CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
MỞ ĐẦU
Theo đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hệ thống thu ngân
sách nhà nước của Việt Nam giai đoạn từ năm 1990 trở về trước chủ yếu từ kinh tế
quốc doanh và có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế (giữa khu vực kinh tế quốc
doanh và khu vực kinh tế tập thể, cá thể). Song song với vấn đề đó là hệ thống bộ máy
quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả do thiếu mối quan hệ và kết hợp giữa nhiều cơ quan
quản lý khác nhau cùng tồn tại. Năm 1990, nguồn thu thuế chỉ đáp ứng được 47% nhu
cầu chi ngân sách, do đó, chi ngân sách phải dựa vào nguồn thu khác rất lớn (43%),
trong đó chủ yếu là dựa vào vay nợ, viện trợ nước ngoài và cả biện pháp phát hành
tiền. Điều này làm cho tình trạng nợ công của Việt Nam trong giai đoạn này trở nên
căng thẳng. Nếu tình trạng khủng hoàng nợ công này kéo dài sẽ dẫn đến hậu quả nặng
nề cả về mặt kinh tế lẫn chính trị cho Việt Nam.
Từ đó, yêu cầu cấp bách được đặt ra là phải cải cách hệ thống thu ngân sách
nhà nước, mà một trong những nhiệm vụ chính yếu là cải cách hệ thống thuế theo
định hướng mục tiêu là xóa bỏ hệ thống thu theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung và
hình thành một hệ thống thu thuế thích ứng với cơ chế thị trường đang chuyển đổi.
Như vậy, đến giai đoạn hiện nay, tình trạng nợ công quá cao của Chính phủ
Việt Nam đã được khắc phục như thế nào sau 20 năm tiến hành cải cách, đặc biệt là
cải cách hệ thống thuế. Đây chính là mục tiêu trọng tâm mà nội dung đề tài tiểu luận
này muốn hướng đến.
Với định hướng như trên, bố cục của bài tiểu luận như sau:
√ Chương 1: Sơ lược các nội dung cải cách thuế của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay – Tầm nhìn đến năm 2020.
√ Chương 2: Nợ công ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 1
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
CHƯƠNG 1: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY – TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020
A. CẢI CÁCH THUẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Theo đặc điểm của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, hệ thống thu ngân
sách nhà nước của Việt Nam giai đoạn từ năm 1990 trở về trước chủ yếu từ kinh tế
quốc doanh và có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế (giữa khu vực kinh tế quốc
doanh và khu vực kinh tế tập thể, cá thể). Song song với vấn đề đó là hệ thống bộ máy
quản lý cồng kềnh, kém hiệu quả do thiếu mối quan hệ và kết hợp giữa nhiều cơ quan
quản lý thuế khác nhau cùng tồn tại. Năm 1990, nguồn thu thuế chỉ đáp ứng được
47% nhu cầu chi ngân sách, do đó, chi ngân sách phải dựa vào nguồn thu khác rất lớn
(43%), trong đó chủ yếu là dựa vào vay nợ, viện trợ nước ngoài và cả biện pháp phát
hành tiền.
Trước nhu cầu đổi mới, phát triển kinh tế đất nước định hướng theo nền kinh
tế thị trường, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương cải cách hệ thống thuế nhằm phát
huy vai trò của thuế là nguồn thu chủ yếu và là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô.
Theo đó, chính sách thuế đã liên tục đổi mới và hoàn thiện hơn qua các giai
đoạn:
Cải cách thuế bước 1 (1990 – 1996)
Cải cách thuế bước 2 (1997 – 2002)
Cải cách thuế bước 3 (2002 – đến nay)
I. Sơ lược các nội dung trọng tâm trong giai đoạn cải cách thuế bước một và
bước hai:
1. Cải cách thuế bước một (1990 – 1996):
Từ năm 1991 đến năm 1996 vào những thời điểm quan trọng, Quốc hội đã
ban hành nhiều sắc thuế dưới hình thức Luật hoặc Pháp lệnh nhằm hình thành nên
một hệ thống thuế mới tương đối hoàn chỉnh về chức năng và áp dụng thống nhất cho
các thành phần kinh tế. Bằng hình thức Luật, có 06 Luật được ban hành: Thuế doanh
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 2
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
thu (30/06/1990); Thuế tiêu thụ đặc biệt (30/06/1990); Thuế lợi tức (30/06/1990);
Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (26/12/1991); Thuế sử dụng đất nông nghiệp
(10/03/1993); Thuế chuyển quyền sử dụng đất (01/07/1994). Bằng hình thức pháp
lệnh có: Thuế tài nguyên (30/03/1990); Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
(27/12/1990); Thuế nhà đất (31/07/1992).
Nhìn chung, mục tiêu của giai đoạn cải cách thuế bước 1 nhằm phù hợp với
nền kinh tế đa thành phần bằng việc thiết lập nền tảng cơ bản cho khối kinh tế ngoài
quốc doanh, đặc biệt là khuyến khích cá nhân bỏ vốn kinh doanh. Tuy nhiên, phần lớn
các sắc thuế đưa ra trong giai đoạn cải cách đầu tiên đều bắt nguồn từ hệ thống thuế
theo cơ chế cũ, vì vậy không tránh khỏi tồn tại một số cơ chế mang tính phân biệt đối
xử mà các sắc thuế trước đó vốn có. Tồn tại này của hệ thống ngày càng ảnh hưởng
đến sự phát triển của nền kinh tế đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung, kế hoạch
hoá, sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chiến lược phát triển
kinh tế dựa vào xuất khẩu. Điều này thúc đẩy sự ra đời của giai đoạn cải cách thuế
bước 2.
2. Cải cách thuế bước hai (1997 – 2002):
Giai đoạn cải cách thuế này ưu tiên cải cách thay thuế doanh thu bằng thuế
giá trị gia tăng (GTGT), và thay thuế lợi tức bằng thuế thu nhập doanh nghiệp
(TNDN). Lúc này tình hình kinh tế đã thay đổi khi Việt Nam bước đầu tham gia vào
các Hiệp định thương mại quốc tế và song phương, và đang nỗ lực đàm phán gia nhập
vào Tổ chức Thương mại thế giới WTO. Việc ban hành thuế GTGT, với tính chất
trung lập đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, đã đáp ứng yêu cầu phù hợp với
thông lệ quốc tế và khuyến khích xuất khẩu. Thuế TNDN được cải cách theo hướng
thống nhất áp dụng đối với các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, đáp ứng yêu cầu gia nhập
WTO.
Tuy nhiên, cải cách thuế giai đoạn này vẫn tồn tại nhiều hạn chế như: hệ
thống thuế chưa thực sự đồng bộ, phù hợp với cơ chế thị trường; chưa xóa bỏ triệt để
các bao cấp qua thuế; chính sách thuế còn có những điểm quy định chưa chặt chẽ, tạo
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 3
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
kẽ hở cho các tổ chức, cá nhân lợi dụng gian lận thuế… ; công tác quản lý thuế còn
yếu kém, chưa đẩy mạnh ứng dụng tin học vào công tác quản lý thuế; một bộ phận
cán bộ thuế yếu cả về trình độ và phẩm chất đạo đức, chưa đáp ứng được yêu cầu của
sự nghiệp đổi mới ….từ đó làm giảm hiệu quả của một số sắc thuế, ảnh hưởng đến
nguồn thu ngân sách nhà nước.
II. Mục tiêu và nội dung cải cách hệ thống thuế bước 3 (giai đoạn từ năm 2002
đến nay)
1. Mục tiêu tổng quát.
Xây dựng hệ thống chính sách thuế đồng bộ, có cơ cấu hợp lý phù hợp với
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hóa công tác
quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo nguồn
lực tài chính phụ vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, góp phần thực
hiện bình đẳng, công bằng xã hội và chủ động trong hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Mục tiêu, yêu cầu cụ thể:
Chính sách thuế, phí và lệ phí (sau đây gọi chung là chính sách thuế) phải là
công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, động viên được
các nguồn lực, thúc đẩy phát triển nhanh sản xuất; khuyến khích xuất khẩu…
Chính sách thuế phải huy động đầy đủ các nguồn thu vào ngân sách nhà
nước, đảm bảo nhu cầu chi tiêu thường xuyên của Nhà nước và dành một phần cho
tích lũy phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Chính sách thuế phải thể hiện và tạo ra những nội dung cụ thể phù hợp với
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo đảm được yêu cầu về bảo hộ có
chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện một cách hợp lý, tăng sức cạnh tranh của nền kinh
tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, bảo đảm lợi ích quốc gia.
Chính sách thuế phải tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng; áp dụng
hệ thống thuế thống nhất không phân biệt giữa các thành phần kinh tế cũng như giữa
các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 4
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Đẩy mạnh cải cách hệ thống thuế theo hướng đơn giản, minh bạch, công khai;
tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách thuế.
Nhanh chóng hiện đại hóa và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý thuế;
khắc phục các hiện tượng tiêu cực, yếu kém làm cho bộ máy quản lý thuế trong sạch,
vững mạnh.
3. Nội dung cải cách hệ thống thuế.
Cải cách thể chế nhằm xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ, có cơ cấu phù
hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, gắn với hiện đại hóa công
tác quản lý thuế nhằm đảm bảo chính sách động viên thu nhập quốc dân, đảm bảo
nguồn lực tài chính phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Cải cách và hiện đại hóa công tác tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế nhằm
mục tiêu chiến lược là tuyên truyền chính sách pháp luật thuế và cung cấp dịch vụ hỗ
trợ người nộp thuế có chất lượng cao từ đó nâng cao sự hiểu biết pháp luật về thuế, sự
ủng hộ mạnh mẽ của các tổ chức cá nhân trong toàn xã hội, góp phần nâng cao tính
tuân thủ tự nguyện các luật thuế của người nộp thuế.
Cải cách và hiện đại hóa công tác thanh tra nhằm nâng cao chất lượng và hiệu
quả của công tác thanh tra, kiểm tra thuế nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời
các trường hợp vi phạm luật thuế đảm bảo công bằng xã hội và hiệu luật quản lý thuế.
Cải cách và hiện đại hóa công tác quản lý thu nợ thuế là nhằm đổi mới công
tác thu nợ, đảm bảo số trường hợp nợ và số thuế nợ hàng năm phát sinh giảm so với
năm trước, chống thất thu thuế hiệu quả thông qua kịp thời phát hiện và xử lý các
người nộp thuế cố ý chây ỳ, nợ thuế, chiếm đoạt tiền thuế và các khoản tiền phạt liên
quan đến thuế. Cải cách và hiện đại hóa hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu về tổ chức,
cá nhân nộp thuế nhằm xây dựng hệ thống thông tin cơ sở dữ liệu của ngành thuế
phục vụ cho yêu cầu quản lý thuế hiện đại, hiệu quả theo mô hình quản lý theo chức
năng và ứng dụng kỹ thuật quản lý rủi ro trong quản lý thuế.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 5
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Phát triển tin học thực hiện mục tiêu hiện đại hóa toàn diện công tác quản lý
thuế, áp dụng rộng rãi công nghệ thông tin để nâng cao hiệu lực và hiệu quả của công
tác quản lý.
Kiện toàn tổ chức ngành thuế hướng tới bổ sung đầy đủ nhiệm vụ và quyền
hạn của cơ quan thuế các cấp; hoàn thành việc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy quản lý
theo hướng chức năng. Tổ chức bộ máy quản lý thuế chủ yếu theo mô hình chức năng
kết hợp với quản lý theo sắc thuế và theo đối tượng nhằm đảm bảo có thể thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan thuế một cách đầy đủ để các
doanh nghiệp có thể thực hiện tự khai và tự nộp thuế vào ngân sách nhà nước.
Xây dựng cơ cấu cán bộ theo chức năng tại từng cấp cơ quan thuế và chính
sách phát triển cán bộ đảm bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực cho công tác quản lý thuế
của ngành. Đồng thời, ngành thuế cần chính sách phát triển nguồn lực cho yêu cầu
hiện đại hóa.
Nâng cao năng lực cán bộ thuế nhằm nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
theo hướng: đảm bảo được trang bị đầy đủ kỹ năng cần thiết theo từng chức năng
quản lý thuế được phân công. Đồng thời tăng cường các kiến thức chuyên môn, tin
học, ngoại ngữ đáp ứng yêu cầu quản lý.
Quản lý chất lượng công việc và tổ chức thực hiện dự án cải cách và hiện đại
hóa hệ thống thuế đảm bảo tất cả các chương trình thực hiện kế hoạch cải cách và
hiện đại hóa ngành thuế đến năm 2010 cùng định hướng nhằm đạt mục tiêu chung.
Chương trình này phối hợp đồng bộ, thống nhất đồng thời quản lý và giám sát toàn bộ
các hoạt động của các chương trình, điều phối nguồn lực và kinh phí cho các chương
trình đi đến thành công.
III. Những kết quả đạt được của việc cải cách chính sách thuế
1. Về tính pháp lý
Hiện nay, về cơ bản, hệ thống thuế đã bao gồm tương đối đầy đủ các sắc
thuế cần thiết của một hệ thống thuế hiện đại, bao quát hết tất cả các ngành thu. Theo
đó, cùng với tiến trình cải cách, hệ thống thuế Việt Nam đã được luật hóa, hay ít nhất
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 6
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
cũng được ban hành dưới hình thức pháp lệnh và áp dụng thống nhất cho cả nước,
bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế.
Trong giai đoạn cải cách bước 3, Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung các Luật
thuế: Luật thuế Giá trị gia tăng (GTGT); Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB); Luật
thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN); Luật thuế xuất, nhập khẩu (XNK); Pháp lệnh
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (TNC); …
Hầu hết các Luật, Pháp lệnh thuế sửa đổi, bổ sung và ban hành mới đều giảm
nghĩa vụ cho người nộp thuế, tạo điều kiện tích lũy, tái sản xuất mở rộng cho người
dân và doanh nghiệp: Về thuế GTGT: mở rộng diện không chịu thuế và thuế suất 0%;
áp dụng 2 mức thuế suất thấp 5% và 10%, bỏ mức thuế suất cao 20%. Về thuế
TNDN: Giảm thuế suất mức phổ thông từ 32% xuống còn 28%, từ 1-1-2009 hạ xuống
còn 25%. ; Về thuế TNCN: cho tính triết trừ gia cảnh ở mức cao hơn đồng thời giảm
mức thuế suất cao nhất từ 45% xuống còn 40%. Thuế CQSD đất giảm 5 lần; lệ phí
trước bạ tài sản giảm 2 lần. Hầu hết các loại phí, lệ phí mức tiêu thu đều giảm và đã
xóa bỏ trên 340 loại phí, lệ phí gây phiền hà, tốn kém cho người dân và doanh
nghiệp… Đối với người có thu nhập cao, thuế suất thuế thu nhập thấp nhất ban đầu là
10%, cao nhất tới 60%, rồi xuống 50%, nay thuế suất thuế thu nhập cá nhân tương
ứng 5% và 35%
2. Về đảm bảo thể hiện đầy đủ vai trò của thuế
a. Thuế là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước
Cùng với quá trình cải cách, nguồn thu thuế không những đáp ứng đầy đủ
kế hoạch chi tiêu thường xuyên mà còn có phần thặng dư để đáp ứng nhu cầu chi đầu
tư ngày một tăng lên của nhà nước. Mức độ động viên từ thuế và phí vào ngân sách
nhà nước ngày càng tăng và tạo thành một xu hướng ổn định năm sau cao hơn năm
trước.
b. Thuế là công cụ điều tiết kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 7
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Hệ thống chính sách thuế hiện nay được đánh giá như là một trong những
yếu tố mang tính đòn bẩy, góp phần giúp Nhà nước thực hiện hiệu quả vai trò điều tiết
kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường với những thành quả đã đạt được như:
khuyến khích được đầu tư, thúc đẩy sản xuất kinh doanh; khuyến khích xuất khẩu,
bảo hộ sản xuất hàng trong nước…. Điển hình một số cải cách thuế như: áp dụng mức
thuế suất 0% của thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa và dịch vụ xuất khẩu; quy định
một số ưu đãi nhất định đối với những doanh nghiệp xuất khẩu lớn trong Luật thuế
thu nhập doanh nghiệp;
c. Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối
Hệ thống chính sách thuế đã xoá bỏ sự chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa
các thành phần kinh tế trong nước; thu hẹp chênh lệch về nghĩa vụ thuế giữa doanh
nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tạo môi trường cạnh
tranh bình đẳng trong cơ chế thị trường
3. Về quản lý thuế
Đã hình thành một hệ thống tổ chức quản lý thuế thống nhất trong cả nước
và ngày càng được củng cố và tăng cường về mọi mặt; chịu sự lãnh đạo song trùng
của ngành dọc và cấp uỷ, chính quyền địa phương.
Công tác quản lý thuế đã có những chuyển biến tích cực theo hướng rõ
ràng, công khai, dân chủ và minh bạch hơn, từng bước chuyển từ chế độ chuyên quản
khép kín sang chế độ người nộp thuế tự tính, tự khai và nộp thuế theo thông báo của
cơ quan thuế. Bên cạnh đó, một trong những thành tựu của việc cải cách thuế còn
phải kể đến trình độ quản lý và phẩm chất của đội ngũ cán bộ quản lý thuế được ngày
càng nâng cao thông qua việc chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ quản lý
và phẩm chất của các cơ quan quản lý thuế.
Cải cách thuế, đặc biệt là cải cách hành chính thuế còn gắn quá trình ứng
dụng công nghệ thông tin (CNTT) được bắt đầu từ năm 2005 như: phần mềm hỗ trợ
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 8
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
kê khai; hệ thống nộp tờ khai thuế qua mạng; xây dựng ứng dụng CNTT đáp ứng yêu
cầu quản lý thuế TNCN từ cuối năm 2008; phần mềm đăng ký mã số thuế thu nhập cá
nhân; hỗ trợ người nộp thuế (ứng dụng QHS…
4. Về tính quốc tế
Qua các lần cải cách, đến nay, hệ thống thuế đã đạt được bước đầu các kết quả
quan trọng:
+ Ứng dụng chính sách thuế tiên tiến và quản lý thuế hiện đại của quốc tế vào
hệ thống thuế Việt Nam thông qua việc hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thuế để mở
rộng hiểu biết, tích luỹ kinh nghiệm .
+ Vừa bảo hộ được sản xuất trong nước, vừa chủ động thực hiện chính sách
mở cửa để thu hút đầu tư, tự do hoá thương mại, thực hiện lộ trình cam kết về thuế
với các nước ASEAN, EU, Hoa Kỳ và các tổ chức quốc tế khác.
+ Đã đàm phán và ký Hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với trên 50 nước, tạo cơ
sở pháp lý để các nhà đầu tư nước ngoài, người nước ngoài đến Việt Nam kinh doanh
sinh sống không bị đánh thuế trùng lắp
IV. Những hạn chế của việc cải cách chính sách thuế
Bên cạnh những thành tựu đạt được, hệ thống thuế Việt Nam trong thời kỳ
này vẫn còn một số tồn tại cần tiếp tục khắc phục hoàn thiện như sau:
1. Về chính sách thuế
Hệ thống chính sách thuế vẫn chưa bao quát được hết tất cả đối tượng chịu
thuế, đối tượng nộp thuế. Nguyên nhân là do khi xây dựng chính sách thuế chưa nhận
thức hết phạm vi điều chỉnh của từng sắc thuế và chưa lường hết các nguồn thu sẽ
phát sinh trong quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường.
Hệ thống chính sách thuế còn nhiều mức thuế suất nên chưa thúc đẩy mạnh
mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyên môn hoá và hợp tác hoá trong sản xuất kinh
doanh.
Một số chính sách thuế như thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt còn nặng
về bảo hộ sản xuất trong nước. Các mặt hàng mới được sản xuất trong nước đều được
bảo hộ bằng mức thuế nhập khẩu cao.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 9
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Hệ thống chính sách thuế vẫn còn lồng ghép nhiều chính sách xã hội, còn
nhiều mức miễn giảm thuế làm hạn chế tính trung lập, không đảm bảo công bằng giữa
các đối tượng nộp thuế, dễ phát sinh tiêu cực, làm phức tạp công tác quản lý thuế.
2. Về quản lý thuế
Cơ cấu kinh tế không đồng bộ làm cho việc thu thuế và đánh thuế có những
khó khăn nhất định.
Nội dung các sắc thuế còn phức tạp, cơ chế quản lý thuế chưa được quy
định rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thủ tục hành chính thuế còn
rườm rà, gây khó khăn cho tổ chức, cá nhân nộp thuế. Chưa quy định rõ trách nhiệm
của các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan chức năng, các tổ chức, cá nhân có
liên quan đến công tác thuế.
Nhìn chung, trình độ hiểu biết về thuế ý thức chấp hành các luật, pháp lệnh
về thuế của đại bộ phận nhân dân, kể cả cán bộ, đảng viên trong các cơ quan nhà nước
còn nhiều hạn chế chưa tạo được dư luận rộng rãi lên án mạnh mẽ các hành vi trốn
thuế, gian lận về thuế, thậm chí còn khá nhiều trường hợp thờ ơ, khuyến khích, đồng
tình.
Hệ thống thông tin yếu kém, nghèo nàn về cơ sở dữ liệu làm hạn chế hiệu
quả công tác quản lý thuế. Hơn nữa do những hạn chế về tài chính, các cơ quan thuế
và thống kê có gặp phải nhiều khó khăn trong việc tổng hợp và đưa ra những số liệu
thống kê một cách chi tiết và đáng tin cậy.
+ Một bộ phận cán bộ quản lý thuế trình độ hiểu biết và thực thi về chính
sách thuế còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu quản lý hiện đại và yêu cầu cải cách
hành chính trong quản lý thu. Thái độ và phong cách ứng xử của cán bộ thuế còn có
một số trường hợp chưa thật tận tụy, công tâm, khách quan giữa quyền lợi của nhà
nước với quyền lợi của đối tượng nộp thuế. Chưa trở thành người bạn đồng hành đáng
tin cậy của các đối tượng nộp thuế trong việc thực hiện các luật thuế.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 10
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
3. Đối với người nộp thuế:
+ Tình trạng trốn thuế, lậu thuế, gian lận về thuế, nợ đọng thuế còn diễn ra
ở nhiều khoản thu, sắc thuế, ở các địa phương trong cả nước, vừa làm thất thu cho
Ngân sách nhà nước, vừa không bảo đảm công bằng xã hội.
+ Một số doanh nghiệp, hộ gia đình cá nhân kinh doanh cố ý, tìm mọi thủ
đoạn, dưới mọi hình thức gian lận các khoản tiền thuế phải nộp như kê khai khống để
chiếm đoạt tiền hoàn thuế giá trị gia tăng từ ngân sách Nhà nước.
B. TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2020 – KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
Thực tế cho thấy, giai đoạn cải cách thuế bước 3 (2001 – 2010) mặc dù đã
có những bước tiến và thành công đáng kể, tuy nhiên, với những hạn chế như đã nêu
ở phần trên, các mục tiêu đề ra vẫn chưa được hoàn thành một cách triệt để. Hơn
nữa, các định hướng cho các chiến lược cải cách thuế trong giai đoạn này vẫn còn
nguyên giá trị và phù hợp với tiến trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Do đó,
trong giai đoạn từ 2010 – 2020, các chiến lược cải cách thuế trong giai đoạn trước
vẫn nên được tiếp tục thực hiện nhằm có thể đạt được những mục tiêu đã đề ra này.
Cụ thể, các định hướng và những việc cần làm đối với chiến lược cải cách thuế cho
giai đoạn này như sau:
Chính sách thuế phải góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, tăng cường
đầu tư đổi mới công nghệ đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa trong điều kiện VN hội
nhập vào khu vực và thế giới. Thực hiện cải cách thuế, từng bước áp dụng hệ thống
thuế thống nhất, minh bạch, trung lập, không phân biệt các thành phần kinh tế; đồng
thời tháo dỡ dần chính sách bảo hộ bằng việc xóa bỏ hàng rào phi thuế quan, cắt giảm
thuế nhập khẩu. Chính sách thuế cần được điều chỉnh cho hợp lý hơn nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp tăng cường tích tụ vốn và đầu tư thay đổi công nghệ, hiện đại
hóa sản xuất, hạ thấp giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng thị trường
tiêu thụ, bồi dưỡng nguồn thu, tăng thu nội địa cho NSNN .
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 11
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Hệ thống thuế phải đơn giản, ổn định, mang tính luật pháp cao và có sự
tương đồng với khu vực và thông lệ quốc tế. Các quy định của luật thuế cần đơn giản,
rõ ràng phù hợp với trình độ của bộ máy quản lý thuế cũng như người nộp thuế, đảm
bảo tính dễ hiểu, dễ chấp hành và dễ kiểm tra. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập, hệ
thống thuế VN phải có sự tương đồng với quốc tế về một số loại thuế có liên quan đến
thương mại và đầu tư quốc tế.
Không ngừng hoàn thiện cơ chế hành thu, tạo ra sự chuyển biến về chất
trong chính sách thuế và tương đồng với khu vực về trình độ quản lý. Từng bước hiện
đại hóa công nghệ quản lý thuế, qua đó xác lập hệ thống dữ liệu về thuế liên tục,
chính xác, kịp thời. Tiêu chuẩn hóa cán bộ thuế gắn liền với chế thưởng phạt nghiêm
minh.
Động cơ cải cách thuế còn liên quan đến các vấn đề chính trị và xã hội, đó
là khả năng tái phân phối thu nhập. đảm bảo tiếm độ và công bằng xã hội.
Xây dựng đội ngũ cán bộ , công chức thuế có phẩm chất chính trị tốt , có
đạo đức nghề nghiệp cao , có kiến thức chuyên sâu , chuyên nghiệp quản lý thuế hiện
đại , đáp ứng yêu cầu cải cách thuế hệ thống theo hướng hiện đại hóa , đáp ứng tiêu
chuẩn chức danh cán bộ công chức .
Cải cách hành chính Thuế: Cần sự thay đổi về chất Yêu cầu quan trọng
nhất của một nỗ lực cải cách là tính công khai thông tin và minh bạch trong giải
quyết. Lúc đó, cả DN và cán bộ thừa hành sẽ giám sát lẫn nhau để không bên nào làm
sai quy trình. Khắc phục những tồn tại của Luật thuế GTGT hiện hành, làm cho Luật
thuế GTGT phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội và định hướng của Nhà nước về
phát triển kinh tế trong thời kỳ tới.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 12
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
CHƯƠNG 2: NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI
PHÁP
I. Nợ công là gì?
Theo Luật Quản lý nợ công, nợ công bao gồm:
• Nợ Chính phủ: là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài,
được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các
khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo
quy định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng
thời kỳ.
• Nợ của chính quyền địa phương: là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) ký
kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
• Nợ được chính phủ bảo lãnh: là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính,
tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh.
Các hình thức vay nợ:
• Nợ trong nước: được thực hiện bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ là
chứng chỉ nhận nợ của chính phủ để phát hành để vay vốn của các tầng lớp dân
cư và các tổ chức kinh tế xã hội. Trái phiếu chính phủ tồn tại dưới các hình
thức sau:
Tín phiếu kho bạc: là trái phiếu chính phủ ngắn hạn, thời hạn dưới một năm,
được phát hành để huy động vốn nhằm giải quyết mất cân đối thu chi tiền mặt tạm
thời trong năm tài chính.
Trái phiếu kho bạc: là trái phiếu trung và dài hạn, có thời hạn trên một năm
được phát hành để huy động vốn nhằm giải quyết bội chi ngân sách đã được Quốc
hội phê chuẩn.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 13
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Trái phiếu đầu tư: là loại trái phiếu chính phủ tring và dài hạn, có thời hạn
trên một năm được phát hành để huy động vốn cho các công trình cụ thể và cho
Quỹ hỗ trợ phát triển theo kế hoạch đầu tư đã được duyệt của Nhà nước
• Nợ nước ngoài: là khoản vay ngắn hạn, trung - dài hạn phải trả lãi hoặc không
phải trả lãi do Nhà nước, Chính phủ, doanh nghiệp và tổ chức khác của Việt
Nam vay của chính phủ nước ngoài, vùng lãnh thổ, tổ chức tài chính quốc tế,
tổ chức và cá nhân nước ngoài. Các hình thức vay nợ nước ngoài:
Vay hỗ trợ phát triển chính thức: là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà
nước hoặc Chính phủ với nhà tài trợ là Chính phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song
phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc liên Chính phủ.
Vay thương mại nước ngoài của Chính phủ: tùy theo nhu cầu đầu tư phát
triển, Chính phủ có thể huy động nguồn vốn vay thương mại nước ngoài thông qua
các hình thức vay trực tiếp như vay tài chính, vay tín dụng xuất khẩu, phát hành trái
phiếu chính phủ ra thị trướng vốn Quốc tế hoặc các hình thức phù hợp khác, trong
khuôn khổ hạn mức vay thương mại hàng năm.
Như vậy, các khoản như vay vốn ODA, phát hành trái phiếu chính phủ (trong cũng
như ngoài nước), trái phiếu công trình đô thị, hay một tập đoàn kinh tế vay nợ nước
ngoài được chính phủ bảo lãnh đều được xem là nợ công. Một cách khái quát nhất, nợ
công là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa
phương hay các doanh nghiệp được chính phủ bảo lãnh đi vay nhằm tài trợ cho các
khoản thâm hụt ngân sách, nói cách khác là thâm hụt ngân sách lũy kế tính đến một
thời điểm nào đó và thường được tính bằng bao nhiêu phần trăm so với tổng sản phẩm
quốc nội (GDP).
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 14
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
II. Thực trạng nợ công ở Việt Nam:
1. Thực trạng:
Mỗi khi nói đến nợ công của Việt Nam, chúng ta thường thấy một nhận xét đi kèm
là tình hình vẫn còn nằm trong tầm kiểm soát, tổng nợ đang ở mức an toàn, không có
gì đáng lo Như vậy, thực trạng nợ công của Việt Nam hiện nay như thế nào, chúng ta
hãy cùng tham khảo bảng số liệu sau:
Số liệu nợ công qua các năm 2006 – 2011
Năm
Tỷ lệ nợ công so
với GDP
Mức chênh lệch Tỷ lệ
2006 36.60%
2007 33.80% -2.80% -7.65%
2008 36.20% 2.40% 7.10%
2009 41.90% 5.70% 15.75%
2010 52.60% 10.70% 25.54%
Dự kiến 2011 57.10% 4.50% 8.56%
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 15
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Từ biểu đồ trên, ta thấy tỷ lệ nợ công so với GDP có xu hướng tăng từ năm 2008
đến năm 2010. Trong đó, tốc độ tăng nợ công nhanh nhất là vào giai đoạn từ 2009-
2010 (từ 15,75% tăng lên 25.54%). Chính phủ dự kiến nợ công trong năm 2011 sẽ là
57,1% GDP. Nếu tính bình quân đầu người, thì mỗi người Việt Nam gánh 578,65
USD nợ công. Và theo mức dự báo của Chính phủ đưa ra trong năm 2011, thì chắc
chắn số nợ công bình quân chia theo đầu người sẽ không dừng ở mức hơn 578 USD
như hiện nay. Nói như vậy để thấy rằng, nợ công của Việt nam đang tăng và mỗi công
dân đều có quyền lợi và cả trách nhiệm từ các khoản vay của Nhà nước.
Dẫu các chuyên gia kinh tế quốc tế cho rằng, ngưỡng nợ công hơn 50% GDP của
Việt nam là có thể chấp nhận được, nhưng Việt Nam không thể chủ quan. Thực tế cho
thấy ngưỡng nợ hay quy mô nợ chỉ là điều kiện cần thiết để hạn chế các nguy cơ về
ngân sách có thể xảy ra. Vậy, thực chất ngưỡng nợ công hơn 50% có đủ đảm bảo độ
an toàn? Đây cũng là vấn đề được nhiều người quan tâm. Nhiều chuyên gia quốc tế
cho rằng về lý thuyết mức nợ công của Việt Nam “không có vấn đề gì” nhưng Việt
Nam phải tính tới “phần chìm của tảng băng”, tức là những khoản nợ ngầm, các
khoản nợ ngân hàng, nợ doanh nghiệp của Nhà nước vay mà Chính phủ phải bảo
lãnh. Đây là những yếu tố tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với kinh tế Việt Nam, nếu Việt
Nam “lơ là”.
Cần phải có một “thước đo chuẩn” từ các nền kinh tế khác có hoàn cảnh và điều
kiện kinh tế tương tự và điều quan trọng là chúng ta phải giám sát được thực trạng
kinh tế vĩ mô. Do đó cần mở rộng cách thức suy nghĩ và hiểu về nợ và phân tích nợ.
Khi đó, mới dự đoán được tình huống nợ có thể xảy ra.
Một yếu tố nữa Việt Nam cần lưu ý là những tác động xấu đối với thế giới trong
trường hợp rủi ro xảy ra. Câu chuyện Vinashin là một ví dụ: 750 triệu USD vốn trái
phiếu quốc tế được huy động và chuyển cho tập đoàn này vay lại. Tuy nhiên, việc sử
dụng vốn chưa hiệu quả, sự vỡ nợ của Vinashin đã đặt ra câu hỏi về lòng tin của các
nhà đầu tư quốc tế với môi trường kinh doanh Việt Nam. Theo nguồn tin từ công ty tư
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 16
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
vấn tài chính Moody có trụ sở tại Mỹ cho biết, nợ xấu của Vinashin cũng ảnh hưởng
xấu đến các ngân hàng Việt Nam. Từ trường hợp đơn lẻ của Vinashin, chúng ta thấy
được là chuyện quản trị nợ. Nợ không phải là xấu, nhưng cần phải tính toán đến hai
yếu tố: hiệu quả từ những đồng vốn vay và hệ quả lâu dài nếu không giải quyết được
dứt điểm vấn đề nợ. Nếu vay nợ mà tập trung đầu tư các dự án mang lại hiệu quả kinh
tế thì nợ công cao hay thấp không phải là điều đáng ngại. Ngược lại nếu không quản
lý tốt thì rất nguy hiểm. Và trên thực tế, tỷ lệ vốn vay được sử dụng vào các khoản
đầu tư tốt (phát triển hạ tầng, viễn thông, giáo dục ) chưa thực sự cao. Trong khi đó,
số tiền chảy vào các kênh đầu tư không phục vụ phát triển hoặc mang tính mạo hiểm
cao (đầu tư tài chính, bất động sản ) lại chiếm tỷ lệ đáng kể, đây chính là mục tiêu
cần giải quyết trong giai đoạn từ nay đến năm 2020.
Theo Tiến sỹ Đặng Xuân Thanh, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á,
chuyên gia nghiên cứu về tình hình kinh tế thế giới nhận định: “Vấn đề quản trị nợ đối
với các doanh nghiệp là một vấn đề khá là khó khăn. Đối với một quốc gia thì điều đó
càng quan trọng hơn. Có rất nhiều quy tắc về an toàn tài chính được đặt ra với các
nước về vấn đề ngân hàng, ngân sách, về mức nợ công nói chung. Tuy nhiên người ta
rất dễ dàng vứt bỏ những quy tắc đặt ra khi có những mối lợi hoặc trong trường hợp
khẩn cấp. Các nước đã nợ đến hạn thì phải trả. Đối với những nước như Việt Nam cần
phải có dòng vốn quốc tế, dòng vốn đầu tư nước ngoài để phát triển. Điều đó dẫn đến
nợ quốc gia luôn hiện hữu. Chúng ta phải dũng cảm đối mặt với những khoản nợ này
một khi nó vượt quá giới hạn cho phép. Chúng ta không thể nói được một mức nợ như
thế nào thì phù hợp với một quốc gia, chỉ biết rằng việc trả nợ lãi và trả nợ gốc nó
phải tương xứng với dòng vốn đi vào quốc gia đó. Muốn hiểu tận gốc vấn đề nợ công
của Việt Nam, cần đặt nó trong bối cảnh của những biến số vĩ mô phức tạp khác như
tốc độ tăng GDP, lạm phát, thâm hụt cán cân vãng lai
Thực tế, với mức tăng GDP trên 6% được duy trì trong nhiều năm qua (trừ 2009),
đại diện IMF cho rằng Việt Nam có thể tiếp tục duy trì tăng trưởng ở mức 7-8% trong
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 17
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
vòng 5 năm tới và do đó thu nhập bình quân đầu người ước tính có thể đạt đến con số
2.000 USD vào năm 2015.
Tuy nhiên, tình hình của Việt Nam lại nằm ở các yếu tố giúp ổn định nền kinh tế
như lạm phát hay thâm hụt vãng lai.
- Vấn đề về lạm phát: theo số liệu của IMF, lạm phát của Việt Nam luôn cao hơn
so với mức trung bình của một số nước trong khu vực ASEAN trong vòng ít nhất là 4
năm qua và đặc biệt là mức chênh lệch có thể lên tới gần 20% (2008).
- Vấn đề về cán cân vãng lai: Mức thâm hụt của Việt Nam trong năm 2009 (-7,7%
GDP) được đánh giá là sâu nhất so với những nền kinh tế có cùng quy mô, hoặc lớn
hơn tại châu Á
Chính những yếu tố bất ổn này là một phần nguyên nhân quan trọng đẩy nợ công
của Việt Nam tăng vọt trong 3 năm gần đây (2008- 2010) "
Như vậy, để duy trì mức nợ công ổn định thì một trong những giải pháp mà Chính
phủ cần thực thi là việc định hướng lại chính sách tiền tệ theo hướng lạm phát thấp.
Bên cạnh đó, còn phải chú ý đến vai trò của chính sách tài khóa.
2. Góc nhìn của thế giới về nợ công Việt Nam
Nợ công chưa được đánh giá đầy đủ:
Theo cách tính nợ công của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc
(UNCTAD) được nhiều nước trên thế giới sử dụng thì nợ công còn bao gồm cả nợ
của doanh nghiệp nhà nước theo cơ chế tự vay tự trả, nợ của công ty cổ phần tương
ứng với tỷ lệ phần vốn góp của Nhà nước, quỹ bảo hiểm xã hội mà Nhà nước sử dụng
để mua trái phiếu hay đầu tư vào các công trình kinh tế trọng điểm quốc gia.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 18
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nếu chỉ cộng phần nợ của doanh nghiệp nhà nước theo cách tính của UNCTAD
thì nợ công của Việt Nam hiện không dưới 72% GDP, tức là vượt khá xa so với mức
bình quân của thế giới.
Theo số liệu mà Tạp chí kinh tế The Economist đưa ra, con số tuyệt đối về nợ
công tính theo đầu người của Việt Nam thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực và
vào hàng thấp trên thế giới.
Ở tiêu chí nợ công tính trên đầu người, The Economist cho biết, bình quân mỗi
người Việt Nam đang gánh 580,91 USD nợ công. Con số này là 713,6 USD đối với
Trung Quốc, 743 USD đối với Indonesia, 4.184 USD đối với Malaysia, 1.071 USD
đối với Philippines, 2.064 USD đối với Thái Lan…
Tuy nhiên, nếu xét ở tiêu chí tỷ lệ nợ công trên GDP, thì Việt Nam đang được The
Economist xếp vào nhóm nước có mức nợ trên trung bình. Theo số liệu của The
Economist, tổng nợ công của Việt Nam hiện là 50,935 tỷ USD, tương đương 51,6%
GDP.
Nợ công vẫn đang trong giới hạn an toàn:
Theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam và kinh nghiệm quản lý nợ công của một số
nước trên thế giới thì ngưỡng nợ công an toàn là 60% GDP. Như vậy, nợ công của
Việt Nam hiện nay vẫn đang trong giới hạn an toàn, phần lớn các khoản vay nước
ngoài của Chính phủ có kỳ hạn dài, lãi suất cố định và ưu đãi. Hình thức huy động
vốn ngày càng đa dạng và linh hoạt. Thể chế chính sách dần được hoàn thiện, công
tác quản lý nợ ngày càng tốt hơn, dần tiếp cận thông lệ quốc tế. Các chỉ tiêu nợ trong
tầm kiểm soát, tuy nhiên:
Một số rủi ro thị trường cần được tính toán đo lường chính xác hơn; rủi ro tín dụng
chưa được phản ánh trong phí cho vay lại và phí bảo lãnh của Chính phủ. Cơ chế cảnh
báo sớm còn hạn chế và quyền hạn quản lý của các cơ quan còn chồng chéo; năng lực
cán bộ cần được cải thiện…
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 19
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Những tồn tại cơ bản được chỉ ra là thị trường trái phiếu trong nước phát triển còn
hạn chế. Công tác huy động vốn ODA còn thụ động, nhiều khoản vay ODA còn gắn
với những ràng buộc làm tăng chi phí đầu vào.
Cạnh đó, phân bổ vốn vay còn dàn trải, chủ trương huy động và sử dụng vốn cần
gắn kết hơn với ngưỡng an toàn nợ. Do đó, hiệu quả sử dụng vốn vay chưa cao, gây
lãng phí thất thoát, nguồn vốn đầu tư chưa được quản lý giám sát chặt chẽ.
GVHD: GS.TS DƯƠNG THỊ BÌNH MINH Trang 20
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
III. Giải pháp
Muốn kiểm soát nợ công hiệu quả trong mức an toàn cần có một loạt giải pháp đồng bộ:
• Phải đảm bảo sự công khai và minh bạch về nợ công cho toàn dân.
• Chúng ta cần nhìn nhận và đánh giá lại hiệu quả đầu tư các dự án để tăng
cường hiệu quả sử dụng đồng vốn. Chúng ta phải theo đuổi mục tiêu phát triển
kinh tế đi đôi với kiểm soát tiền vay và vạch ra kế hoạch trả nợ.
• Cần giảm thiểu thâm hụt ngân sách quốc gia, cụ thể là quản lý chi tiêu công.
Do thâm hụt ngân sách cần khoản bù đắp, hệ quả là khả năng trả nợ lại càng
kém đi. Hãy học tập từ bài học thắt lưng buộc bụng ở châu Âu khi đối phó với
khủng hoảng hồi đầu năm nay. Họ tăng cường tiết kiệm, giảm trợ cấp, tăng
thuế đối với người thu nhập cao, thoái vốn tại những doanh nghiệp làm ăn
không hiệu quả
• Nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế để tìm cứu cánh lúc cần thiết.
• Phải kiểm soát chặt chẽ hơn tốc độ tăng và hiệu quả sử dụng nợ công, trên cơ
sở kiểm soát thâm hụt ngân sách hợp lý và có chiến lược cụ thể về huy động và
sử dụng hiệu quả nợ công trong trung hạn. Vì chỉ cần một cú sốc tài chính nhỏ,
các nhà đầu tư rút vốn có thể ngay lập tức thành nợ ngắn hạn.
• Hoàn thiện khung quản lý nợ công thời gian tới, kiểm soát nợ quốc gia ở
ngưỡng an toàn bằng việc tiếp tục chính sách quản lý về vốn ODA, vay ưu đãi,
phát hành trái phiếu, quản lý phòng ngừa rủi ro, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
vay, báo cáo công khai các chỉ tiêu giám sát an toàn nợ, xây dựng qui chế rủi
ro.
• Phải theo dõi chặt chẽ xem tiền vay có được sử dụng đúng mục đích ban đầu,
tiến độ trả nợ có đúng lộ trình, hiệu quả sử dụng vốn ra sao.
• Tập trung quản lý nợ công về bộ tài chính để tập trung rà soát tính toán lại tất
cả các khoản nợ công của Việt Nam.
21
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
• Quốc hội cần áp dụng luật và quyết định các chỉ tiêu như nợ công so với GDP,
nợ nước ngoài quốc gia so với GDP, trả nợ chính phủ so với tổng thu ngân
sách nhà nước
• Khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia đầu tư vào các công
trình kinh tế trọng điểm.
• Ổn định chính sách kinh tế vĩ mô: chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa.
22
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Thanh Sơn-ThS. Nguyễn Văn Nông (2010) – Giáo trình thuế - Nhà
xuất bản Lao động – Xã hội.
2. ThS. Nguyễn Thị Mỹ Linh (2009) – Thuế thực hành (Lý thuyết, Bài tập và Bài
giải) – Nhà xuất bản thống kê.
3. PGS. TS. Sử Đình Thành- TS. Bùi Thị Mai Hoài (2009) – Lý thuyết Tài chính
công – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh.
4. PGS. TS. Sử Đình Thành- TS. Bùi Thị Mai Hoài (2010) – Tài chính công và
phân tích chính sách thuế – Nhà xuất bản Lao Động.
5. PGS. TS. Sử Đình Thành- GS.TS.Vũ Thị Minh Hằng (2008) –Nhập Môn Tài
Chính Tiền Tệ – Nhà xuất bản Lao Động Xã Hội.
6. Tạp chí Cộng Sản (12/06/2010) – Nợ công và thực chất nợ công. Được lấy về
từ: />7. Tạp chí Thuế Nhà nước (07/06/2007) – Luật Quản lý thuế trước giờ G – Bài 4:
Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ CBCC đảm bảo yêu cầu thực thi Luật Quản lý thuế.Được lấy
về từ:
8. Một số biện pháp chủ yếu góp phần hoàn thiện Luật thuế Giá trị gia tăng đến
2020 (30/05/2006) – Theo Tạp chí Kinh tế Phát triển. Được lấy về từ :
/>phap-chu-yeu-gop-phan-hoan-thien-luat-thue-gia-tri-gia-tang-den-6.html
9. Định hướng cải cách chính sách thuế của Việt Nam (05/06/2006) - Theo Tạp
chí Kinh tế Phát triển. Được lấy về từ:
/>cai-cach-chinh-sach-thue-cua-vie.html
10. Luật quản lý nợ công số 29/2009/QH12
11. Dự báo nợ công (02/10/2010) – Theo VNExpress. Được lấy về từ:
/>23
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
12. Kiểm soát nợ công dưới 60% GDP (05/11/2010). Được lấy về từ:
/>13. Đánh giá nợ công không nhìn vào con số (05/11/2010). Được lấy về từ:
( />24
CHUYÊN ĐỀ I: CẢI CÁCH THUẾ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY–TẦM NHÌN ĐẾN 2020
NỢ CÔNG VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
DANH SÁCH CÁC THÀNH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. Võ Thanh Bình
2. Nguyễn Thị Ngọc Châu
3. Vũ Trung Dũng
4. Quốc Minh Đức
5. Trần Thị Thanh Huyền
6. Nguyễn Thị Thu Hương
7. Đặng Thị Kiều
8. Nguyễn Ngọc Hoàng Lan
9. Phan Quỳnh Linh
10. Lê Thị Ngọc Mai
11.Võ Thị Nguyệt Minh
12. Nguyễn Đình Nam
13. Trần Thị Ngọc
14. Nguyễn Văn Quang
15. Phạm Ngọc Thảo
16. Vương Văn Thuận
17. Trần Thị Xuân Thùy
18. Nguyễn Thị Bích Thủy
19. Đặng Lê Hồng Trúc
25