BÀI TẬP NHÓM 13
Lớp: K50 ĐH Tài chính – Ngân hàng
Đại học Tây bắc – TP Sơn La
Trình bày các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá. Phân tích
công cụ trực tiếp được NHTW thực hiện thời kỳ 2008 – 2011.
Phân tích sự ảnh hưởng tỷ giá hối đoái đến cán cân thanh toán
đối với Việt Nam. Đề xuất giải pháp cho tỷ giá hối đoái.
1. Khái quát về tỷ giá hối đoái
1.1. Khái niệm tỷ giá hối đoái
TGHĐ được hiểu là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo đồng nội tệ. Đây
chính là giá cả của ngoại tệ trên thị trường và được xác định dựa trên quan hệ cung
cầu về ngoại tệ. Được coi là mấu chốt trong quản lý kinh tế vĩ mô, TGHĐ có tác
động ngược trở lại đến các mối quan hệ kinh tế, lên cán cân thanh toán quốc tế, lên
giá cả hàng hoá trong nước và lưu thông tiền tệ Nhìn chung, TGHĐ được chia
thành nhiều loại khác nhau tuỳ vào mục đích xem xét.
1.2. Phân loại
a. TGHĐ danh nghĩa:
Là giá của một đơn vị ngoại tệ tính theo nội tệ và chưa tính đến sức mua của
đồng tiền.
b. TGHĐ thực
Là tỷ giá danh nghĩa đã được điều chỉnh theo giá tương đối giữa các nước.
Tỷ giá này tăng lên đồng tiền trong nước được coi là bị giảm giá thực so với đồng
tiền nước ngoài và khi tỷ giá này giảm thì đồng tiền trong nước được coi là bi tăng
giá thực so với đồng tiền nước ngoài.
c. TGHĐ hiệu quả thực:
Là tỷ giá được điều chỉnh theo một số các tỷ giá thực của các nước đối tác
thương mại. Tỷ giá này được xem là thước đo hữu hiệu khả năng cạnh tranh của
một nước trong quan hệ thương mại với các nước khác bởi nó xét đến tỷ giá thực
giữa đồng tiền của một nước với nhiều nước tham gia trao đổi thương mại với
nước đó.
1.3. Vai trò của tỷ giá
- Tỷ giá hối đoái đóng vai trò chính trong thương mại quốc tế, nó cho phép
chúng ta so sánh giá cả của các hàng hóa và dịch vụ sản xuất trên các nước khác
nhau. Giá hàng xuất khẩu của một nước sẽ được tính theo giá của nước nhập khẩu
nếu biết tỷ giá hối đoái giữa đồng tiền của hai nước. “Khi đồng tiền của một nước
mất giá, người nước ngoài nhận ra rằng, giá hàng xuất khẩu của nước này rẻ đi, và
người dân trong nước nhận thấy hàng nhập từ nước ngoài đắt lên. Sự lên giá có
hiệu quả ngược lại: người nước ngoài sẽ phải trả nhiều hơn cho sản phẩm của nước
này, và người dân trong nước phải trả ít hơn cho hàng hóa của nước ngoài”. Chính
vì điều này mà tỷ giá hối đoái được sử dụng để điều tiết chính sách khuyến khích
xuất khẩu hay nhập khẩu hàng hóa của một nước.
- Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan trọng đối với mỗi quốc gia vì
trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng hoá xuất nhập khẩu của chính quốc
gia đó. Khi đồng tiền của một quốc gia tăng giá (Tăng trị giá so với đồng tiền
khác)thì hàng hoá nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài
tại nước đó trở nên rẻ hơn. Ngược lại khi đồng tiền một nước sụt giá, hàng hoá của
nước đó tại nước ngoài trở nên rẻ hởn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó
trở nên đắt hơn (các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động đến hoạt động xuất
nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc
thặng dư cán cân. Nếu đồng nội tệ giảm, tỷ giá hối đoái cao có tác dụng:
+ Kích thích các hoạt động xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, góp phần tăng thu
ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán.
+ Với tỷ giá hối đoái cao sẽ khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế
các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài, kết quả là làm cho sức mua của đồng
nội tệ tăng lên.
- Tỷ giá hối đoái không chỉ quan trọng là vì tác động đến ngoại thương, mà
thông qua đó tỷ giá sẽ có tác động đến các khía cạnh khác của nền kinh tế như mặt
bằng giá cả trong nước, lạm phát khả năng sản xuất, công ăn việc làm hay thất
nghiệp…
- Tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản (vốn) từ
quốc gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới nhằm mục
đích kiếm lời nhuận và tránh rủi ro. Do đó, nếu tỷ giá giảm trong trường hợp
người ta dự đoán tỷ giá không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập khẩu sẽ gia tăng
và tư bản xuất khẩu sẽ giảm.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá
- Sự tăng trưởng hay suy thoái của nền kinh tế: Mức độ tăng giảm GDP thực
tế sẽ làm tăng, giảm cung cầu về ngoại tệ từ đó làm cho tỷ giá đồng nội tệ so với
ngoại tệ giảm đi hoặc tăng lên (thực tế gần đây cho thấy kinh tế cộng đồng EU
tăng lên khi nền kinh tế Mỹ nguội lạnh thì đồng EURO luôn được giá so với USD,
hơn thế USD còn bị mất giá so với cả nhiều đồng tiền khác trên thế giới).
- Tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế: Lạm phát làm suy giảm sức mua đối ngoại
của đồng tiền trong nước so với ngoại tệ và làm cho tỷ giá hối đoái của tiền trong
nước biến động. Nếu mức lạm phát của một nước mà cao hơn so với một nước
khác thì đồng tiền nước đó sẽ có sức mua thấp hơn và do đó tỷ giá hối đoái của
đồng tiền đó so với tiền nước ngoài sẽ giảm (nói cách khác tỷ giá ngoại tệ khi đó sẽ
tăng lên). Nếu tỷ lệ lạm phát tăng cao và kéo dài, đồng tiền càng mất giá mạnh và
tỷ giá hối đoái của nó sẽ giảm nhiều.
- Hiện trạng cán cân thanh toán quốc tế: Cán cân thanh toán quốc tế có thể
rơi vào 1 trong các trạng thái sau: Cân bằng, bội chi, bội thu.
+ Nếu cán cân thanh toán quốc tế thăng bằng, thì cung cầu về ngoại tệ cân
bằng, khi đó tỷ giá hối đoái sẽ ổn định.
+ Nếu cán cân thanh toán bội chi thì cầu về ngoại tệ vượt cung về ngoại tệ
dẫn đến tỷ giá ngoại tệ tăng lên.
+ Nếu cán cân thanh toán quốc tế bội thu thì cung về ngoại tệ lớn hơn cầu về
ngoại tệ, khi đó tỷ giá ngoại tệ giảm.
- Mức chênh lệch lãi suất: Ở thị trường nào có mức lãi suất ngoại tệ ngắn
hạn cao hơn thì những luồng vốn ngoại tệ ngắn hạn có xu hướng đổ về thị trường
đó để tìm kiếm lợi nhuận, do đó làm cho cung về ngoại tệ tăng lên, cầu về ngoại tệ
giảm đi, làm cho tỷ giá ngoại tệ đi theo xu hướng giảm.
Sự chênh lệch lãi suất giữa đồng nội tệ với đồng ngoại tệ sẽ tác động đến xu
hướng đầu tư và ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Nếu lãi suất ngoại tệ cao hơn lãi
suất nội tệ thì sẽ có xu hướng chuyển sang đầu tư vào đồng ngoại tệ, cầu về ngoại
tệ sẽ tăng, dẫn đến tỷ giá ngoại tệ tăng và ngược lại.
- Hoạt động đầu cơ ngoại tệ: Hoạt động này trực tiếp tác động đến cung cầu
về ngoại tệ từ đó làm cho tỷ giá hối đoái biến động. Khi một nhà đầu cơ dự đoán
giá của một ngoại tệ nào đó trong thời gian tới sẽ tăng họ sẽ dùng nội tệ mua ồ ạt
số lượng ngoại tệ trên thị trường làm cho ngoại tệ này trở nên khan hiếm dẫn đến
tỷ giá ngoại tệ sẽ tăng. Ngược lại, nếu anh ta dự đoán ngoại tệ nào đó sẽ sụt giá
thì sẽ bán mạnh số ngoại tệ đó ra thị trường làm cung vượt cầu, do đó tỷ giá ngoại
tệ sẽ giảm.
- Các nhân tố khác: Sự ưa thích hàng ngoại so với hàng nội: Khi dân chúng
“sùng bái” hàng ngoại thì nhu cầu ngoại tệ sẽ tăng, dẫn đến tỷ giá ngoại tệ tăng.
+ Tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại làm tăng nhu cầu chi ngoại tệ,
làm thất thoát ngoại tệ và vàng mà Nhà nước không kiểm soát được, do đó cũng có
tác động đến tỷ giá hối đoái.
+ Sự tác động của các sự kiện bất thường về kinh tế xã hội như chiến tranh,
khủng bố, khủng hoảng chính trị, sự cố thiên tai, dịch bệnh cũng có những tác
động nhất định đến sự biến động của tỷ giá hối đoái.
3. Sự biến động của tỷ giá và các công cụ của NHTW tới tỷ giá giai đoạn
2008- 2011
a. Giai đoạn năm 2008
Tỷ giá trên thị trường có những diễn biến phức tạp. Trong ba tháng đầu năm
từ 01/01/2008 – 25/03/2008 tỷ giá liên tục giảm dưới mức sàn, tỷ giá USD/VND
trên thị trường liên ngân hàng liên tục sụt giảm (từ mức 16.112 đồng xuống 15.960
đồng, mức thấp nhất là 15.560 đồng/ USD). Trên thị trường tự do USD dao động
từ mức 15.700- 16000 đồng/USD. Nguyên nhân là thời điểm này đang ở giai đoạn
gần tết dương lịch, do đó lượng kiều hối chuyển về nước khá lớn. Thứ hai, các nhà
đầu tư dự kiến VND sẽ tăng giá so với USD, cộng thêm chênh lệch lãi suất lớn
giữa USD và VND nên các nhà đầu tư đẩy mạnh việc bán USD chuyển qua VND.
Tập trung vào các đối tượng là nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trái phiếu Chính
phủ Việt Nam ( 1,4 tỷ USD), các doanh nghiệp xuất khẩu vay USD để phục vụ sản
xuất kinh doanh… Các NHTM lúc này cũng đẩy mạnh bán USD. Trong khoảng
thời gian này, Chính phủ và NHNN đang đẩy mạnh việc kiềm chế lạm phát, sử
dụng biện pháp tiền tệ thắt chặt, tăng lãi suất cơ bản từ 8,25%/năm (tháng 12/2007)
lên 8,75%/năm (tháng 2/2008). NHNN không thực hiện mua ngoại tệ USD nhằm
hạn chế việc bơm tiềm ra lưu thông, tăng biên độ tỷ giá USD/VND từ 0,75%/năm
lên 1%/năm trong ngày 10/03/2008.
Tiếp tục trong giai đoạn 26/03- 16/07 tỷ giá tăng với tốc độ chóng mặt tạo
cơn sốt USD trên cả thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do. Trong giai đoạn
này, tỷ giá tăng dần đều và đột ngột tăng mạnh từ giữa tháng 6, đỉnh điểm lên đến
19.400 VND/USD vào ngày 18/06, cách hơn 2.600 đồng so với mức trần. Tâm lý
hoang mang cộng với động thái đầu cơ của giới buôn ngoại tệ trên thị trường tự do
đẩy USD cùng với giá vàng tăng mạnh lên gần 19 triệu đồng/lượng. Tỷ giá lên
đỉnh vào ngày 18/06, sau đó giảm dần. Ngày 27/06, NHNN tăng biên độ
USD/VND từ 1% lên 2%. Nguyên nhân USD tăng mạnh trong giai đoạn này chủ
yếu do tâm lý bất ổn của người dân và doanh nghiệp khi thấy USD tăng nhanh dẫn
đến trạng thái găm ngoại tệ của giới đầu cơ. Nhu cầu mua ngoại tệ trả các khoản
nợ của doanh nghiệp xuất và nhập khẩu đến hạn cao; tăng nhập khẩu vàng do
chênh lệch giá vàng lớn giữa giá vàng trong nước và quốc tế. Lúc này nhà đầu tư
nước ngoài bắt đầu rút vốn khỏi Việt Nam bằng việc bán trái phiếu chính phủ khi
lo ngại về tình hình kinh tế và do tình hình thanh khoản thấp trên thị trường thế
giới đẩy nhu cầu mua USD chuyển vốn về nước lên cao (bán ròng 0,86 tỷ USD).
Cung ngoại tệ thấp do NHNN không cho phép vay ngoại tệ đối với doanh nghiệp
xuất khẩu(theo quyết định số 09/2008/QĐ, NHNN không cho phép vay để chiết
khấu bộ chứng từ xuất khẩu, vay thực hiện dự án sản xuất xuất khẩu) giảm hiện
tượng doanh nghiệp xuất khẩu vay ngoại tệ bán lại trên thị trường.
Tiếp tục diễn biến phức tạp của tỷ giá, trong giai đoạn từ 17/07- 15/10: Nhận
thấy tình trạng sốt USD đã trở nên báo động, lần đầu tiên trong lịch sử, NHNN đã
công khai công bố dự trữ ngoại hối quốc gia 20,7 tỷ USD khi các thông tin trên thị
trường cho rằng USD đang trở nên khan hiếm. Đồng thời lúc này, NHNN đã ban
hành một loạt các chính sách nhằm bình ổn thị trường ngoại tệ như kiểm soát chặt
các đại lý thu đổi ngoại tệ (cấm mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do không đăng
ký với các NHTM), cấm mua bán USD thông qua ngoại tệ khác để lách biên độ,
cấm nhập khẩu vàng và cho phép xuất khẩu vàng, bán ngoại tệ can thiệp thị trường
thông qua các NHTM lớn. Nhờ có sự can thiệp kịp thời của NHNN, cơn sốt USD
đã được chặn đứng, tỷ giá giảm mạnh từ 19.400 đồng/USD xuống 16.400 đồng/
USD và giao dịch bình ổn trên mức 16.600 đồng trong giai đoạn từ tháng 8 đến
tháng 11.
Trong giai đoạn cuối năm 2008 (16/10- 31/12) tỷ giá USD tăng trở lại. Tỷ
giá USD/VND tăng đột ngột trở lại từ mức 16.600 lên mức cao nhất là 16.998 sau
đó giảm nhẹ. Giao dịch nằm trong biên độ tỷ giá. Tuy nhiên cung hạn chế cầu
ngoại tệ vẫn ở mức lớn. Sau khi NHNN tăng biên độ tỷ giá từ 2% lên 3% trong
ngày 07/11/2008, tăng tới mức 17.440 đồng/USD.
b. Giai đoạn năm 2009:
Năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Khủng hoảng tài chính của một số nền kinh tế lớn trong năm 2008 đã đẩy kinh tế
thế giới vào tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị
trường vốn, thị trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế xã
hội khác của nước ta. Năm 2009 là một năm mà CSTT phải đối mặt với nhiều
thách thức khó lường phát sinh từ những bất cập của nền kinh tế và tác động bất lợi
của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế. Nhìn nhận một cách khách quan có
thể thấy, lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài
và thâm hụt mạnh cán cân thương mại (12,783 tỷ USD) đã có tác động mạnh đến
tâm lý các nhà dầu tư trên thị trường ngoại hối, gây những biến động khó lường
đến tỷ giá. Thêm vào đó giải pháp hỗ trợ lãi có tác động tích cực hỗ trợ doanh
nghiệp phục hồi sản xuất, làm khởi sắc thị trường chứng khoán, bất động sản và thị
trường tín dụng, nhưng cũng gây sức ép tăng khối lượng tiền trong nền kinh tế, tín
dụng tăng trưởng cao và áp lực giảm giá VND
Trước những tác động bất lợi như vậy, NHNN đã thực thi CSTT một cách
linh hoạt phối hợp với nhiều giải pháp khác để giữ bình ổn thị trường. Từ đầu năm
2009 đến nay, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp
cận được với vốn vay của hệ thống Ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp
kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định
và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự
trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%.
Thị trường tiền tệ từng bước được ổn định tuy nhiên 6 tháng đầu năm 2009
thị trường ngoại hối có những diễn biến không thuận lợi. Do áp lực từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu, lo ngại rủi ro biến động tỷ giá các doanh nghiệp có tâm lý
găm giữ ngoại tệ. Mặt khác do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay
bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp
không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu
cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn
cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp
như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của NHTM từ 3% đến 5%
so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết
cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các
mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hòa ngoại tệ trên thị
trường trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Đồng thời trình thủ tướng Chính
phủ giao Bộ Tài chính bán nguồn ngoại tệ thu được từ phát hành trái phiếu Chính
phủ cho NHNN; đề nghị một số doanh nghiệp nhập khẩu lớn chuyển từ mua ngoại
tệ sang vay bằng ngoại tệ; phối hợp chặt chẽ với Bộ công thương trong việc kiểm
soát nhập siêu và đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ thiết yếu của nền kinh tế.
Xử lý nghiêm các vi phạm đối với các hành vi quảng cáo, niêm yết giá hàng
hóa bằng ngoại tệ, mua bán ngoại tệ trái phép. Áp dụng các biện pháp nhằm hạn
chế tâm lý găm giữ ngoại tệ của các doanh nghiệp và người dân như đẩy mạnh
công tác tuyên truyền và công bố công khai, rộng rãi các thông tin về tình hình
ngoại hối, tỷ giá; yêu cầu các NHTM Nhà nước giảm lãi suất cho vay và huy động
bằng ngoại tệ (lãi suất cho vay giảm từ mức 6- 6,5%/ năm xuống không quá
4%/năm kể từ ngày 15/04/2009 và giảm tiếp xuống mức không quá 3%/năm kể từ
ngày 01/06/2009, lãi suất huy động giảm xuống mức không quá 1,5%/ năm kể từ
ngày 01/06/2009). Đồng thời đề nghị Hiệp hội ngân hàng yêu cầu các NHTM cổ
phần đồng thuận giảm lãi suất huy động và cho vay bằng ngoại tệ như các NHTM
Nhà nước kể từ ngày 08/06/2009. Các biện pháp trên đã có tác động giảm áp lực
thiếu cung ngoại tệ trên thị trường, giữ được thị trường ổn định.
Tuy nhiên, diễn biến kinh tế những tháng cuối năm vẫn tiếp tục phát đi
những tín hiệu xấu như thâm hụt cán cân thương mại không được cải thiện mà vẫn
tiếp tục gia tăng (theo số liệu của Tổng cục Hải quan 11 tháng tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu cả nước đạt 113,6 tỷ USD giảm 14,7% so với cùng kì năm 2008, trong
đó, xuất khẩu là 51,33 tỷ USD, giảm 11,5% và nhập khẩu là 62,28 tỷ USD giảm
17%. Cán cân thương mại hàng hóa 11 tháng thâm hụt 10,95 tỷ USD bằng 21,3%
xuất khẩu), nguồn bù đắp cho thâm hụt này suy giảm như nguồn đầu tư trực tiếp
nước ngoài giảm sút mạnh so với năm 2008, đầu tư gián tiếp nước ngoài không
tăng mà còn giảm; nguồn kiều hối cũng giảm do khủng hoảng kinh tế toàn cầu…
do vậy dẫn đến thâm hụt cán cân thanh toán, tình hình này tiếp tục gây bất lợi cho
việc ổn định tỷ giá. Thêm vào đó thâm hụt ngân sách tăng cao, năm 2009 mức
thâm hụt ngân sách ở mức 6,5% GDP buộc ngân sách phải vay nợ nhiều, qua đó
mà gây áp lực giảm giá VND. Sự khan hiếm tiền đồng về mặt lý thuyết là làm cho
VND lên giá. Nhưng chính sách điều tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp gâp áp lực giảm
giá VND, đồng thời kích thích nhu cầu sử dụng tiền đồng, tăng nhu cầu tín dụng,
gây ra vòng xoáy khan hiếm tiền đồng, gây áp lực cho NHNN phải cung ứng thêm
tiền đồng. Điều này tiếp tục gây áp lực giảm giá VND. Đồng thời sự biến động
mạnh của giá vàng cũng có những tác động bất lợi đến tỷ giá.
Trước tình hình này, ngày 26/11, NHNN đã kịp thời điều chỉnh tỷ giá, nâng
tỷ giá công bố lên 17.980 VND/USD, tăng 5,4% so với ngày trước đó, thu hẹp biên
độ tỷ giá từ 5% xuống còn 3%. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng có trạng thái
ngoại tệ từ -5% trở xuống lại được NHNN bán ngoại tệ hỗ trợ nhằm đảm bảo hệ
thống ngân hàng cam kết cung cấp đủ ngoại tệ cho các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, đặc biệt ưu tiên những mặt hàng nhập khẩu phục vụ sản xuất.
Đồng thời với điều chỉnh tỷ giá NHNN đã thực nâng các mức lãi suất chỉ
đạo lên thêm 1%. Đây là giải pháp có tính đồng bộ, phù hợp với tình hình thực tế,
vừa có tác dụng tiếp tục duy trì tăng trưởng của nền kinh tế đồng thời chủ động
ngăn chặn nguy cơ lạm phát và trước mắt ổn định thị trường ngoại hối.
c. Giai đoạn 2010
Trong nhiều năm trở lại đây, NHNN kiên trì chính sách ổn định đồng tiền
Việt Nam so với đồng đô la Mỹ. Diễn biến tỷ giá trong năm 2010 là khá phức tạp.
Mặc dù NHNN đã điều chỉnh nâng tỷ giá liên ngân hàng hai lần vào tháng 2 và
tháng 10, khoảng cách giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do luôn ở
mức cao. Tỷ giá chính thức có thời điểm thấp hơn tỷ giá trên thị trường tự do tới
10%. Đến cuối tháng 11 năm 2010, tỷ giá trên thị trường tự do đã đạt mức 21.500
đồng/ USD.
Về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị trường ngoại hối
luôn có biểu hiện căng thẳng. Những bất ổn về tỷ giá có nguyên nhân sâu xa từ
những bất ổn về kinh tế vĩ mô đó là bội chi cao, nhập siêu lớn và hiệu quả đầu tư
công thấp… làm cho cầu ngoại tệ luôn lớn hơn cung ngoại tệ. Bên cạnh đó hiện
tượng đầu cơ và tâm lý cũng gây áp lực mạnh mẽ lên tỷ giá. Những bất ổn trên thị
trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn cho hoạt
động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm phát
trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh. Trong bối cảnh lạm phát có xu
hướng gia tăng và tính không ổn định trên thị trường tiền tệ, đòi hỏi cần phải có sự
lựa chọn linh hoạt cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát
và ổn định thị trường tiền tệ.
d. Giai đoạn 2011:
Các chính sách đưa ra đã từng bước phát huy được hiệu quả, góp phần ổn
định tỷ giá bình quân liên ngân hàng thời gian dài ở mức 20.803 trong cả tháng
11, đến ngày 14/12 mới điều chỉnh tăng lên 20.813 rồi 20.828. Đối với tỷ giá ở thị
trường chính thức và phi chính thức tính đến giữa tháng 12, tỷ giá ở thị trường phi
chính thức giảm đáng kể so với cuối tháng 11, giao động phổ biến trong khoảng từ
21.150 đến 21.300; ở thị trường chính thức tỷ giá giao động phổ biến từ 21.005
đến 21.036.
4. Ảnh hưởng của tỷ giá đến cán cân thanh toán
- Đối với cán cân thanh toán : Tỷ giá giữa đồng nội tệ và ngoại tệ là quan
trọng đối với một quốc gia vì trước tiên nó tác động trực tiếp tới giá cả hàng xuất
nhập khẩu của chính quốc gia đó. Khi TGHĐ tăng (đồng nội tệ xuống giá) sẽ làm
tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu và giảm giá ngoài nước của hàng xuất
khẩu của nước đó, cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong nước. Các
nguồn lực sẽ được thu hút vào những ngành sản xuất mà giờ đây có thể cạnh tranh
hiệu quả hơn so với hàng nhâp khẩu và cũng vào ngành xuất khẩu mà giờ đây có
thể có hiệu quả hơn trên các thị trường quốc tế. Kết quả là xuất khẩu tăng nhập
khẩu giảm làm cán cân thanh toán được cải thiện.
- Đối với lạm phát và lãi xuất: Khi các yếu tố khác không đổi TGHĐ tăng
làm tăng giá các mặt hàng nhập khẩu tính bằng nội tệ. Các hộ gia đình, các nhà sản
xuất sử dụng đầu vào nhập khẩu phải tiêu dùng hàng nhập khẩu với mức giá tăng
cùng tỷ lệ phá giá. Kết quả mức giá chung trong nền kinh tế trở nên cao hơn đặc
biệt là nền kinh tế nhỏ, mở cửa với thế giới bên ngoài có xuất khẩu và nhập khẩu
chiếm tỷ lệ cao so với GDP. Nếu TGHĐ tiếp tục có sự gia tăng liên tục qua các
năm có nghĩa là lạm phát đã tăng. Nếu lãi xuất tăng ở mức vừa phải có thể kiểm
soát sẽ kích thích tăng trưởng nhưng nếu lạm phát tăng quá cao sẽ tác động làm lãi
xuất tăng làm giảm đầu tư ảnh hưởng không tốt đến đời sống kinh tế giảm sút.
- Đối với sản lượng và việc làm: Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa
trên nguồn lực trong nước thì khi TGHĐ tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp
tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này giúp phát triển sản xuất từ đó tạo
thêm công ăn việc làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên
và ngược lại.
- Đối với đầu tư quốc tế:
+ Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa
vào nước sở tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên
cạnh đó tỷ giá còn có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu
tư nước ngoài. Do đó sự thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của
các nhà đầu tư nước ngoài trong việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay
không.
+ Đầu tư gián tiếp: Là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc
tế cũng như việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường
Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi
tức từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng
luồng vốn chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong
nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi
các quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm
mức độ rủi ro trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Với nợ nước ngoài: Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo
đơn vị tiền tệ nước đó hoặc những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng
đồng nghĩa với sự tăng lên của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân
chuyển vốn quốc tế ngày càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang phát triển
càng cần phải thận trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo tăng trưởng và
khả năng trả nợ nước ngoài.
Đứng trước sự biến động nhanh, mạnh và khó dự báo của tỷ giá ngày nay,
trước xu hướng mở rộng và đa dạng hóa thị trường quốc tế, đa dạng hóa cơ cấu
đồng tiền trong thanh toán, thì việc tìm kiếm các giải pháp để phòng ngừa rủi ro tỷ
giá là vô cùng cấp thiết.
5. Đề xuất các giải pháp cho tỷ giá hối đoái
5.1. Giải pháp phòng ngừa rủi ro tỷ giá
Thứ nhất, nâng cao năng lực dự báo sự biến động tỷ giá:
Về mặt lý thuyết, biết trước được xu hướng biến động tỷ giá sẽ là giải pháp
hữu hiệu bậc nhất trong việc phòng ngừa rủi ro và là cơ hội kiếm lãi từ sự biến
động tỷ giá. Tuy nhiên, trên thực tế, công tác dự báo tỷ giá là một công việc phức
tạp, tốn kém và khó đạt được độ tin cậy cao. Tuy nhiên, trước những diến biến của
tỷ giá vừa bất ngờ, vừa phức tạp như ngày nay, thì các doanh nghiệp cũng cần phải
tự nâng cao năng lực trong việc thu thập, tổng hợp, xử lý thông tin về sự biến
động tỷ giá hoặc dựa vào tư vấn của các chuyên gia tài chính tiền tệ để có định
hướng kịp thời trong kế hoạch kinh doanh của mình. Đối với các doanh nghiệp lớn
và các NHTM với giá trị tài sản có và tài sản nợ khổng lồ bằng ngoại tệ, có các
khoản thu chi lướn bằng ngoại tệ, có trạng thái ngoại tệ ở mức cao, thì công tác dự
báo tỷ giá trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Sự biến đọng bất ngờ của tỷ giá với
biên độ rộng có thể khiến cho những doanh nghiệp này khuynh đảo và có thể phá
sản. Chính vì vậy, trước hết các doanh nghiệp lớn phải tự phòng ngừa bằng cách
thiết lập một bộ phận chuyên trach và chuyên nghiệp để dự báo tỷ giá.
Thứ hai, chuyển hướng tới đa dạng hóa tiền tệ trong thanh toán quốc tế:
Nếu cơ cấu thanh toán chỉ dựa vào một hoặc một số ít ngoại tệ thì rủi ro tỷ
giá bộ lộ là rất lớn, bởi vì quy mô rủi ro sẽ đúng bằng sự biến động tỷ giá. Tuy
nhiên, nếu chúng ta (một doanh nghiêp, một ngân hàng hay một quốc gia) đa dạng
hóa các ngoại tệ trong thanh toán quốc tế thì rủi ro tỷ giá sẽ giảm đi đáng kể. Bởi
vì, khi tỷ giá các đồng tiền biến động thì có thể phát sinh lãi đối với đồng tiền này
và lỗ với đồng tiền khác, nên hạn chế được rủi ro tỷ giá vì chúng tự động bù đắp
cho nhau. Tuy nhiên, một thực tế là, trong thời gian qua, các doanh nghiệp Việt
Nam đã được bảo vệ gần như tuyệt đối trước những biến động tỷ giá nhờ vào chính
sách ổn định tỷ giá VND/USD của Nhà nước. Nhưng tình trạng này sẽ không kéo
dài, khi các doanh nghiệp Việt Nam chuyển sang thanh toán bằng các đồng tiền
khác với USD. Dẫn đến cần phải sử dụng công cụ tài chính phái sinh trong điều
kiện đa tiền tệ.
Thứ ba, sử dụng công cụ tài chính phái sinh trong điều kiện đa ngoại tệ:
Để giúp các doanh nghiệp bảo hiểm tỷ giá, các NHTM đã đưa ra cung cấp
một số công cụ tài chính phái sinh như: Kỳ hạn (Forward), Hoán đổi (Swap),
Tương lai (Future) và Quyền chọn (Option). Một trong những công cụ phái sinh
mà các doanh nghiệp ưa chuộng sử dụng đó là hợp đồng kỳ hạn. Thực tế, bản chất
của công cụ phái sinh này là doanh nghiệp trích cho ngân hàng một khoản phí (phí
rủi ro hối đoái), khi doanh nghiệp bị rủi ro về tỷ giá, ngân hàng sẽ chịu thay cho
doanh nghiệp. Nghe có vẻ đơn giản, nhưng hiện nay rất ít doanh nghiệp quan tâm
đến các sản phẩm này. Để thúc đẩy thị trường dịch vụ phái sinh, các ngân hàng cần
chú trọng mở rộng loại hình bảo hiểm tỷ giá và lãi suất, cũng như chất lượng dịch
vụ để thu hút doanh nghiệp trên cơ sở đẩy mạnh tuyên truyền về nguy cơ gặp rủi ro
nếu doanh nghiệp không bảo hiểm tỷ giá.
5.2. Các biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái
- Điều chỉnh lãi suất tái chiết khấu: Nếu NHTW hạ thấp mức lãi suất tái
chiết khấu thì ngoại tệ sẽ chạy ra nước ngoài, dần dần tỷ giá ngoại tệ sẽ tăng lên
(đồng nội tệ bị mất giá). Nếu tỷ giá đồng nội tệ sụt thấp so với mức tỷ giá hợp lý
thì bằng cách nâng lãi suất tái chiết khấu sẽ tạo ra hiệu ứng kích thích cầu về nội tệ
và đồng nội tệ sẽ dần dần tăng giá và biện pháp này được duy trì đến khi mức tỷ
giá thị trường đã trở về với mức tỷ giá hợp lý. Trường hợp ngược lại nếu tỷ giá
đồng nội tệ tăng quá cao so với mức tỷ giá hợp lý thì NHTW sẽ hạ thấp mức lãi
suất tái chiết khấu để tác động đến cầu về ngoại tệ, gây hiệu ứng giảm tỷ giá đồng
nội tệ để trở về với mức tỷ giá hợp lý.
- Can thiệp ngoại hối: Khi sử dụng biện pháp này, NHTW là người trực tiếp
tham gia hoạt động mua bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối để điều chỉnh quan
hệ cung cầu về ngoại tệ trên thị trường, từ đó tỷ giá hối đoái sẽ được điều chỉnh.
Việc thực hiện biện pháp can thiệp ngoại hối phải được cân nhắc cẩn thận,
đặc biệt khi NHTW can thiệp bằng cách bán ngoại tệ ra thị trường thì phải có một
lượng ngoại tệ đủ mạnh tuyệt đối không can thiệp nửa vời.
- Phá giá tiền tệ: Phá giá tiền tệ là việc Nhà nước chính thức hạ thấp sức mua
của đồng nội tệ so với ngoại tệ với kỳ vọng tăng tỷ giá hối đoái đồng nội tệ trong
tương lai. Việc thực hiện phá giá tiền tệ phải đặc biệt thận trọng. Đây chỉ là biện
pháp bất đắc dĩ khi sức mua của đồng nội tệ bị sụt mạnh liên tục so với ngoại tệ và
bằng các biện pháp nêu trên không đem lại kết quả thì áp dụng biện pháp phá giá
tiền tệ sẽ có những tác dụng sau đây:
- Kích thích các hoạt động xuất khẩu cùng các hoạt động kinh tế, dịch vụ đối
ngoại khác có thu ngoại tệ, đồng thời hạn chế nhập khẩu và các hoạt động dịch vụ
đối ngoại khác có chi về ngoại tệ, kết quả là góp phần cải thiện cán cân thanh toán
quốc tế, làm cho tỷ giá đồng nội tệ tăng dần lên.
- Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối, hạn chế xuất khẩu vốn cũng như
các hoạt động chuyển ngoại tệ ra nước ngoài để tăng khả năng cung ngoại tệ nhằm
làm cho tỷ giá đồng nội tệ tăng dần lên.
- Nâng giá tiền tệ: Nâng giá đồng nội tệ so với ngoại tệ để có một tỷ giá mới
cao hơn là biện pháp điều chỉnh tỷ giá hối đoái khi những cường quốc về kinh tế
muốn sử dụng công cụ này để chiếm lĩnh thị trường, hoặc khi nền kinh tế phát triển
quá “nóng”, muốn làm “dịu lạnh” thì dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để tăng
cường chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài kiếm lời.