗi dân tộc có những nét đặc thù khác biệt nhau. Đây là vấn
đề hết sức quan trọng đối với các doanh nhân khi tham gia kinh doanh trên thị
trường quốc tế. Ảnh hưởng của văn hoá đối với mọi chức năng kinh doanh quốc
tế như tiếp thị, quản lý nguồn nhân công, sản xuất tài chính ở nhiều nơi, đặc
biệt những nơi có tính tự hào dân tộc cao như Nhật Bản, các công ty địa phương
cạnh tranh thành công hơn so với công ty nước ngoài do sử dụng văn hoá truyền
thống dân tộc để quảng cáo.
Mỗi một nền văn hoá lại có một mẫu thái độ và đức tin ảnh hưởng đến hầu
hết tất cả các khía cạnh của hoạt động con người. Các nhà quản lý càng biết
nhiều về những thái độ và đức tin của con người bao nhiêu thì họ càng được
chuẩn bị tốt hơn để hiểu tại sao người ta làm như vậy.
Việc thuê mướn nhân công, buôn bán của doanh nghiệp đều được điều
chỉnh và sở hữu bởi con người. Vì vậy, doanh nghiệp phải cân nhắc sự khác nhau
giữa những nhóm dân tộc và xã hội để dự đoán, điều hành các mối quan hệ và
hoạt động của mình. Sự khác nhau về con người đã làm gia tăng những hoạt
động kinh doanh khác nhau ở nhiều quốc gia trên thế giới. Điều đó buộc các nhà

hoạt động quản lý, các nhà kinh doanh phải có sự am hiểu về văn hoá của nước
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 18
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
sở tại, văn hoá của từng khu vực trên thế giới.
Thị hiếu, tập quán tiêu dùng còn có ảnh hưởng rất lớn đến nhu cầu, vì mặc
dù hàng hoá có chất lượng tốt nhưng nếu không được người tiêu dùng ưa chuộng
thì cũng khó được họ chấp nhận.
Vì vậy, nếu nắm bắt được thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng, doanh
nghiệp kinh doanh có điều kiện mở rộng khối lượng cầu một cách nhanh chóng.
Chính thị hiếu và tập quán của người tiêu dùng mang đặc điểm riêng của từng
vùng, từng châu lục, từng dân tộc và chịu ảnh hưởng của các yếu tố văn hoá, lịch
sử, tôn giáo.
Ngôn ngữ cũng là một yếu tố quan trọng trong nền văn hoá của từng quốc
gia. Nó cung cấp cho các nhà sản xuất kinh doanh một phương tiện quan trọng để
giao tiếp trong quá trình kinh doanh quốc tế.
Tôn giáo có thể ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày của con người và do
đó ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Ví dụ, thời gian mở cửa hoặc đóng cửa;
ngày nghỉ, kỳ nghỉ, lễ kỷ niệm Vì vậy, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
phải được tổ chức cho phù hợp với từng loại tôn giáo đang chi phối thị trường
mà doanh nghiệp đang hoạt động.
2.2.4 Yếu tố công nghệ:
Các yếu tố công nghệ là rất quan trọng trong môi trường quốc tế, trình độ
công nghệ ở các quốc gia khác nhau ảnh hưởng đến bản chất thị trường và khả
năng của các công ty để kinh doanh. Trên thực tế, có rất nhiều việc chuyển giao
công nghệ xảy ra trong quá trình kinh doanh quốc tế. Chuyển giao công nghệ
được chuyển giao công nghệ từ những người sở hữu nó đển những người không.
Công nghệ có thể là hàng hoá, quá trình xử lý hay là công nghệ xây dựng tiên
tiến.
Ví dụ, sau khi xây dựng Tungsram, một hãng sản xuất bóng đèn nhà nước
tại Budapest, Hungary, để tăng cường vị trí sang châu Âu của nó, General

Electric đại tu các công nghệ của các nhà máy Tungsram và hệ thống máy tính
của nó.
Khoa học kỹ thuật, công nghệ sản xuất ngày càng phát triển dẫn đến quá
trình chuyên môn hóa ngày càng sâu. Sản xuất sản phẩm của nhiều nghành đã
mang tính toàn cầu, mỗi quốc gia chỉ sản xuất một cụm chi tiết hoặc thậm chí là
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 19
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
một chi tiết của sản phẩm. Điều này làm cho việc sản xuất giữa các quôc gia gắn
chặt với nhau hơn.
2.3. LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA CÁC QUỐC GIA
2.3.1 Khái niệm
Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia chỉ các yếu tố môi trường (kinh tế,
chính trị - pháp luật, văn hóa xã hội, công nghệ) trong một quốc gia có thể thúc
đẩy sự đổi mới trong các ngành công nghiệp cụ thể, vì thế tăng viễn cảnh thành
công cho các công ty thuộc quốc gia này khi hoạt động quốc tế.
2.3.2 Tầm quan trọng của lợi thế cạnh tranh quốc gia
Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở
tất cả các ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ có thể thành công
trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững
trong một số ngành nào đó. Porter phê phán các học thuyết cổ điển trước đây cho
rằng ưu thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thương trường cạnh tranh quốc
tế là chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối của Adam Smith hay chỉ có lợi thế so sánh của
David Ricardo. Theo ông, khả năng cạnh tranh của một quốc gia ngày nay lại
phụ thuộc vào khả năng sáng tạo và sự năng động của ngành của quốc gia đó.
Khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ
chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang
những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài
của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế.
Khi nền tảng của cạnh tranh càng chuyển dịch sang sự sáng tạo và tri thức
mới thì vai trò của quốc gia càng tăng lên. Lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo

ra và thông qua quá trình địa phương hóa cao độ. Sự khác biệt về giá trị quốc gia,
văn hóa, cấu trúc kinh tế, thiết chế và lịch sử, tạo nên ưu thế quyết định sự thành
công trong cạnh tranh. Các quốc gia thành công ở một số ngành trên thị trường
toàn cầu vì môi trường trong nước của họ năng động, đi tiên phong và nhiều sức
ép nhất. Các công ty của họ thu được lợi thế so với các đối thủ quốc tế nhờ việc
có các đối thủ mạnh trong nước, nhờ có các nhà cung cấp có khả năng trong
nước, nhờ sự phong phú nhu cầu khách hàng trong nước và sự liên kết chặt chẽ
của các ngành phụ trợ.
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 20
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
Lợi thế cạnh tranh quốc gia thường bị hiểu nhầm với lợi thế so sánh. Lợi
thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế một khía cạnh nào đó của
một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó, như những điều kiện tự
nhiên, tài nguyên hay con người. Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường
được coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy nhiên đây mới chỉ
là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh đảm
bảo cho sự thành công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả
năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như: khách hàng,
nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho doanh
nghiệp.
Chẳng hạn, các nước nổi tiếng về du lịch như Ý và Thái Lan đã tận dụng
lợi thế so sánh về thiên nhiên và các công trình văn hóa di tích lịch sử để phát
triển ngành công nghiệp không khói này rất thành công và hiệu quả. Tuy nhiên,
họ thành công không phải chỉ dựa vào những di sản văn hóa và thiên nhiên ban
cho, mà vì họ đã tạo ra cả một nền kinh tế phục vụ cho du lịch với rất nhiều dịch
vụ gia tăng kèm theo, từ dịch vụ khách sạn, nhà hàng, lễ hội đến các dịch vụ vui
chơi giải trí, các trung tâm mua sắm và các chương trình tiếp thị toàn cầu. Điều
đó đã tạo cho họ có lợi thế cạnh tranh quốc gia mà các nước khác khó có thể vượt
trội.
Việt Nam có lợi thế so sánh trong ngành du lịch với một quần thể di sản

thiên nhiên và văn hóa độc đáo ở cả 3 miền của đất nước, nhưng muốn có lợi thế
cạnh tranh quốc gia để giành ưu thế trên thương trường quốc tế, Việt Nam cần có
sự phối kết hợp hài hòa một hệ thống cung cấp giá trị gia tăng theo “các viên đá
tảng kim cương của Porter”, những hoạt động giải quyết thị trường đầu ra, thị
trường đầu vào cung cấp các hoạt động cần thiết cho ngành du lịch, như cung cấp
đồ ăn thức uống, dịch vụ vui chơi giải trí và các ngành hỗ trợ, như giao thông cầu
đường, các ngành vận tải đường sông, đường bộ, hàng không, đến ngành quảng
cáo tạo ra sự liên kết chặt chẽ. Đây là những mối quan hệ tương hỗ cơ bản tạo
ra giá trị gia tăng của ngành. Sự hợp tác càng hiệu quả bao nhiêu thì năng suất
lao động của ngành càng cao bấy nhiêu và là cơ sở tạo ra lợi thế cạnh tranh của
ngành và quốc gia.
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 21
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
CHƯƠNG 3:
PHÁN ĐOÁN CÁC VẤN ĐỀ CHIẾN LƯỢC
3.1. KHÁI QUÁT VỀ CHIẾN LƯỢC KINH DOANH QUỐC TẾ
3.1.1 Khái niệm về chiến lược kinh doanh quốc tế
Chiến lược kinh doanh nói chung là sự tập hợp một cách thống nhất các
mục tiêu, các chính sách và sự phối hợp các hoạt động của một đơn vị kinh
doanh chiến lược trong tổng thể nhất định. Chiến lược kinh doanh phản ánh các
hoạt động của một đơn vị kinh doanh chiến lược bao gồm quá trình đặt ra mục
tiêu và các biện pháp, các phương tiện sử dụng để đạt được mục tiêu đó.
Chiến lược kinh doanh quốc tế là một bộ phận trong chiến lược kinh doanh
và phát triển của công ty, nó bao gồm các mục tiêu dài hạn mà công ty cần phải
đạt được thông qua các hoạt động kinh doanh quốc tế, các chính sách và các giải
pháp lớn nhằm đưa hoạt động quốc tế hiện tại của công ty phát triển lên một
trạng thái mới cao hơn về chất.
3.1.2 Vai trò của chiến lược
Chiến lược kinh doanh đóng vai trò định hướng hoạt động cho doanh
nghiệp. Chiến lược kinh doanh chỉ ra được những lợi thế và bất lợi của doanh

nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp khai thác triệt để các cơ hội kinh doanh,
tối thiểu hoá các mối đe doạ và các rủi ro trong hoạt động, khai thác các lợi thế
cạnh tranh để hoạt động có hiệu quả so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Hầu hết, các công ty kinh doanh quốc tế lập kế hoạch dài hạn, và họ nỗ
lực trong hoạt động kinh doanh ở các nước khác, nhằm mục tiêu chính trở thành
một tập đoàn đa quốc gia. Vì thế, chúng ta xem xét các phương pháp gia nhập
kinh doanh quốc tế chính, trước khi tiếp cận xem xét các chiến lược của tập đoàn
đa quốc gia.
3.2. CÁC PHƯƠNG PHÁP GIA NHẬP THỊ TRƯNG QUỐC TẾ
3.2.1 Xuất khẩu
3.2.1.1 Khái niệm
Xuất khẩu là hoạt động đưa các hàng hóa và dịch vụ từ quốc gia này
sang quốc gia khác. Xuất khẩu được coi là hình thức thâm nhập thị trường nước
ngoài ít rủi ro và chi phí thấp. Dưới giác độ kinh doanh, xuất khẩu là việc bán các
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 22
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
hàng hóa và dịch vụ. Dưới giác độ phi kinh doanh như làm quà tặng hoặc viện
trợ không hoàn lại thì hoạt động đó lại là việc lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ
qua biên giới quốc gia. Trong kinh doanh, hoạt động xuất khẩu diễn ra dưới hai
hình thức là xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp.
3.2.1.2. Các hình thức xuất khẩu
a. Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp là hoạt động bán hàng trực tiếp của một công ty cho
các khách hàng của mình ở thị trường nước ngoài.
Việc các công ty bán hàng sang thị trường quốc gia khác là hoạt động
tham gia quốc tế của các công ty đó. Các công ty có kinh nghiệm quốc tế thường
trực tiếp bán các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Khách hàng của
công ty không chỉ đơn thuần là người tiêu dùng. Những ai có nhu cầu mua và
tiêu dùng sản phẩm của công ty đều là khách hàng của công ty. Để thâm nhập thị
trường quốc tế qua xuất khẩu trực tiếp, các công ty thường sử dụng hai hình thức

chủ yếu sau:
* Đại diện bán hàng.
Đại diện bán hàng là hình thức bán hàng không mang danh nghĩa của
mình mà lấy danh nghĩa của người ủy thác nhằm nhận lương và một phần hoa
hồng trên cơ sở giá trị hàng hóa bán được. Trên thực tế, đại diện bán hàng hoạt
động như là nhân viên bán hàng của công ty ở thị trường nước ngoài. Công ty sẽ
ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng tở thị trường đó.
* Đại lý phân phối.
Đại lý phân phối là người mua hàng hóa của công ty để bán theo kênh tiêu
thụ ở khu vực mà công ty phân định. Công ty khống chế phạm vi phân phối,
kênh phân phối ở thị trường nước ngoài. Đại lý phân phối chấp nhận toàn bộ rủi
ro liên quan đến việc bán hàng hóa ở thị trường đã phân định và thu lợi nhuận
qua chênh lệch giữa giá mua và giá bán.
b. Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là hình thức bán hàng hóa và dịch vụ của công ty ra
nước ngoài thông qua trung gian (thông qua người thứ 3)
Các trung gian mua bán chủ yếu trong kinh doanh xuất khẩu là : đại lý,
công ty quản lý xuất nhập khẩu và công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Các trung
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 23
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
gian mua bán này không chiếm hữu hàng hóa của công ty nhưng trợ giúp công ty
xuất khẩu hàng hóa sang thị trường nước ngoài.
* Đại lý (Agent)
Đại lý là các cá nhân hay tổ chức đại diện cho nhà xuất khẩu thực hiện
một hay một số hoạt động nào đó ở thị trường nước ngoài.
Đại lý chỉ thực hiện một công việc nào đó cho công ty ủy thác và nhận thù
lao. Đại lý không chiếm hữu và sở hữu hàng hóa. Đại lý là người thiết lập quan
hệ hợp đồng giữa công ty và khách hàng ở thị trường nước ngoài.
* Công ty quản lý xuất khẩu (Export management company)
Công ty quản lý xuất khẩu là các công ty nhận ủy thác và quản lý công tác

xuất khẩu hàng hóa.
Công ty quản lý xuất khẩu hàng hóa hoạt động trên danh nghĩa của công
ty xuất khẩu nên là nhà xuất khẩu gián tiếp. Công ty quản lý xuất khẩu đơn thuần
làm các thủ tục xuất khẩu và thu phí dịch vụ xuất khẩu. Bản chất công ty quản lý
xuất khẩu là làm các dịch vụ quản lý và thu được một khoản thù lao nhất định từ
các hoạt động đó.
* Công ty kinh doanh xuất khẩu (Export trading company)
Công ty kinh doanh xuất khẩu là công ty hoạt động như nhà phân phối độc
lập có chức năng kết nối các khách hàng nước ngoài với các công ty xuất khẩu
trong nước để đưa các hàng hóa ra nước ngoài tiêu thụ.
Ngoài việc thực hiện các hoạt động liên quan trực tiếp đến xuất khẩu, các
công ty này còn cung ứng các dịch vụ xuất nhập khẩu và thương mại đối lưu,
thiết lập và mở rộng các kênh phân phối, tài trợ cho các dự án thương mại và đầu
tư, thậm chí trực tiếp thực hiện sản xuất để bổ trợ một công đoạn nào đó cho các
sản phẩm, thí dụ bao gói, in ấn…
Bản chất của công ty kinh doanh xuất khẩu là thực hiện các dịch vụ xuất
khẩu nhằm kết nối các khách hàng nước ngoài với công ty xuất khẩu. Tuy nhiên,
các công ty kinh doanh dịch vụ xuất khẩu này có nhiều vốn, mối quan hệ và có
sở vật chất tốt nên có thể làm các dịch vụ bổ trợ cho hoạt động xuất khẩu của
công ty xuất khẩu. Công ty kinh doanh xuất khẩu có kinh nghiệm, chuyên sâu về
thị trường nước ngoài và có các chuyên gia chuyên làm dịch vụ xuất khẩu. Các
công ty kinh doanh xuất khẩu có nguồn thu từ các dịch vụ xuất khẩu và tự bỏ chi
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 24
GVHD: TS. Nguyễn Thanh Hội Chuyên đề: Quản Trị Quốc Tế
phí cho hoạt động của mình. Các công ty này có thể cung cấp các chuyên gia
xuất khẩu cho các công ty xuất khẩu.
* Đại lý vận tải
Đại lý vận tải là các công ty thực hiện dịch vụ thuê vận chuyển và những
hoạt động có liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa như khai báo hải quan, áp
thuế hải quan, thực hiện giao nhận chuyên chở và bảo hiểm.

Các đại lý vận tải này cũng thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và phát
triển nhiều loại hình dịch vụ giao nhận hàng hóa đến tận tay người nhận. Khi các
công ty xuất khẩu thông qua các đại lý vận tải hay các công ty chuyển phát hàng
rhì các đại lý và các công ty đó cũng làm các dịch vụ xuất nhập khẩu thông qua
hàng hóa đó. Bản chất của các đại lý vận tải hoạt động như các công ty kinh
doanh dịch vụ giao nhận vận chuyển và dịch vụ xuất nhập khẩu, thậm chí cả dịch
vụ bao gói hàng hóa cho phù hợp với phương thức vận chuyển, mua bảo hiểm
hàng hóa cho hoạt động của họ.
3.2.1.3 Ưu nhược điểm của phương pháp gia nhập thông qua xuất
khẩu
a. Ưu điểm
Thâm nhập thị trường nước ngoài thông qua hình thức xuất khẩu sẽ giúp
cho các công ty tăng được doanh số bán hàng, tiếp thu được kinh nghiệm kinh
doanh quốc tế, tận dụng được những năng lực dư thừa và tăng thu ngoại tệ cho
đất nước. Đặc biệt, hình thức thâm nhập này ít bị rủi ro, không tốn nhiều chi phí
nên dễ áp dụng trong giai đoạn đầu mới thâm nhập thị trường quốc tế.
b. Nhược điểm
− Khó khăn trong việc tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng nên
không có các biện pháp mạnh để cạnh tranh.
− Các công ty cũng không am hiểu sâu sắc phong tục tập quán, luật pháp
của thị trường nơi công ty thâm nhập nên cũng dễ bị mất thị trường.
− Chi phí vận chuyển cao, khó khăn về thuế cũng như các rào cản thương
mại.
3.2.2 Cấp phép (Licensing)
3.2.2.1 Khái niệm
Lớp cao học Đêm 5 – K20 – Nhóm 11 Trang 25

×