Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

bai thuyet trinh tai chinh tien te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.47 KB, 26 trang )

TÓM TẮT NỘI DUNG THUYẾT TRÌNH
NHÓM THỰC HIỆN:
NHÓM 8
TRƯỜNG CĐ CÔNG THƯƠNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA: QUẢN TRỊ KINH DOANH
LƠP: QTKD 32D
• I) Tổng quan Thị trường Bảo hiểm ở Việt Nam
• II) Các loại hình Bảo hiểm
• 1) Khái niệm Bảo hiểm
• 2) Phân loại các loại hình Bảo hiểm
• III) Kết luận Thị Trường Bảo Hiểm ở Việt Nam.
Các thành viên nhóm 8:
- Hồ Quang Toàn
- Nguyễn Anh Dũng
- Lại Văn Mến
- Nguyễn Đức Linh
- Đoàn Quá
- Nguyễn Mạnh Linh
- Trần Thị Thới
- Trương Thị Phúc
- Đặng Thị Thu Hiền
- Nguyễn Văn Hiếu
- Nguyễn Thị Hương
- Nguyễn Thị Kim Hồng.
- Nguyễn Văn Nhã
I) TỔNG QUAN THỊ TRƯỜNG BẢO HIỂM Ở VIỆT NAM
Bảo hiểm là một lĩnh vực rất quan trọng đối với các quốc gia nói chung
và với Việt Nam nói riêng. Không chỉ là một biện pháp di chuyển rủi ro,
bảo hiểm ngày nay đã trở thành một trong những kênh huy động vốn hiệu
quả cho nền kinh tế. Thực tế hoạt động kinh doanh bảo hiểm thời gian
qua đã cho thấy sự lớn mạnh không ngừng của ngành bảo hiểm và nhiều


tiềm năng phát triển trong tương lai. Tuy nhiên, thị trường bảo hiểm Việt
Nam đang được đa dạng hóa với tốc độ cao, sức ép mở cửa thị trường và
thách thức hội nhập ngày càng lớn. Ngành bảo hiểm Việt Nam sẽ phải
làm gì để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội của đất nước và đáp
ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập?
ở Việt Nam, bảo hiểm xuất hiện từ bao giờ? Không có tài liệu nào chứng
minh một cách chính xác mà chỉ phỏng đoán vào năm 1880 có các Hội
bảo hiểm ngoại quốc như Hội bảo hiểm Anh, Pháp, Thụy sĩ, Hoa kỳ đã
để ý đến Đông Dương. Các Hội bảo hiểm ngoại quốc đại diện tại Việt
Nam bởi các Công ty thương mại lớn, ngoài việc buôn bán, các Công ty
này mở thêm một Trụ sở để làm đại diện bảo hiểm. Vào năm 1926, Chi
nhánh đầu tiên là của Công ty Franco- Asietique. Đến năm 1929 mới có
Công ty Việt Nam đặt trụ sở tại Sài Gòn, đó là Việt Nam Bảo hiểm Công
ty, nhưng chỉ hoạt động về bảo hiểm xe ô tô. Từ năm 1952 về sau, hoạt
động bảo hiểm mới được mở rộng dưới những hình thức phong phú với
sự hoạt động của nhiều Công ty bảo hiểm trong nước và ngoại quốc
Ở Miền Bắc, ngày 15/01/1965 Công ty Bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là
Bảo Việt) mới chính thức đi vào hoạt động.
Thị trường bảo hiểm ở nước ta trong những năm gần đây đã rất sôi động,
đa dạng. Số lượng công ty hoạt động kinh doanh bảo hiểm ngày càng
tăng; các loại hình sở hữu đa dạng ở cả bảo hiểm nhân thọ và phi nhân
thọ, thuộc cả ba lĩnh vực bảo hiểm con người, bảo hiểm tài sản và bảo
hiểm trách nhiệm dân sự; tính cạnh tranh của các công ty đã và đang từng
bước thoả mãn tốt hơn nhu cầu của các khách hàng.
Trên thị trường bảo hiểm đã xuất hiện nhiều sản phẩm mới và khá độc
đáo trên cơ sở kết hợp giữa các yếu tố tiết kiệm – đầu tư bảo vệ, được
công luận đánh giá cao như sản phẩm bảo hiểm tai nạn cá nhân cho người
sử dụng thẻ ATM, bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm của người chăn nuôi
và sản xuất thức ăn gia cầm, bảo hiểm bệnh hiểm nghèo… Tốc độ tăng
doanh thu phí của bảo hiểm Việt Nam ở mức khá cao so với thế giới và

khu vực. Một số công ty bảo hiểm tuy mới đi vào hoạt động nhưng cũng
đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao như Bảo Minh, Prudential, PJICO…
Vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả
năng giữ lại phí bảo hiểm trong nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui
định của nhà nước về tái bảo hiểm bắt buộc qua VINARE đã giúp mức
phí giữ lại của toàn thị trường tăng đều qua các năm. Tổng mức phí giữ
lại chiếm khoảng 70% tổng phí bảo hiểm gốc, giảm được một lượng
không nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Theo đánh giá của
HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt mức
trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức
8-10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển
của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn.
Các công ty bảo hiểm Việt Nam đang tích cực hợp tác, giúp đỡ nhau cùng
có lợi. Các công ty bảo hiểm đã có được bản đồng thoả thuận về khai thác
bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Đặc biệt, sự ra đời của Hiệp hội bảo
hiểm Việt Nam đại diện cho các doanh nghiệp cũng thể hiện những bước
tiến tích cực của bảo hiểm ViệtNam.
II) CÁC LOẠI HÌNH BẢO HIỂM
1) Khái niệm bảo hiểm:
Bo him l mt nghip v qua ú, mt bờn l ngi c bo
him cam oan tr mt khon tin gi l phớ bo him thc hin mong
mun cho mỡnh hoc cho mt ngi th 3 trong trng hp xy
ra ri ro s nhn c mt khon n bự cỏc tn tht c tr bi mt
bờn khỏc: ú l ngi bo him. Ngi bo him nhn trỏch nhim i
vi ton b ri ro v n bự cỏc thit hi theo cỏc phng phỏp ca
thng kờ.
Núi cỏch khỏc: Bo him cú th nh ngha l mt phng sỏch h
gim ri ro bng cỏch kt hp mt s lng y cỏc n v i
tng bin tn tht cỏ th thnh tn tht cng ng v cú th d
tớnh c.

2) Phõn loi
Cn c vo i tng Bo him.
- Bo him ti sn.
- Bo him con ngi
- Bo him trỏch nhim dõn s
Cn c vo loi hỡnh bo him:
- Bo him nhõn th
- Bo him phi nhõn th.
a) phõn tớch cỏc loi hỡnh bo him
Bo him nhõn th.
Bảo hiểm ra đời từ rất lâu trên thế giới và xuất hiện đầu tiên ở nớc
Anh.ở Việt nam dới thời kỳ pháp đô hộ năm 1918 Pháp đã thực hiện bảo
hiểm cho công nhân viên chức bị tàn tật. Đến năm 1945 chủ tịch Hồ Chí
Minh kí xác lệnh về BHXH, cho đến năm 1965 tổng công ty Bảo Hiểm
việt nam ra đời gọi tắt là Bảo việt. Đây là đơn vị kd bảo hiểm đầu tiên ở
Việt Nam với hình thức là Bảo hiểm nhà nớc. Nhât là từ khi có nghị định
100CP về BHTM thì hàng loạt công ty BHTM ra đời và từ đó đến nay
nganh bảo hiểm của Việt Nam không ngừng phát triển và đóng góp to lớn
cho ngân sách nhà nớc. Đặc biệt là gần đây(tháng 8 năm 1996)Bảo Việt
đã triển khai mạnh mẽ nghiệp vụ mới, đó là bảo hiểm nhân thọ, đây là
nghiệp vụ BH rất thiết thực và hiêu quả trong cuộc sống vì nó vừa mang
tính tiết kiệm vừa mang tính Bảo hiểm rủi ro.
Với những u điểm của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng thì việc tham gia loại hình này luôn là vấn đề cần thiết.
Bảo Hiểm Nhân Thọ là loại hình Bảo hiểm con ngời mang tính chất
một nghiêp vụ Bảo hiểm bảo đảm phân tán rủi ro theo qui luật số đông
trong Bảo hiểm, đồng thời còn là một hình thức tiết kiệm có kế hoạch.
Mục đích chính của Bảo hiểm nhân thọ là trả số tiền rất lớn ngay khi ngời
tham gia Bảo hiểm mới tiết kiệm đợc số tiền nhỏ. Quỹ Bảo hiểm đợc hình
thành trên cở đóng góp chung của cộng đồng ngời htam gia Bảo hiểm,

trong quá trình sử dụng nó tạo ra khoản lời cho nhà Bảo hiểm, nó đợc sử
dụng hết vào viẹc trả tiền Bảo hiểm khi có sự cố bảo hiểm xảy ra.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay làm thế nào dể cho mọi ngời hiểu biết
rõ về Bảo Hiểm nhân thọ và thấy đợc lợi ích to lớn của nó từ đó thu hút đ-
ợc nhiều ngời tham gia Bảo hiểm nhân thọ đủ lớn và hiệu quả sử dụng của
nó có ý nghĩa đối với đời sống xã hội, đây là một vấn đề đang gạp nhiêù
khó khăn nó phải đợc sự quan tâm chung của mọi tổ chức xã hội, không
chỉ riêng ngành Bảo Hiểm. Xuất phát từ những suy nghĩ đó nên việc chọn
đề tài Bàn về nghiệp vụ Bảo hiểm nhân thọ và các loại hình Bảo hiểm
nhân thọ đang đợc triển khai ở Việt Nam hiện nay là rất thiết thực và
có ý nghĩa to lớn về mạt lý luận trong lĩnh vực Bảo hiểm nói chung và
trong Bảo hiểm nhân thọ nói riêng.
Với những u điểm của bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói
riêng thì việc tham gia loại hình này luôn là vấn đề cần thiết.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay làm thế nào dể cho mọi ngời hiểu biết
rõ về Bảo Hiểm nhân thọ và thấy đợc lợi ích to lớn của nó từ đó thu hút đ-
ợc nhiều ngời tham gia Bảo hiểm nhân thọ đủ lớn và hiệu quả sử dụng của
nó có ý nghĩa đối với đời sống xã hội, đây là một vấn đề đang gạp nhiêù
khó khăn nó phải đợc sự quan tâm chung của mọi tổ chức xã hội, không
chỉ riêng ngành Bảo Hiểm. Xuất phát từ những suy nghĩ đó nên việc chọn
đề tài Bàn về nghiệp vụ Bảo hiểm nhân thọ và các loại hình Bảo hiểm
nhân thọ đang đợc triển khai ở Việt Nam hiện nay là rất thiết thực và
có ý nghĩa to lớn về mạt lý luận trong lĩnh vực Bảo hiểm nói chung và
trong Bảo hiểm nhân thọ nói riêng.
Bảo hiểm nhân thọ và nguyên tắc hoạt động:
1- Bảo Hiểm Nhân thọ là gì?
a- Khái niệm:
Bảo hiểm nhân thọ là sự cam kết giữa công ty bảo hiểm với ngời
tham gia bảo hiểm mà trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số
tiền bảo hiểm (số tiền bảo hiểm) cho ngời tham gia khi nguơì tham gia có

những sự kiện đã định trớc (chẳng hạn nh: chết thơng tật toàn bộ vĩnh
viễn, hết hạn hợp đồng, sống đến một thời hạn nhất định. Còn ngời tham
gia Bảo hiểm có trách nhiệm nộp phí Bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn.
Nh vậy Bảo hiểm nhân thọ đơc hiểu nh một sự bảo đảmmột hình
thức tiết kiệm và mang tính chất tơg hỗ. Mỗi ngời mua hợp đồng Bảo
hiểm nhân thọ (thờng gọi là ngời đợc BH) sẽ định kỳ trả những khoản tiền
nhỏ ( gọi là phí BH) trong mọt thời gian dài đã thoả thuận trớc (gọi là thời
hạn BH) vào một quỹ lớn do công ty BH quản lý, và công ty BH có trách
nhiệm trả một số tiền lớn đã định trớc(gọi là số tiền bảo hiểm) cho ngời đ-
ợc bảo hiểm khi ngời đợc Bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định, khi
kết thúc thời hạn Bảo hiểm hay khi có một sự kiện xảy ra ( ngời đợc Bảo
hiểm kết hôn hoặc vào đại học hoặc nghỉ hu ) hoặc cho thân nhân và
gia đình ngời đợc Bảo hiểm nếu không may họ chết sớm hơn.
Bảo hiểm nhân thọ đợc coi là một hình thức tiết kiệm dài hạn nhng
không phải là hoàn toàn giống hệt nhau. Trong góc độ nghiên cứu ta cần
phân biệt rõ về hai hình thức này vì nó rất thiết thực và gần gũi vơí đời
sống của chúng ta. Thực tế Bảo hiểm nhân thọ xét về mặt tích cực có
những điểm giống và khác nhau so với hình thức tiết kiệm.
Nguyên tắc hoạt động của Bảo hiểm nhân thọ:
Nguyên tắc vừa Bảo hiểm vừa tiết kiệm: tức là hợp đồng sẽ đợc kí
kết với ngời tham gia. Ngời tham gia Bảo hiểm nhân thọ sẽ tuỳ chọn lấy
số tiền bảo hiểm sẽ nhận về sau và từ đó sẽ thực hiện đóng phí theo mức
quy định và nộp phí theo (tháng quý, năm ). khi hết hạn hợp đồng Bảo
hiểm ngời tham gia Bảo hiểm đợc nhận toàn bộ số tiền bảo hiểm. Đó là
mức trách nhiệm tối đa mà công ty Bảo hiểm phải trả, ngoài ra họ còn đ-
ợc nhận thêm một khoản lãi suất từ hoạt động đầu t vốn của công ty Bảo
hiểm nhân thọ. Vì vậy ý nghĩa tiết kiệm của Bảo hiểm nhân thọ là ở chỗ
khác với loại hình Bảo hiểm khác, ngời tham gia Bảo hiểm chắc chắn đ-
ợc nhận số tiền bảo hiểm vào ngày kết thúc của hoạt động Còn ý nghĩa
bảo hiểm của Bảo hiểm nhân thọ là nếu ngơì tham gia Bảo hiểm nhân thọ

bị thơng tật toàn bộ vĩnh viễn do tai nạn thì công ty sẽ dừng thu phí nhng
hợp đồng vẫn đợc duy trì và công ty Bảo hiểm sẽ trả toàn bộ số tiền bảo
hiểm khi hết hạn hoạt động.
Mặt khác hoạt động của Bảo hiểm nhân thọ cũng dựa trên quy luật
số đông bù số ít, cụ thể đó là trong trờng hợp ngời tham gia không phải
đống phí nhng hoạt động vẫn đợc duy trì. Khi đó Bảo hiểm nhân thọ sẽ
dựa vào số đông ngời để xan xẻ để bù đắp sự thiếu hụt đó và khắc phục
dần trong nhiều năm. Nó thể hiện tính chất xã hội hoá rất cao đồng thời
còn mang cả tính nhân đạo nhân văn cao cả bởi vì Bảo hiểm nhân thọ luôn
ở bên cạnh mỗi cá nhân, mỗi tập thể những lúc họ gặp khó khăn.
Bảo hiểm nhân thọ còn đảm bảo đợc nguyên tắc trung thực và tín
nhiệm tuyệt đối, luôn tạo cơ hội và hỗ trợ cho ngời tham gia có đợc những
ích lợi đích thực, đảm bảo cho cả hai bên cùng có lợi.
Sự cần thiết và tác dụng của bảo hiểm nhân thọ:
Tại sao cần thiết mua bảo hiểm nhân thọ
Có thể khẳng định rằng các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ chắc chắn
mang lại lợi ích cho các chủ hợp đồng khi họ tham gia. Mặt khác còn góp
phần tăng trởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên áp dụng ở Việt Nam
nghiệp vụ này cho thấy bảo hiểm nhân thọ ra đời đáp ứng đợc những vấn
đề cơ bản sau:
Trờng hợp ngời tham gia không may bị chết, gia đình có tiền để trả
nợ trả những khoản chi phí mai táng chôn cất. Bù đắp dợc những khoản
thu nhập thờng xuyên cho gia đình. Khi ngời chủ gia đình bị chết hoặc là
ngời tham gia là ngời có thu nhập chính trong gia đình nay không còn có
thu nhập nữa.
Trờng hợp ngời tham gia không may bị thơng tật vĩnh viễn hoặc bị
ốm đau, gia đình sẽ có tiền chi phí để cứu chữa (nh tiền thuốc, tiền nằm
viện, phẫu thuật). Đối với cuộc sống bình thờng: gia đình sẽ có tiền để trả
học phí và các khoản lệ phí khác trong trờng hợp còn học đại học, cới xin,
khởi nghiệp kinh doanh Và có đợc khoản tiền để trả nợ nếu mua một

ngôi nhà mới. Ngoài ra còn có đợc một khoản tiền lớn khi về hu đồng tiền
góp phần tăng thêm tích luỹ ngân sách cho gia đình.
Đối với hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ góp
phần bù đắp thiệt hại cho các doanh nghiệp do ngời chủ dn không may bị
chết thì sẽ đợc trả số tiền bảo hiểm mà dã đợc chọn trớc cho ngời đợc hởng
quyền lợi BH. Trờng hợp tai nạn dẫn đến thơng tật toàn bộ vĩnh viễn thì sẽ
đợc trả số tiền BH và hợp đồng vẫn đợc duy trì miễn phí với đầy đủ các
quyền lợi BH khác và từng năm sẽ đợc chia thêm lãi từ kết quả đầu t phí
bảo hiểm nhân thọ của công ty.
Tác dụng:
Bảo hiểm nhân thọ ra đời có nhiều tác dụng tuy vậy có thể khái quát
ở một số tác dụng chủ yếu sau:
Đối với từng cá nhân và gia đình, nó thể hiện sự quan tâm lo lắng
của ngời chủ gia đình với ngời phụ thuộc, giữa cha mẹ với con cái đồng
thời góp phần làm giảm bớt khó khăn về mặt tài chính của gia đình khi
không may gặp rủi ro.
Tham gia bảo hiểm nhân thọ cũng có nghĩa là tiết kiệm một cách th-
ờng xuyên có kế hoạch. Khi quyết định mua một hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ thì những khoản phí nhỏ phải nộp hàng tháng trích từ ngân sách của
một gia đình có thể coi nh những khoản chi tiền điện, tiền nớc, tiền nhà
Khoản tiền tiết kiệm đợc thực chất đã tạo lập đợc nguồn quỹ nhất
định cho gia đình. Góp phần để giáo dục con cái vàcó tiền để chi dùng khi
về hu.
Đối với nền kinh tế bảo hiểm nhân thọ đã thu hút đợc một lợng tiền
rất lớn còn nhàn rỗi nằm tản mạn ở các tầng lớp dân c trong xã hội. Lợng
tiền này không chỉ có ý nghĩa tiết kiệm chống lạm phát mà còn góp phần
đáng kể vào nguồn vốn đầu t dài hạn giúp nền kinh tế tăng trởng và phát
triển. Qua số liệu thống kê trên thế giới những năm qua cho thấy nghiệp
vụ này chiếm phần lớn trong GDP của một số quốc gia trong bảng sau:
Đơn vị: Triệu USD

Tên nớc Tổng phí %bảo hiểm nhân thọ %so với GDP
Hàn quốc 36, 1 79 8, 68
Nhật bản 320 73 5, 6
Đài loan 9. 9 69 6, 0
Mĩ 522 41 3, 4
Anh 192 64, 5 7, 1
Đối với xã hội: bảo hiểm nhân thọ góp phần tạo thêm công ăn việc
làm cho ngời lao động nâng cao phúc lợi cộng đồng. Nh ở hàn quốc có
hơn một ngời làm việc ở các công ty bảo hiểm nhân thọ.
các loại hình bảo hiểm nhân thọ cơ bản:
Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn:
Khái niệm:
- Bảo hiểm sinh mạng có thời hạn đợc hiểu là loại hình bảo hiểm mà
trong đó công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả số tiền bảo hiểm cho ngời
tham gia khi họ không may bi chết. Đó là lúc công ty sẽ thanh toán toàn
bộ số tiền bảo hiểm.
Ví dụ: Một chủ thầu xây dựng đầu t một phần lớn tài sản của mình
vào một dự án. Nếu ông ta sống thì sẽ thu đợc món lợi lớn từ dự án, nhng
nếu không may ông ta chết thì vốn đầu t của ông ta sẽ mất và gia đình
ông ta sẽ gặp khó khăn về tài chính. Vì thế ông ta có thể mua hợp đồng
bảo hiểm sinh mạng có thời hạn để bảo vệ cho công việc đầu t xây dựng
của mình cho đến khi hoàn thành.
Bảo hiểm nhân thọ suốt cuộc đời:
Khái niệm:
Bảo hiểm nhân thọ suốt cuộc đời có số tiền bảo hiểm sẽ đợc trả khi
ngời đợc bảo hiểm chết, với điều kiện đã đóng đủ phí bảo hiểm cho đến
khi chết và nếu chết trớc tuổi 100. Giá trị của hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ suốt cuộc đời tăng đều và sẽ bằng số tiền bảo hiểm nếu ngời dợc bảo
hiểm còn sống và đã nộp phí đầy đủ cho đến tuổi 100. Nếu chủ hợp đồng
sống đến 100 tuppỉ và hợp đồng vẫn còn hiệu lực nh hợp đồng bảo hiểm

hỗn hợp.
Nh vậy hợp đồng bảo hiểm trọn đời là một hình thức bảo vệ lý tởng
trong nhiều trờng hợp. nếu so sánh với các loại bảo hiểm dài hạn khác thì
loại nay cung cấp số tiền bảo hiểm lớn nhất, mà phí bảo hiểm lại nhỏ
nhất, hợp đồng có u thế chuyển đổi linh hoạt.
Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn hỗn hợp:
Khái niệm:
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp cũng là một trong những loại
bảo hiểm dài hạn và có đặc trng riêng biệt của mình. hợp đồng này đáp
ứng nhu cầu của những ngời muốn có hợp đồng bảo hiểm nhân thọ có giá
trị tiền mặt tăng nhanh đẻ họ có một khoản tiền nào đó trong tơng lai.
Hiện nay trên thế giới đang thực hiện nhiều loại hình bảo hiểm nhân
thọ hỗn hợp nh sau:
+Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 10 năm
+Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 20 năm
+Hợp đông bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp 30 năm
+Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp chấm dứt tại tuổi 55 hoặc 65
Hiện nay công ty bảo hiểm nhân thọ - bảo việt nhân thọ- đang triển
khai hai nghiệp vụ bảo hiểm nhân thọ đó là:
- Bảo hiểm nhân thọ có thời hạn 5 năm, mời năm.
- Bảo hiểm trẻ em- chơng trình an sinh giáo dục- đảm bảo cho trẻ em
đến tuổi trởng thành.
Cả hai loại này đều thuộc nhóm bảo hiểm nhân thọ hỗn hợp nên thể
hiện rất rõ nét tính kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm.
Hợp đồng tiền trợ cấp hu trí:
Đây là loại hình mà phí bảo hiểm đóng ngay một lần và công ty bảo
hiểm có trách nhiệm trả trợ cấp định kỳ cho ngời đợc bảo hiểm về hu cho
đến khi chết.
Ngời ta thờng kết hợp dạng bảo hiểm trợ cấp hu trí với bảo hiểm hu
trí. Khi về hu ngời đợc bảo hiểm đợc nhận số tiền bảo hiểm của hợp đồng

bảo hiểm hu trí và mua ngay hợp đồng bảo hiểm trợ cấp hu trí để đảm bảo
cuộc sống khi về hu cho đến khi chết.
Các loại hình:
Có hai loại trợ cấp hu trí đó là:
+Trợ cấp theo số tiền cố định.
+Số tiền trợ cấp có thể thay đổi.
các loại hình bảo hiểm nhân thọ đang đ ợc triển khai ở n ớc
ta hiện nay
bảo hiểm nhân thọ ở việt nam - khả năng và triển
vọng phát triển:
- Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là những hợp đồng dài hạn 5 năm, 10
năm, 17 năm Do đó sản phẩm chỉ thực sự đợc đánh giá là tốt vào thời điểm
kết thúc hợp đồng.
- Trong thời gian hợp đồng có hiẹu lực, nếu Bảo Việt thờng xuyên có
những cải tiến nâng cao chất lợng sản phẩm và phấn đấu hạ giá thành thì
chắc chắn sẽ sớm có đợc con số hàng trăm ngàn hợp đồng. Cha kể trên cơ
sở các sản phẩm hiện có, Bảo Việt lại phân ra một loạt các sản phẩm bảo
hiểm nhân thọ mới phù hợp với thị hiếu của khách hàng.
Xu hớng hoạt động và triển khai bảo hiểm nhân thọ ở nớc ta đã đạt
đợc những kết quả khả quan
Bảng 2: Thống kê phí bảo hiểm năm 1993
ở một số nớc trên thế giới
Tên nớc
Tổng số phí
bảo hiểm
Cơ cấu phí bảo hiểm (%)
Tỷ lệ phí
Bảo hiểm
nhân
thọ/GDP

(%)
Tỷ lệ phí phi
Bảo hiểm
nhân thọ/
GDP (%)
(triệu USD) Nhân thọ Phi nhân thọ
Hàn Quốc 36. 050 79, 66 20, 34 6, 8 2, 21
Nhật Bản 320. 143 73, 86 26, 14 5, 61 1, 98
Đài Loan 9. 886 68, 77 31, 23 3, 14 1, 43
Singapore 1. 666 62, 12 37, 28 1, 89 1, 14
Thái Lan 2. 127 53, 64 43, 36 0, 92 0, 80
Malaixia 1. 989 46, 45 53, 55 1, 43 1, 65
Indonexia 1. 233 30, 25 69, 75 0, 26 0, 60
Mỹ 522. 468 41, 44 58, 56 3, 41 4, 82
Đức 107. 403 39, 38 60, 62 2, 25 3, 46
Pháp 84. 303 56, 55 43, 45 3, 80 2, 92
Anh 102. 360 64, 57 35, 43 7, 00 3, 85
(Số liệu tổng cục thống kê)
Ngoài ra để ngành Bảo hiểm nhân thọ đợc phát triển thì không chỉ có
sự cố gắng của công ty bảo hiểm, mà phải có sự ủng hộ tích cực của Nhà
nớc thì việc kinh doanh Bảo hiểm nhân thọ mới phát triển một cách ổn
định hơn nh:
- Miễn thuế thu nhập đối với khoản tiền đóng phí bảo hiểm hay
khoản tiền nhận đợc từ phía công ty, khi công ty trả quyền lợi bảo hiểm.
- Cho phép dùng hợp đồng bảo hiểm để đi vay tiền ở ngân hàng hay
các tổ chức tín dụng khác (hợp đồng Bảo hiểm nhân thọ đóng vai trò là
vật thế chấp).
- Cho phép công ty cho ngời tham gia Bảo hiểm nhân thọ vay vốn từ
số phí bảo hiểm nhàn rỗi.
- Miễn thuế danh thu phí Bảo hiểm nhân thọ.

Để nghiệp vụ ngày càng phát triển thì công ty phải không ngừng cố
gắng trong mọi khâu, mọi qui trình công việc triển khai nghiệp vụ để đáp
ứng yêu cầu đổi mới, hoàn thiện và nâng cao.
Bảng : Cơ cấu tình hình khai thác
Tháng Hợp đồng bảo Hợp đồng bảo Tăng giảm liên hoàn
hiểm có thời hạn
(%)
hiểm trẻ em (%)
bảo hiểm có
thời hạn (%)
bảo hiểm trẻ em
(%)
1 41, 92 58, 08 - -
2 39, 11 60, 89 - 12, 86 - 2, 06
3 40, 34 59, 66 19, 67 13, 68
4 43, 24 56, 76 35, 61 20, 37
5 43, 02 56, 98 52, 52 53, 84

Bảo hiểm PHI NHN TH và nguyên tắc hoạt động:
Tổng quan về bảo hiểm phi nhân thọ
1. Sự cần thiết về tác dụng của Bảo hiểm phi nhân thọ
Bảo hiểm phi nhân thọ là sự cam kết giữa ngời tham gia bảo hiểm
với ngời bảo hiểm mà trong đó, ngời bảo hiểm sẽ trả cho ngời tham gia
hoặc ngời thụ hởng quyền lợi bảo hiểm một số tiền nhất định khi có các
sự kiện đã định trớc xảy ra, còn ngời tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy
đủ, đúng hạn.
ví dụ nh:
- Các rủi ro do môi trờng thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, rét, hạn, s-
ơng muối, dịch bệnh v.v
- Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học và kỹ

thuật. Khoa học và kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản xuất và tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của con ngời: nhng mặt khác cũng gây
ra nhiều tai nạn bất ngờ nh tai nạn ô tô, hàng không, tai nạn lao động v.v
- Các rủi ro do môi trờng xã hội: Đây cũng là một trong những
nguyên nhân gây ra rủi ro cho con ngời. Chẳng hạn, nếu xã hội tổ chức
quản lý chặt chẽ - mọi ngời làm việc và sống theo pháp luật thì sẽ không
xảy ra hiện tợng thất nghiệp, trộm cắp; nếu làm tốt cong tác chăm sóc sức
khoẻ sẽ hạn chế đợc các rủi ro không đáng có nh hoả hoạn, bạo lực, v v
+ Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các hiện tợng tránh
né rủi ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiếu rủi ro. Các biện pháp này thờng
đợc sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
- Tránh né đợc rủi ro là biện pháp đợc sử dụng thờng xuyên trong
cuộc sống. Mỗi ngời, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những
biện pháp thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức loại trừ cơ hội dẫn
đến tổn thất.
- Ngăn ngừa tổn thất: Các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đa ra các
hành động làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra.
Ví dụ, để giảm thiểu các tai nạn lao động, ngời ta tổ chức các khóa học
nâng cao trình độ của ngời lao động hay nâng cao chất lợng các hoạt
động đảm bảo an toàn lao động; đề phòng chống hoả hoạn ngời ta thực
hiện tốt việc phòng cháy chữa cháy.
- Giảm thiểu tổn thất: ngời ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua
các biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, nh
khi có hoả hoạn, để giảm thiểu tổn thất, ngời ta cố gắng cứu các tài sản
còn dùng đợc; hay trong một tai nạn giao thông; để giảm thiểu các thiệt
hại về ngời và của ngời ta đa ra ngay những ngời bị thơng đến nơi cấp
cứu và điều trị.
Mặc dù các biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc
ngăn chặn hoặc giảm thiểu rủi ro nhng khi rủi ro đã xảy ra, ngời ta không
thể lờng hết đợc hậu quả.

+ Nhóm các biện pháp tài trợ rủi ro bao gồm các biện pháp chấp
nhận rủi ro và bảo hiểm. Đây là các biện pháp đợc sử dụng trớc khi rủi ro
xảy ra với mục đích khắc phục các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu
có.
+ Chấp nhận rủi ro: Đây là hình thức mà ngời gặp phải tổn thất tự
chấp nhận khoản tổn thất đó. Một trờng hợp điển hình của chấp nhận rủi
ro là tự bảo hiểm. Có rất nhiều cách thức khác nhau trong biện pháp chấp
nhận rủi ro, tuy nhiên có thể phân chia làm hai nhóm: chấp nhận rủi ro
thụ động và chấp nhận rủi ro chủ động.
- Bảo hiểm: Đây là một phần quan trọng trong các chơng trình quản
lý rủi ro của các tổ chức cũng nh cá nhân. Theo quan điểm của các nhà
quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng.
Theo quan điểm xã hội, bảo hiểm không chỉ là chuyển giao rủi ro mà còn
là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể
tiên đoán về các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó
với hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra, có hiệu quả nhất. Nh vậy, bảo hiểm
ra đời là đòi hỏi khách quan của cuộc sống, của hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Vì vậy, khái niệm "bảo hiểm" trở nên gần gũi, gắn bó với con ngời,
với các đơn vị sản xuất kinh doanh. Có đợc quan hệ đó vì bảo hiểm đã
mang lại lợi ích kinh tế xã hội thiết thực cho mọi thành viên, mọi đơnvị có
tham gia bảo hiểm.
Tác dụng đó đợc thể hiện:
- Ngời tham gia bảo hiểm (cá nhân hay tổ chức) đợc trợ cấp, bồi th-
ờng những thiệt hại thực tế do rủi ro, bất ngờ gây ra thuộc phạm vi bảo
hiểm. Nhờ đó họ nhanh chóng ổn định kinh tế, khôi phục đời sống và sản
xuất kinh doanh
- Nhờ có bảo hiểm những ngời tham gia đóng góp một số phí tạo
thành nguồn quỹ bảo hiểm lớn ngoài chi trả hay bồi thờng còn là nguồn
vốn để đầu t phát triển kinh tế

- Bảo hiểm, nhất là bảo hiểm thơng mại còn đóng góp tích luỹ cho
ngân sách
- Bảo hiểm cùng với ngời tham gia bảo hiểm thực hiện các biện
pháp để phòng ngừa tai nạn xảy ra nhằm giảm bớt và hạn chế hậu quả
thiệt hại.
- Bảo hiểm là chỗ dựa tinh thần cho mọi ngời, mọi tổ chức; giúp họ
yên tâm trong cuộc sống, trong sinh hoạt sản xuất kinh doanh; bảo hiểm
thể hiện tính cộng đồng, tơng trợ, nhân văn sâu sắc.
- Bảo hiểm còn góp phần thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa
các nớc, nhất là thông qua hoạt động tái bảo hiểm v.v
- Cuối cùng, hoạt động bảo hiểm thu hút một số lao động nhất định,
góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp cho xã hội (theo thống kê, bảo
hiểm các nớc thu hút 1% lực lợng lao động xã hội).
Các loại hình bảo hiểm phi nhân thọ
Để không ngừng phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội của
đất nớc, bảo hiểm phi nhân thọ đã luôn chú trọng phát triển các nghiệp vụ
nhằm đa dạng hoá sản phẩm Bảo hiểm, đáp ứng đợc nhu cầu da dạng và
phong phú của con ngời. Hiện nay nếu căn cứ vào đối tợng bảo hiểm phi
nhân thọ đợc chia làm 3 loại:
- Bảo hiểm tài sản
- Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
- Bảo hiểm con ngời phi nhân thọ.
. Bảo hiểm tài sản
Đây là loại bảo hiểm mà đối tợng bảo hiểm là tài sản (cố định hay l-
u động) của ngời đợc bảo hiểm. Ví dụ nh: Bảo hiểm cho thiệt hại vật chất
xe cơ giới, bảo hiểm cho hàng hoá của các chủ hàng trong bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tài sản của ông chủ nhà trong bảo hiểm
trộm cắp.
. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự
Bên cạnh các nghiệp vụ bảo hiểm tài sản còn có các nghiệp vụ bảo

hiểm trách nhiệm dân sự nh : bảo hiểm TNDS của chủ xe cơ giới ,bảo
hiểm TNDS của chủ lao động , Bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm , bảo
hiểm trách nhiệm công cộng, Theo luật dân sự , trách nhiệm dân sự của
một chủ thể ( nh chủ tài sản, chủ doanh nghiệp, chủ nghề nghiệp) đợc
hiểu là trách nhiệm phải bồi thờng các thiệt hại về tài sản, về con ngời
gây ra cho ngời khác do lỗi của ngời chủ đó. Trách nhiệm dân sự bao gồm
trach nhiệm dân sự trong hợp đồng và trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng. Thông thờng các dịch vụ bảo hiểm cung cấp sự bảo đảm cho các
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng.
Ngời thứ ba trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự là những ngời có
tính mạng, tài sản bị thiệt hại trong sự cố bảo hiểm và đợc quyền nhận bồi
thờng từ ngời bảo hiểm với t cách là ngời thụ hởng. Ngời thứ ba có quan
hệ về mặt trách nhiệm dân sự với ngời đợc bảo hiểm nhng chỉ có mối
quan hệ gián tiếp với ngời bảo hiểm.
Ví dụ, đó là ngời lao động gặp tai nạn lao động trong bảo hiểm
trách nhiệm dân sự chủ lao dộng đối với ngời lao động.
. Bảo hiểm con ngời phi nhân thọ
Mặc dù cũng là loại hình bảo hiểm con ngời, nhng bảo hiểm con
ngời phi nhân thọ trong BHTM có những đặc điểm chủ yếu sau đây:
- Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại vì rủi ro bảo
hiểm ở đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau thai sản liên quan đến thân thể và
sức khoẻ của con ngời. Những rủi ro ở đây khác với 2 sự kiện sống và
chết trong bảo hiểm nhân thọ và vì thế tính chất rủi ro đợc bộc lộ khá rõ
còn tính chất tiết kiệm không đợc thể hiện.
- Ngời đợc bảo hiểm thờng đợc quy địn trong một khoảng tuổi nào
đó, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những có độ
tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro diễn biến phức tạp, xác suất
rủi ro cao, việc kiểm soát và quản lý rủi ro rất khó thực hiện. Chẳng hạn ở
nớc ta, các công ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những em bé
dới 12 tháng tuổi và những ngời trên 65 tuổi. Nhng ở nớc Anh lại quy

định khác, những đứa trẻ dới 3 tuổi và những ngời trên 65 tuổi không đợc
các công ty bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm.
- So với bảo hiểm nhân thọ, thời hạn bảo hiểm con ngời phi nhân
thọ ngắn hơn và thờng là 1 năm nh: Bảo hiểm tai nạn 24/24, bảo hiểm trợ
cấp nằm viện phẫu thuật Thậm chí có nghiệp vụ, thời hạn bảo hiểm chỉ
trong vòng vài ngày, phí bảo hiểm thờng đợc nộp 1 lần khi ký kết hợp
đồng bảo hiểm.
- Các nghiệp vụ bảo hiểm con ngời phi nhân thọ thờng đợc triển
khai kết hợp với các nghiệp vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng
bảo hiểm. Chẳng hạn: bảo hiểm tai nạn đợc lồng ghép trong bảo hiểm
nhân thọ hỗn hợp, bảo hiểm tai nạn lái phụ xe đợc triển khai kết hợp với
bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất thân xe trong trờng hợp
đồng bảo hiểm xe cơ giới v.v
- Hầu hết các nớc trên thế giới, trong giai đoạn đầu của sự phát
triển ngành bảo hiểm con ngời phi nhân thọ đợc triển khai, vừa rút kinh
nghiệm, đến khi điều kiện kinh tế - xã hội đã chín muồi mới tổ chức triển
khai bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, bảo hiểm con ngời phi nhân thọ đ-
ợc coi là loại hình bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình
BHXH, BHYT. ở Việt Nam, hầu hết các nghiệp vụ bảo hiểm con ngời phi
nhân thọ đều ra đời trong những năm cuối thập kỷ 80 và đầu thập kỷ
90,mãi đến năm 1996 mới tổ chức triển khai bảo hiểm nhân thọ.
III) KT LUN TH TRNG BO HIM VIT NAM:
Th trng bo him nc ta trong nhng nm gn õy ó rt sụi ng,
a dng. S lng cụng ty hot ng kinh doanh bo him ngy cng
tng; cỏc loi hỡnh s hu a dng c bo him nhõn th v phi nhõn
th, thuc c ba lnh vc bo him con ngi, bo him ti sn v bo
him trỏch nhim dõn s; tớnh cnh tranh ca cỏc cụng ty ó v ang tng
bc tho món tt hn nhu cu ca cỏc khỏch hng.
Vốn đầu tư cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng lên và theo đó khả
năng giữ lại phí bảo hiểm trong nước cũng được nâng lên tương ứng. Qui

định của nhà nước về tái bảo hiểm bắt buộc qua VINARE đã giúp mức
phí giữ lại của toàn thị trường tăng đều qua các năm. Tổng mức phí giữ
lại chiếm khoảng 70% tổng phí bảo hiểm gốc, giảm được một lượng
không nhỏ phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Theo đánh giá của
HHBHVN, hiện nay doanh thu phí bảo hiểm của thị trường mới đạt mức
trên 2% GDP trong khi các nước phát triển trong khu vực thường đạt mức
8-10% GDP (bình quân thế giới khoảng 8%) do đó, tiềm năng phát triển
của các DN bảo hiểm vẫn còn rất lớn.
Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã có đủ khả năng phục vụ các
ngành kinh tế, các tầng lớp nhân dân với việc tham gia vào nhiều hợp
đồng có mức trách nhiệm lớn tới hàng tỷ USD như bảo hiểm trong các
lĩnh vực hàng không; dầu khí; Nhà máy xi măng Chinfon, Nhà máy điện
Phú Mỹ, các toà nhà, khách sạn lớn cùng với hàng nghìn nhà xưởng, văn
phòng… Hoạt động đầu tư của các công ty đang tạo ra một nguồn vốn
lớn cho xã hội.
Các công ty bảo hiểm Việt Nam đang tích cực hợp tác, giúp đỡ nhau cùng
có lợi. Các công ty bảo hiểm đã có được bản đồng thoả thuận về khai thác
bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt. Đặc biệt, sự ra đời của Hiệp hội bảo
hiểm Việt Nam đại diện cho các doanh nghiệp cũng thể hiện những bước
tiến tích cực của bảo hiểm ViệtNam.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhận thấy rằng, thị trường bảo hiểm Việt Nam
vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế -
xã hội. Năng lực hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới
bảo hiểm còn khá nhiều hạn chế. Việc cạnh tranh không lành mạnh giữa
các DN bảo hiểm đang ở tình trạnh báo động. Do cạnh tranh gay gắt, các
DN bảo hiểm đã hạ phí bảo hiểm, tăng phần trợ cấp cho các đại lý, làm
giảm hiệu quả kinh doanh. Công tác giải quyết bồi thường chưa được
thực hiện tốt, chưa đảm bảo tối đa quyền lợi của khách hàng khi gặp thiệt
hại. Các sản phẩm bảo hiểm tuy đã đa dạng hơn trước, nhưng vẫn còn hạn
chế, chưa phát triển trong nhiều lĩnh vực quan trọng như thiên tai, nông

nghiệp, tín dụng và rủi ro tài chính, hoạt động hành nghề y dược, luật sư,
dịch vụ kế toán, kiểm toán… Bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt chưa
thực sự được đẩy mạnh trong khi hàng năm, ở nước ta, tai nạn do cháy nổ
vẫn gia tăng với tốc độ cao một cách đáng báo động. Bên cạnh yếu tố chủ
quan từ các công ty, có thể thấy sự thiếu hoàn thiện của hệ thống văn bản
pháp luật và công tác quản lý Nhà nước cũng đang ảnh hưởng không nhỏ
tới sự phát triển lành mạnh của ngành bảo hiểm.
Việc mở cửa thị trường sẽ vừa tạo ra cơ hội và thách thức đối với sự phát
triển của ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung và bản thân các công ty
bảo hiểm trong nước nói riêng. Bắt đầu từ ngày 1/1/2008, theo cam kết
WTO, thị trường bảo hiểm của Việt Nam sẽ thực sự mở cửa hoàn toàn,
với việc cho phép công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài được cung
cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc. Lúc đó, các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước sẽ phải chịu áp lực cạnh tranh lớn hơn, khi sự tham gia của các nhà
đầu tư nước ngoài vào thị trường bảo hiểm Việt Nam nhiều hơn, sâu hơn
và rộng hơn. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực từ rất nhiều phía: các cơ quan
Nhà nước, các công ty bảo hiểm trên thị trường, cũng như những cá nhân,
tổ chức khác có lên quan.
1. Về phía Nhà nước
Nhà nước cần thực hiện tốt công tác quản lý, tạo được môi trường pháp lý
thuận lợi, đồng thời có những cơ chế, chính sách ưu đãi để ngành bảo
hiểm có được những bước phát triển ổn định và đúng hướng; tạo lập và
duy trì một môi trường kinh doanh an toàn, ổn định, bình đẳng và thuận
lợi, trước hết ở việc xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp với sự vận
động của cơ chế thị trường, đồng thời đổi mới phương thức và nâng cao
năng lực quản lý nhà nước đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm, tiến
dần tới thực hiện các nguyên tắc và chuẩn mực quản lý bảo hiểm quốc tế.
Trong bối cảnh Việt Nam đang tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, từng
bước phải mở cửa thị trường theo các hiệp định và cam kết quốc tế,
ngành bảo hiểm đang đứng trước thách thức và vận hội mới, đòi hỏi công

tác quản lý Nhà nước phải có những cải cách phù hợp. Do vậy, việc đào
tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ của đội ngũ quản lý Nhà nước
về lĩnh vực bảo hiểm là rất cấp thiết.
Đồng thời, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về hoạt
động kinh doanh bảo hiểm để thị trường phát triển lành mạnh, an toàn,
phù hợp với yêu cầu hội nhập; bảo đảm tính chủ động và tự chịu trách
nhiệm của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm. Một chính sách phù
hợp để khuyến khích việc tham gia bảo hiểm của các cá nhân, tổ chức,
khuyến khích việc mở rộng thị trường, phạm vi hoạt động của các công ty
bảo hiểm là rất cần thiết.
2. Về phía các công ty bảo hiểm
Đối với một công ty bảo hiểm, năng lực về vốn, công nghệ, trình độ quản
lý, kinh doanh… là những yếu tố rất quan trọng tạo nên sức mạnh. Nếu
không tự hoàn thiện và nâng cao năng lực, các công ty bảo hiểm trong
nước sẽ khó có thể đứng vững và thành công trong điều kiện cạnh tranh
ngày càng trở nên gay gắt như hiện nay. Ngay từ bây giờ, các công ty bảo
hiểm trong nước cần tự tạo cho mình một vị thế vững chắc, duy trì và mở
rộng thị phần, tạo niềm tin ở khách hàng. Các công ty bảo hiểm không chỉ
phải đa dạng hoá sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ, mà còn phải
chú trọng đến việc chăm sóc khách hàng, giải quyết nhanh chóng, hợp lý
công tác bồi thường tổn thất trong các trường hợp xảy ra rủi ro được bảo
hiểm. Việc tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, phong cách phục
vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ kinh doanh, đại lý môi
giới bảo hiểm cũng rất cần thiết. Các công ty bảo hiểm cần nhanh chóng
nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin vào quá trình khai thác và quản lý hoạt động kinh
doanh nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, tiết kiệm chi phí quản lý, hạ
phí bảo hiểm một cách hợp lý. Hoạt động đầu tư cũng cần được đẩy mạnh
một cách có hiệu quả, bằng cách tận dụng tối đa các công cụ đầu tư tài
chính, tham gia tích cực vào thị trường chứng khoán. Khi tham gia đầu tư

vào các công trình, các dự án có vốn lớn, các công ty cần chú trọng công
tác thẩm định để đảm bảo mức độ an toàn, tính thanh khoản cũng như khả
năng sinh lời cho đồng vốn.
Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt, xúc tiến thương mại là một
trong những yếu tố cơ bản tạo nên thành công của một doanh nghiệp.
Trong lĩnh vực bảo hiểm, yếu tố này có vai trò rất quan trọng, đặc biệt là
ở Việt Nam hiện nay, khi mà nhận thức của người dân về sự cần thiết của
bảo hiểm đối với nền kinh tế, cũng như đối với đời sống xã hội vẫn còn
hạn chế. Đây là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp bảo hiểm nâng cao
hiểu biết của người dân về bảo hiểm, đồng thời xây dựng được hình ảnh
của công ty mình trong những khách hàng tiềm năng.
Các công ty cũng cần nhanh chóng đa dạng hoá các kênh phân phối thông
qua nhiều hình thức khác nhau. Một trong các phương pháp thường gặp
hiện nay ở các công ty bảo hiểm là tiến hành qua hệ thống ngân hàng, qua
các tổ chức tài chính. Qua đây, các công ty bảo hiểm sẽ có cơ hội tiếp cận
với đông đảo các khách hàng giàu tiềm năng với khả năng tài chính cao
và nhu cầu lớn. Ngoài ra, việc tiếp cận khách hàng bằng thư trực tiếp
hoặc Internet cũng có thể mang lại hiệu quả cao. Trong xu thế thương mại
điện tử đang ngày càng phát triển như hiện nay, việc bán bảo hiểm qua
mạng đang ngày càng phổ biến. Hầu hết các công ty bảo hiểm trên thị
trường Việt Nam đều đã có website riêng, song mới chỉ có một vài công
ty cho phép khách hàng đăng ký mua bảo hiểm, cũng như thanh toán trực
tuyến. Việc triển khai hình thức này còn nhiều khó khăn, do hạ tầng
thông tin nước ta còn yếu kém, thanh toán bằng tiền mặt vẫn rất phổ
biến… Tuy nhiên, đó cũng là một phương thức hiệu quả mà các công ty
bảo hiểm cần quan tâm triển khai nhằm đón trước thời cơ trong tương lai.
3. Về phía các tổ chức khác
Bên cạnh các việc những nỗ lực từ phía Nhà nước, từ phía các doanh
nghiệp bảo hiểm, sự tham gia của các tổ chức khác có liên quan sẽ có vai
trò rất to lớn. Các doanh nghiệp thuộc nền kinh tế đều cần có nhận thức

rõ ràng hơn về tầm quan trọng của bảo hiểm, đồng thời, tích cực chủ
động tham gia mua bảo hiểm cho tài sản, con người, cũng như trách
nhiệm dân sự. Nhiều lĩnh vực bảo hiểm thiết yếu như bảo hiểm cháy nổ,
bảo hiểm trong nông nghiệp… chưa được các cá nhân, đơn vị quan tâm
một cách đúng mức. Đặc biệt, với những lĩnh vực có tiềm năng lớn như
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm hàng không… các công ty

×