Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

BÁO CÁO CHỦ ĐỀ "ĐÔ THỊ HÓA ĐƯỢC VÀ MẤT" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.82 KB, 20 trang )

KINH TẾ PHÁT TRIỂN
‗‗۞‗‗
CHỦ ĐỀ:
ĐÔ THỊ HÓA ĐƯỢC VÀ MẤT.
DANH SÁCH NHÓM:
Nguyễn Thị Thanh Hà
Nguyễn Thị Thanh Hoa
Châu Viết Hưng
Trần Đại Dương
Phan Thị Mỹ Nhuỵ
Nguyễn Thị Hoài Yên
Trần Minh Nhật
Nguyễn Đức Quang
Huế, tháng 04/2010
- 1 -
Muc Lục
I. Đặt vấn đề: đưa ra nguyên nhân chọn đề tài 3
1.Giới thiệu: 3
2.Nguyên nhân 3
3.Tốc độ đô thị hóa 4
II. Nội dung: 5
1.Khái niệm về đô thị hóa: 5
2.Tổng quan về ĐTH ở Việt Nam-ĐTH thông qua những con số: 8
3.Thách thức - Cơ hội: 11
III. KẾT LUẬN 19
1. Khái quát vấn đề: 19
2. Biện pháp khắc phục: 19
- 2 -
CHỦ ĐỀ ĐÔ THỊ HÓA ĐƯỢC VÀ MẤT
I. Đặt vấn đề: đưa ra nguyên nhân chọn đề tài
1.Giới thiệu:



- Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách nhanh
chóng như hiện nay thì ĐTH là một quá trình tất yếu của tất cả
các quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Bên cạnh
những lợi ích mà ĐTH mang lại thì quá trình này cũng gây ra
không ít những tiêu cực, việc ĐTH tự phát, thiếu quy hoạch
khoa học sẽ làm nảy sinh và để lại nhiều hậu quả lâu dài làm
cản trở sự phát triển của đất nước. Chính vì tính cấp thiết của
vấn đề này, đồng thời để giúp các bạn hiểu rõ hơn về quá trình
ĐTH ở Việt Nam và thế giới, hôm nay nhóm chúng tôi xin trình
bày chủ đề: ĐÔ THỊ HOÁ-ĐƯỢC VÀ MẤT
2.Nguyên nhân

- Sự di chuyển nông thôn đến đô thị
- Người nông thôn tin rằng mức sống ở các đô thị sẽ đưoc tốt
hơn nhiều tại các khu vực nông thôn.
- Tỷ lệ tăng tự nhiên gây ra bởi sự giảm tỷ lệ tử vong trong
khi tỷ lệ sinh vẫn còn cao.
→đô thị hoá là sự tăng lên của cư dân đô thị. Sự tăng lên này
theo 3 dòng chính: sự tăng dân số tự nhiên của cư dân đô thị,
dòng di dân từ nông thôn ra thành thị và điều chỉnh về biên giới
lãnh thổ hành chính của đô thị. Ba dòng này có vai trò và vị trí
khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
- Đô thị hóa xuất hiện tự nhiên từ những nỗ lực cá nhân và
doanh nghiệp để giảm thời gian và chi phí trong đi lại và
giao thông vận tải, vừa nâng cao cơ hội việc làm, giáo dục,
nhà ở và giao thông vận tải. Sinh sống tại các thành phố
- 3 -
cho phép các cá nhân và gia đình để tận dụng các cơ hội
của gần nhau, sự đa dạng, và cạnh tranh thị trường.

- Tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của các khu vực đô thị là
kết quả của hai yếu tố: tăng dân số tự nhiên, và di cư đến
các khu vực đô thị.
3.Tốc độ đô thị hóa.
Vào năm 1900, toàn thế giới chỉ có 10% dân số sốngở đô thị.
Đến năm 1950 con số này là gần 30%.Vào 2007,theo thống kê
của Liên hợp quốc, số người sống ở đô thị đã vượt ở nông thôn.
Xu thế này sẽ còn gia trong những năm tới, đặc biệt là tại châu
Phi và châu Á, hai khu vực vào năm 2030 sẽ tập trung đa số các
đô thị lớn của thế giới. Lúc đó,số người sống ở thành thị sẽ lên
tới 5 tỉ người, chiếm 60% dân số toàn cầu.
(Đến cuối năm 2007 có chừng 3,3 tỉ người sống ở đô thị).
- 4 -
II. Nội dung:
1.Khái niệm về đô thị hóa:

Đô thị hoá là quá
trình chuyển đổi
một khu vực, một
vùng nào đó từ
chưa "đô thị"
thành "đô thị".
Những vùng, khu
vực có thể là vùng
ven đô thị hay
ngoại thành, có thể
thị trấn, thị tứ khi
có cơ hội đô thị
hoá, từ đô thị mở
rộng không gian

và diện tích cũng
như thu hút luồng
di cư của dân
không nhất thiết từ
đô thị trung tâm
mà cả những vùng
khác nhất là nông
thôn trong cả nước
.
HÌNH 1
Hình 1 cho thấy dân số đô thị tăng trưởng giữa năm 1950 đến năm 2000.
Năm 1950, ít hơn 30% dân số thế giới sống tại các thành phố. Con số này
- 5 -
đã tăng đến 47% trong năm 2000 (2,8 tỷ người), và dự kiến sẽ tăng lên 60%
vào năm 2025.
Một số nước điển hình:

- Chủ yếu diễn ra tại các nước đang phát triển nằm ở Nam bán cầu,
với làn sóng người từ các vùng nông thôn đổ về thành phố, dẫn tới
việc hình thành các trung tâm đô thị khổng lồ mà người ta vẫn gọi
mà các megacity

- Những nơi có tỉ lệ đô thị hoá cao nhất : Châu Âu, Bắc Mỹ chiếm
vị trí hàng đầu với ¾ dân số sống ở thành thị. đặc biệt là châu Mỹ
la tinh 78% dân số sống ở đô thị.
-Các quốc gia phát triển có một tỷ lệ cao của cư dân đô thị ít hơn
so với các nước phát triển. Tuy nhiên, là đô thị hóa diễn ra nhanh
chóng trong nhiều hơn các nước phát triển, và dự kiến rằng tăng
trưởng đô thị nhất sẽ xảy ra trong các nước kém phát triển trong
nhiều thập kỷ tiếp theo.

- Liên Hiệp Quốc xác định các khu định cư của hơn 20.000 như
đô thị, và những người có hơn 100.000 như các thành phố. Hoa
Kỳ xác định một khu vực đô thị hóa như là một thành phố và khu
vực xung quanh, với dân số tối thiểu là 50.000. Một khu vực đô
thị bao gồm cả các khu vực thành thị và nông thôn được xã hội và
kinh tế tích hợp với một thành phố cụ thể.
Các thành phố có hơn 5 triệu dân được biết đến như là megacities.
Có 41 trong năm 2000. Con số này dự kiến sẽ phát triển như là
tăng dân số trong những thập kỷ tới. Đó là dự đoán rằng đến năm
2015, 50 megacities sẽ tồn tại, và 23 trong số này dự kiến sẽ có
- 6 -
hơn 10 triệu người. Đây là một bảng danh sách của 25 thành phố
lớn nhất thế giới vào năm 1995.
Thế giới của 25 thành phố lớn nhất, 1995
Dân số (triệu)
Tokyo, Nhật Bản 26,8
Sao Paulo, Brazil 16,4
New York, USA 16,3
Thành phố Mexico, Mexico 15,6
Bombay, Ấn Độ 15,1
Thượng Hải, Trung Quốc 15,1
Los Angeles, Hoa Kỳ 12,4
Bắc Kinh, Trung Quốc 12,4
Calcutta, Ấn Độ 11,7
Seoul, Hàn Quốc 11,6
Jakarta, Indonesia 11,5
Buenos Aires, Argentina 11,0
Thiên Tân, Trung Quốc 10,7
Osaka, Nhật Bản 10,6
Lagos, Nigeria 10,3

Rio de Janeiro, Brazil 9,9
Delhi, Ấn Độ 9,9
Karachi, Pakistan 9,9
Cairo, Ai Cập 9,7
Paris, Pháp 9,5
Metropolitan Manila, Philippines 9,3
Matxcơva, Nga 9,2
Dhaka, Bangladesh 7,8
Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ 7,8
Lima, Peru 7,2
- 7 -
Bảng I, Nguồn: Liên Hiệp Quốc, Dân số phận
thế giới đô thị. Triển vọng. 1994
2.Tổng quan về ĐTH ở Việt Nam-ĐTH thông qua
những con số:
- Trong hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, quá trình đô thị
hoá diễn ra hết sức nhanh chóng nhất là trong 10 năm trở lại đây,
đặc biệt ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố
Hồ Chí Minh.
Từ năm 1990 các đô thị Việt Nam bắt đầu phát triển, lúc đó cả
nước mới có khoảng 500 đô thị (tỷ lệ đô thị hoá vào khoảng 17-
18%), đến năm 2000 con số này lên 649 và năm 2003 là 656 đô thị.
Tính đến nay, cả nước có khoảng 700 đô thị, trong đó có 5 thành
phố trực thuộc trung ương, 44 thành phố trực thuộc tỉnh, 45 thị xã
và trên 500 thị trấn. Bước đầu đã hình thành các chuỗi đô thị trung
tâm quốc gia: Các đô thị trung tâm quốc gia gồm Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Huế. Các đô thị trung tâm
vùng gồm các thành phố như: Cần Thơ, Biên Hoà, Vũng Tàu,
Buôn Ma Thuột, Nha Trang, Nam Định, Thái Nguyên, Việt Trì, Hạ
Long, Hoà Bình… Các đô thị trung tâm tỉnh gồm các thành phố,

thị xã giữ chức năng trung tâm hành chính-chính trị, kinh tế, văn
hoá, du lịch-dịch vụ, đầu mối giao thông; và các đô thị trung tâm
huyện; đô thị trung tâm cụm các khu dân cư nông thôn đô thị mới.
Hiện nay, tỷ lệ dân số đô thị ở nước ta dưới 40%,
theo quy hoạch phát triển đến năm 2010 con số này sẽ 56-60%,
đến năm 2020 là 80%.
- Theo dự báo của Bộ Xây dựng, tỷ lệ đô thị hoá của Việt Nam
vào năm 2020 sẽ đạt khoảng 40%, tương đương với số dân cư sinh
- 8 -
sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu dân. Mục tiêu đề ra cho diện tích
bình quân đầu người là 100m2/người. Nếu đạt tỷ lệ 100m2/người,
Việt Nam cần có khoảng 450.000ha đất đô thị, nhưng hiện nay,
diện tích đất đô thị chỉ có 105.000ha, bằng 1/4 so với yêu cầu. Với
tốc độ phát triển và dân số đô thị như vậy, Việt Nam sẽ phải đối
mặt với ngày càng nhiều vấn đề phức tạp phát sinh từ quá trình đô
thị hoá.

- Vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị dẫn đến mật độ dân
số ở thành thị tăng cao: Quá trình đô thị hoá nhanh cùng với sự
thay đổi điều kiện sống đã làm cho một bộ phận dân cư ở nông
thôn di cư mạnh ra các đô thị. Số dân cư sống ở thành thị tăng đột
biến với mật độ dân cư dày đặc gây mất cân đối giữa thành thị và
nông thôn, đồng thời đặt ra những vấn đề nan giải về giải quyết
công ăn việc làm, thất nghiệp tại chỗ, nhà ở và tệ nạn xã hội làm
cho trật tự xã hội ven đô ngày càng thêm phức tạp. Theo thống kê
của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA), người di cư nông thôn
chiếm tới 1/3 dân số của TP Hồ Chí Minh và 1/10 dân số của Hà
Nội và làn sóng này vẫn đang tiếp tục không ngừng chảy. Dự kiến
dân số đô thị của Hà Nội đến năm 2010 sẽ là 3,9 - 4,2 triệu người,
năm 2020 là 7,9 - 8,5 triệu người; còn với TP Hồ Chí Minh năm

2010 là 10 triệu người, đến 2025 là 16-17 triệu người.
- Tình trạng thất học, thất nghiệp và phân hoá giàu nghèo:
Trong quá trình hội nhập và phát triển, người dân đô thị cần có
trình độ văn hoá tay nghề cao để tiếp cận với khoa học kỹ thuật –
công nghệ và đáp ứng với nhu cầu tuyển dụng lao động. Song thực
tế cho thấy ở các đô thị và các vùng ven đô vẫn còn một bộ phận
không nhỏ những người thất nghiệp, trình độ học vấn không cao.
Đây chủ yếu là những lao động giản đơn di cư từ khu vực nông
thôn lên thành thị để kiếm việc làm. Phần lớn trong số họ chỉ tìm
được công việc giản đơn trong các khu công nghiệp, khu chế xuất
ở gần thành thị, một số khác kém may mắn hơn phải lang thang
- 9 -
tìm kiếm công việc không ổn định trong nội thị với thu nhập ít ỏi.
Nhiều vấn đề phát sinh cũng bắt nguồn từ đây, khi thu nhập của
người lao động không đủ tích lũy để gửi về gia đình như kỳ vọng
trước đó. Điều tra gần đây của Tổng cục Thống kê cho thấy, trong
số lao động di cư, có tới 2/3 là lao động trẻ (15-19 tuổi); hơn 50%
là di cư để tìm việc làm, 47% là để cải thiện điều kiện sống. Một
điều tra khác của Viện Khoa học lao động và xã hội cũng cho thấy,
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, tỷ lệ
lao động ngoại tỉnh chiếm tới 70%. Tính đến tháng 12/2007 cả
nước có hơn 170 khu công nghiệp, khu chế xuất phân bổ ở 55 tỉnh,
thành trên cả nước với khoảng trên 1 triệu người lao động đang
làm việc, trong đó có 700.000 người lao động di cư từ các tỉnh
khác hoặc huyện khác đến
([3])
. Do chỉ được hưởng mức lương thấp,
lại phải làm việc vất vả nên số lao động di cư này dễ nảy sinh
những bất đồng và có những hành động thiếu kiềm chế. Đây là sự
bất ổn đối với chủ trương phát triển một xã hội đô thị công bằng,

ổn định và văn minh.
-
Vấn đề nhà ở và quản lý trật tự an toàn xã hội ở đô thị:
Nhìn chung hầu hết ở các đô thị hiện nay đều xảy ra tình trạng thiếu
nhà ở. Đặc biệt là dân nghèo đô thị và những người
mới nhập cư
vào thành phố. Thống kê của UNFPA cho thấy, hiện 25% cư dân
thành thị Việt Nam không đủ tiền để mua nhà ở, 20% nhà ở thành
thị bị xếp vào loại không đạt tiêu chuẩn, TP Hồ Chí Minh còn có
300 ngàn người đang sống trong các nhà ổ chuột, 30% dân số Hà
Nội phải sống trong môi trường chật chội với diện tích ở không
quá 3m2/người. Chính vì thế một số người đã bất chấp những quy
định về quản lý đô thị, tự ý san lấp, lấn chiếm, sang nhượng đất để
xây nhà một cách tạm bợ, tuỳ tiện không theo quy hoạch gây ảnh
hưởng đến mỹ quan của các đô thị. Việc xây cất không theo quy
hoạch làm xuất hiện tình trạng “nhà không số, phố không tên”
chen lấn hỗn độn, tối tăm, chật chội. Điều này đã phần nào tạo điều
kiện thuận lợi cho các tệ nạn xã hội, tội phạm lẩn trốn pháp luật,
gây khó khăn cho công tác quản lý trật tự an toàn xã hội.
- 10 -
- Vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước: Tại các đô
thị việc chiếm dụng đất công, san lấp mặt bằng, sông ngòi, lấn
chiếm lòng đề đường để làm nhà và xậy dựng trái phép diễn ra
hàng ngày làm cản trở đến việc tiêu, thoát nước và chất thải đô thị.
Bên cạnh đó, hệ thống cơ sở hạ tầng không đáp ứng đủ, đường xá
giao thông tắc nghẽn, nguồn nước ngầm và các dòng sông bị đe
dọa nhiễm bẩn nghiêm trọng vì chất thải, không khí ngày càng ô
nhiễm nặng nề vì bụi công trường, khói xe, khói nhà máy sản xuất
công nghiệp. Nghiên cứu của UNFPA cho thấy, chất lượng không
khí tại Hà Nội và TP Hồ Chí Minh thuộc vào loại tồi nhất trong

khu vực. Phần lớn hệ thống nước thải không được xử lý, khối
lượng chất thải rắn đang gia tăng nhanh chóng, và chỉ có một phần
nhỏ lượng chất thải công nghiệp nguy hại được xử lý an toàn.
3.Thách thức - Cơ hội:
a.Cơ hội:
- Phát triển đô thị nhanh chóng là "đô thị sprawl“, tăng sự phát
triển giao thông, nguồn lực của địa phương và phá hủy không gian
mở. Urban sprawl chịu trách nhiệm về những thay đổi trong môi
trường vật lý, và trong những hình thức và không gian tổ chức của
thành phố.
- Cung cấp cho người nghèo có cơ hội hơn và tiếp cận nhiều hơn
tới các nguồn lực để biến đổi tình hình của họ hơn so với các vùng
nông thôn
- Làm cho nền kinh tế nước ta phát triển theo xu thế thế giới.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế giảm dần trong giá trị nông
lâm thủy sản và tăng tỷ trọng trong các ngành Công nghiệp dịch vụ
- Kích thích và tạo cơ hội để con người năng động, sáng tạo hơn
trong tìm kiếm và lựa chọn các phương thức, hình thức tổ chức sản
xuất, kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng
- Kinh tế phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện -
đó là xu hướng chủ đạo và là mặt tích cực của đô thị hoá.
- 11 -
b. Thách thức :

Về mặt văn hóa, xã hội:

- Nông thôn Việt Nam là chiếc nôi sản sinh, nuôi dưỡng, bảo vệ
văn hoá dân tộc ngàn năm. Những năm qua, một số yếu tố tiến bộ
của văn hoá đô thị đã lan toả về nông thôn, tạo nên những sắc thái
mới trong đời sống, sinh hoạt tinh thần của người nông dân và

cộng đồng làng xã. Nhiều loại hình, giá trị văn hoá ở nông thôn
cũng được giới thiệu rộng rãi, thuận lợi hơn ở các đô thị. Đó là mặt
thuận. Mặt chưa thuận là, do thiếu chuẩn bị, thiếu định hướng,
chọn lọc và do cả những bất cập trong công tác qui hoạch, quản lý
văn hoá, không ít những yếu tố phi văn hoá, phản văn hoá, từ đô
thị và từ các phương tiện truyền thông, đặc biệt từ internet, đã thâm
nhập vào đời sống nông thôn, đưa tới những vấn nạn xã hội đáng
suy nghĩ.
- Theo nhiều ngả đường, một số sản phẩm, loại hình được gọi là
văn hoá, văn học, nghệ thuật, một số quan niệm, lối sống, cách ứng
xử, làm ăn không phù hợp, thậm chí trái ngược, đối lập với thuần
phong mỹ tục, với những giá trị tốt đẹp đã lan về thôn quê chúng
thâm nhập và làm tha hoá một bộ phận cư dân nông thôn, đặc biệt
là giới trẻ; làm vẩn đục môi trường văn hoá, xã hội; bào mòn và
làm rạn nứt quan hệ tương thân, tương ái, đồng thuận và thuần
phác trong cộng đồng nông thôn.
Về mặt môi trường.

- Từ một phương diện khác, nông nghiệp, nông thôn là địa bàn
đang phải hứng chịu những hậu quả về môi trường. Việc sử dụng
không hợp lý, lãng phí quĩ đất canh tác; tình trạng san lấp, lấn
chiếm ao hồ, sông, suối, các công trình thuỷ lợi; nạn đốt phá rừng,
- 12 -
khai thác khoáng sản tuỳ tiện cùng với sự yếu kém trong xử lí nước
thải, rác thải, bụi, khói, tiếng ồn đang làm cạn kiệt tài nguyên
thiên nhiên, phá vỡ hệ sinh thái, gây ô nhiễm môi trường, ảnh
hưởng đến sản xuất nông nghiệp, cảnh quan nông thôn, đời sống
và sức khoẻ của nông dân, giảm thiểu khả năng đề kháng, thậm chí
làm trầm trọng thêm những tai biến của tự nhiên.
- Vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm

không khí và tiếng ồn.
-Phần lớn hệ thống nước thải không được xử lý, chất thải rắn đang
gia tăng nhanh chóng.
- Tài nguyên đất bị khai thác triệt để.
- Gây nên áp lực đáng kể về nhà ở và vệ sinh môi trường, hình
thành các khu nhà "ổ chuột" và khu nghèo đô thị.
Sự phân tán, chia cắt trong qui hoạch, tổ chức không gian đô
thị
Đô thị hoá là xu thế khách quan phản ánh trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Tuy nhiên, chất
lượng đô thị hoá phụ thuộc rất lớn vào năng lực quản lý của con
người, trước hết là khả năng qui hoạch và tổ chức không gian đô
thị của bộ máy quản lý nhà nước các cấp.
Qui hoạch nói chung, qui hoạch đô thị nói riêng là một khoa học
tổng hợp, đòi hỏi phải có sự tiếp cận liên ngành với một tầm nhìn
xa rộng, sự tính toán chặt chẽ, chính xác nhằm giải quyết hài hoà
các mối quan hệ giữa tổng thể (nhìn trên phạm vi quốc gia) với bộ
phận (vùng, địa phương); giữa không gian đô thị với không gian
nông thôn; giữa không gian kiến trúc với cảnh quan môi trường
Qui hoạch và tổ chức không gian đô thị là kết tinh tầm văn hoá,
triết lý văn hoá và khoa học, nghệ thuật phân bố các nguồn lực
quốc gia.
So với một, hai thập niên đầu kiến thiết đất nước sau khi Tổ quốc
thống nhất, trình độ qui hoạch và tổ chức không gian đô thị ở Việt
Nam những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI có một bước tiến
- 13 -
đáng kể, cả về qui hoạch chung, qui hoạch ngành, qui hoạch chi
tiết - nhìn trên phạm vi toàn quốc, phạm vi vùng và từng địa
phương. Tuy nhiên, đối chiếu với yêu cầu phát triển toàn diện đất
nước và so sánh với trình độ qui hoạch, tổ chức không gian đô thị

của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, công tác qui hoạch,
tổ chức thực hiện qui hoạch ở Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Sự phân bố các khu đô thị còn phân tán, không đồng đều giữa các
vùng miền. Mặc dù, những năm gần đây, cùng với sự vươn dài, to
rộng của hệ thống đường giao thông, ven các tuyến đường mọc lên
ngày càng nhiều những khu đô thị mới, những điểm cư dân đô thị,
song nông thôn các vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi, ven biển
mật độ đô thị còn thưa thớt. Cho đến nay, nhịp điệu đô thị hoá sôi
động vẫn chủ yếu diễn ra ở ngoại vi các thành phố lớn và các vùng
phụ cận, đặc biệt ở hai thành phố trung tâm Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh. Trong nghiên cứu đô thị học, người ta gọi tình trạng
tập trung phát triển quá lớn một số thành phố trung tâm mà không
quan tâm phát triển đồng bộ hệ thống các đô thị khác là “căn bệnh
to đầu”, làm chậm tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động; hạn chế việc phân bổ, phát huy các nguồn lực quốc gia, nhất
là nguồn lực lao động, phát triển kinh tế-xã hội nói chung, phát
triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn, cải thiện đời sống nông
dân nói riêng.
Tư duy về qui hoạch vùng, liên vùng đã được hình thành từ
sớm. Bộ Chính trị đã có nhiều nghị quyết về chiến lược phát triển
các vùng, các thành phố lớn. Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng qui
hoạch các vùng kinh tế trọng điểm, các vùng động lực và tam giác
phát triển… Tuy nhiên, tiến độ xây dựng, nhất là triển khai qui
hoạch vùng, liên vùng chậm, do vậy, phần lớn qui hoạch được thực
hiện chủ yếu trên địa bàn hành chính của các địa phương, dẫn đến
sự thiếu đồng bộ, chia cắt, trùng lặp, lãng phí, ít hiệu quả trong
khai thác, phát huy các nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội, nhìn
trên phạm vi toàn quốc.
Ở từng địa phương, hạn chế phổ biến trong xây dựng, thực hiện qui
- 14 -

hoạch là thiếu tầm nhìn xa, thiếu cách nhìn tổng thể, hệ thống và
sự buông lỏng trong quản lý, triển khai qui hoạch. Qui hoạch
chung, qui hoạch hạ tầng khung chưa được quan tâm đúng mức, xu
hướng chung vẫn là chú trọng xây dựng, triển khai qui hoạch chi
tiết, đáp ứng nhu cầu trước mắt. Hệ quả khó tránh khỏi là tình
trạng tuỳ tiện, lộn xộn, chắp vá, chia cắt, thậm chí làm biến dạng,
méo mó không gian kiến trúc. Đây là chưa kể đến những yếu kém
trong phê duyệt, kiểm tra thực hiện các dự án, tình trạng “qui
hoạch treo”, gây ra sự lãng phí không nhỏ về đất đai và kéo theo
không ít phức tạp về mặt xã hội.
Trên địa bàn nông thôn đang diễn ra quá trình đô thị hoá, có thể
thấy rõ sự bất hợp lý trong phân bố các công trình xây dựng sự
thiếu gắn bó, liên thông giữa các thành tố cấu thành đô thị. Phần
lớn các khu công nghiệp, thương mại, dịch vụ, các điểm dân cư
đều tràn ra, bám sát trục đường giao thông, tạo nên sự phát triển
mất cân đối về không gian xây dựng. Trong cùng một không gian
đô thị hoá, thiếu sự liên kết hài hoà giữa khu vực sản xuất với khu
vực dân cư; ngay trong khu vực sản xuất cũng thiếu sự gắn kết cần
thiết giữa các khu công nghiệp với các khu thương mại, dịch vụ
với các làng nghề, cụm làng nghề… Khá phổ biến là tình trạng
thiếu đồng bộ, thiếu khớp nối giữa hạ tầng bên trong hàng rào các
khu vực sản xuất, kinh doanh với hạ tầng bên ngoài hàng rào, với
hạ tầng các vùng nông thôn xung quanh; giữa hạ tầng kinh tế-kỹ
thuật với hạ tầng văn hoá-xã hội. Về không gian kiến trúc, thiếu sự
hoà điệu ở tầm văn hoá giữa những đường nét hiện đại của đô thị
với vẻ đẹp truyền thống của nông thôn; một số kiểu dáng kiến trúc
vay mượn vội vàng từ đô thị đem cấy vào nông thôn đã làm hỏng
nét đẹp riêng có của những làng cổ, làng sinh thái, làng nghề - vốn
là nguồn cảm hứng, tự hào bao đời của người Việt Nam và là
nguồn tài nguyên du tịch tiềm tàng hôm nay.

Nhìn từ góc độ qui hoạch, thực hiện qui hoạch, đô thị hoá chưa thật
sự kết gắn và phục vụ hiệu quả qui hoạch phát triển kinh tế, xã hội
- 15 -
và xây dựng nông thôn mới vì mục tiêu nâng cao chất lượng sống
của nông dân.
Sự ùn đọng lao động ở nông thôn
Ở Việt Nam, những năm qua, nhất là từ năm 2001 đến nay, quá
trình dịch chuyển cơ cấu lao động diễn ra khá nhanh và rõ nét hơn
trước. Nhìn trên phạm vi cả nước, tổng lao động làm việc trong các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp và thuỷ sản chiếm 54,7% (năm
2006), 52,8% (năm 2007) tổng lao động xã hội; hàng năm có hàng
chục vạn lao động nông nghiệp chuyển sang làm các ngành nghề
phi nông nghiệp.
Tuy nhiên, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, nhìn chung, diễn ra
vẫn chậm chạp, chưa tương thích và đáp ứng được yêu cầu chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Đến năm 2007, trong GDP giá trị nông nghiệp
đã giảm xuống còn 19,6%, trong khi đó lao động nông nghiệp vẫn
còn chiếm tới 52,8%. Nghịch lý này phản ánh một thực tế: công
nghiệp, dịch vụ trên địa bàn nông thôn chưa đủ sức tạo nhiều việc
làm mới để thu hút lực lượng lao động nông nghiệp còn rất tiềm
tàng. Ngoài một bộ phận không nhiều được tuyển vào các doanh
nghiệp trên địa bàn hoặc đi kiếm việc làm ở các đô thị, các khu
công nghiệp lớn, phần đông lao động vẫn đang bị ùn đọng trong
khu vực nông nghiệp, nông thôn. Một bộ phận lao động tiếp tục
sản xuất nông nghiệp trong điều kiện diện tích đất canh tác ngày
càng thu hẹp, một bộ phận chuyển sang các hoạt động phi nông
nghiệp giản đơn, theo cơ chế thoả thuận. Thực trạng này chứng tỏ
quá trình công nghiệp hóa đô thị hoá chưa gắn kết và tác động
mạnh mẽ đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Tình trạng thiếu
việc làm, dư thừa lao động; sự phân hoá thu nhập và những khó

khăn về đời sống của người nông dân, phần lớn có nguyên nhân từ
đây.
- 16 -
Đồng thời với quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động đô thị hoá tất
yếu dẫn theo sự dịch chuyển dân cư theo hướng chuyển hoá cư dân
nông thôn thành cư dân đô thị. Sự chuyển hoá này diễn ra lâu dài
thông qua các dòng chuyển cư theo chiều hướng khác nhau tuỳ
thuộc vào trình độ phát triển và đặc điểm, hoàn cảnh của mỗi quốc
gia.
Ở Việt Nam, những năm qua đã diễn ra sự chuyển dịch dân cư
nông thôn-nông thôn, dân cư nông thôn-đô thị. Một bộ phận dân
cư ở một số tỉnh miền núi phía Bắc đã di chuyển một cách tự phát
thiếu tổ chức, thiếu qui hoạch vào một số tỉnh phía Nam, tập trung
nhất là ở địa bàn Tây Nguyên. Ở một số vùng nông thôn, điển hình
là nông thôn đồng bằng Sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long
xuất hiện dòng chuyển cư về thành thị, chủ yếu về các khu công
nghiệp tập trung các đô thị lớn, đặc biệt là thủ đô Hà Nội và thành
phố Hồ Chí Minh. Tình trạng tăng vọt dân số cơ học ở các thành
phố lớn làm đậm thêm sự mất cân đối trong phân bố dân cư, lao
động trên phạm vi toàn quốc; làm cho các thành phố lớn phải gánh
chịu áp lực quá tải rất nặng nề về dân số, về cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
hạ tầng xã hội và không ít khó khăn, phức tạp trong công tác quản
lý đô thị.
Một số nghịch lý, mâu thuẫn, thách thức đang phát sinh trong
quá trình phát triển:
Trong nhiều vấn đề nảy sinh từ thực tiễn đô thị hoá, có thể
nhấn mạnh một số điểm nổi bật sau đây:
Nóng bỏng vấn đề qui hoạch, quản lý, sử dụng đất đai nông
nghiệp:
Để thu hút các nguồn vốn, công nghệ phục vụ yêu cầu đẩy mạnh

công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, những năm qua, Nhà nước
và chính quyền các địa phương đã thực hiện chính sách cởi mở, tạo
điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong việc tìm kiếm, chọn
- 17 -
lựa địa điểm sản xuất, kinh doanh. Bình quân hàng năm, tính từ
2001 đến 2007, gần 10 vạn ha đất nông nghiệp được thu hồi đã
phục vụ xây dựng các khu công nghiệp, dịch vụ, đường giao thông,
khu dân cư; khoảng 50% diện tích đất nông nghiệp thu hồi nằm
trong vùng kinh tế trọng điểm, trong đó, 80% thuộc loại đất màu
mỡ cho 2 vụ lúa/năm. Sự dễ dãi và cả sự yếu kém trong qui hoạch,
kế hoạch quản lý, sử dụng đã cùng với tư tưởng chạy theo lợi ích
kinh tế trước mắt đã đưa tới tình trạng sử dụng đất tuỳ tiện, lãng
phí. Hầu hết các khu công nghiệp, dịch vụ, dân cư… đều bám dọc
các quốc lộ huyết mạch, các vùng nông thôn trù phú. Hệ quả là,
hàng chục vạn ha “đất cấu tượng” đất “bờ xôi, ruộng mật” - bao
đời nay là tư liệu sản xuất quan trọng và quí giá nhất của người
nông dân; nền tảng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia - đã bị sử
dụng phí phạm, tác động mạnh đến công ăn việc làm, thu nhập và
đời sống của hàng chục vạn hộ gia đình nông thôn với hàng triệu
lao động nông nghiệp. Đi liền với thực trạng này là sự nảy sinh
phân hoá, thậm chí cả mâu thuẫn xã hội. Đây là một vấn đề búc
xúc, cần được nhìn nhận thấu đáo và khắc phục sớm.
Đô thị hóa hướng tới mục tiêu bền vững:
Đô thị hóa là một quá trình tất yếu của bất kỳ quốc gia nào, trong
đó có Việt Nam. Tuy nhiên, đô thị hóa tự phát, thiếu quy hoạch
khoa học sẽ làm nảy sinh và để lại nhiều hậu quả tiêu cực và lâu
dài, cản trở sự phát triển của đất nước. Chính vì vậy, chiến lược đô
thị hóa của Việt Nam phải hướng tới mục tiêu bền vững giữ tự
nhiên, con người và xã hội Muốn vậy cần: Tăng cường công tác
giáo dục nhằm nâng cao nhận thức của người dân. Song song với

việc nâng cao dân trí là tiến hành quy hoạch phân bố đồng đều các
khu công nghiệp, khu đô thị tại các thành phố trên cả nước. Tăng
cường giáo dục nếp sống văn minh, gia đình văn hoá mới đối với
cư dân đô thị. Hạn chế và quản lý tốt hơn đối với dân nhập cư, góp
phần lập lại trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây dựng xã hội đô thị
ổn định, bền vững. Có chiến lược, lộ trình quy hoạch đô thị đồng
bộ. Hoàn thiện và và phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng đô thị,
giao thông đường bộ thuận tiện, không ách tắc và hạn chế gây ô
- 18 -
nhiễm môi trường Tăng cường nâng cao nhận thức cho cộng đồng
về tầm quan trọng của môi trường đối với sức khoẻ và chất lượng
cuộc sống. Tích cực thực hiện các biện pháp tuyên truyền, khuyến
khích cộng đồng sử dụng các nhiên liệu sạch trong sinh hoạt thay
cho các loại nhiên liệu gây ô nhiễm không khí và nguồn nước sinh
hoạt. Ưu tiên phát triển giao thông công cộng, đặc biệt là các
phương tiện giao thông công cộng hiện đại không gây ô nhiễm.
Cần xem việc phát triển phương tiện vận chuyển công cộng là giải
pháp trọng tâm để giảm nguy cơ tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm
môi trường đô thị. Có thể nói, đô thị hoá tự phát, thiếu quy hoạch
khoa học sẽ làm nảy sinh và để lại nhiều hậu quả tiêu cực và lâu
dài, cản trở sự phát triển của đất nước.
III. KẾT LUẬN.
1. Khái quát vấn đề:
- Những nghịch lý, mâu thuẫn, thách thức nêu trên và những hệ
luỵ của chúng là có thật, đang từng ngày diễn ra trong quá trình đô
thị hoá, từng giờ tác động đến nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Song đó là những khó khăn khó tránh trên con đường đi lên, là hai
mặt biện chứng của quá trình phát triển.
-Đô thị hóa là một tất yếu của mỗi quốc gia. Thúc đẩy tăg
trưởng và phát triển kinh tế, thay đổi diện mạo đất nước. Nhưng

bên cạnh đó,Đô thị hóa còn nảy sinh nhiều tiêu cực đến tất cả các
lĩnh vực. Đó là một vấn đề đáng quan tâm hiện nay.
2. Biện pháp khắc phục:
Đô thị hóa là một quá trình phát triển tất yếu của bất kỳ quốc gia
nào, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, đô thị hóa tự phát, thiếu
quy hoạch khoa học sẽ làm nảy sinh và để lại rất nhiều hậu quả tiêu
cực, lâu dài, gây lãng phí lớn và cản trở sự phát triển của đất nước.
Chính vì vậy, chiến lược đô thị của Việt Nam phải hướng tới mục
tiêu bảo đảm cân đối giữa tính hiện đại với tính bền vững của tự
nhiên - con người - xã hội, thông qua việc lựa chọn các mô hình
định cư tiên tiến, phù hợp đặc thù của Việt Nam ở đô thị, nông
- 19 -
thôn, miền núi, các vùng biên giới, hải đảo; bảo đảm sự hài hòa
giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài của dân tộc, trên cơ sở tìm
kiếm những phương thức phát triển đô thị tiết kiệm đất, đô thị
xanh, đô thị sinh thái thay thế cho mô hình đô thị còn tồn tại
nhiều bất cập hiện nay của chúng ta.
Các cơ quan quản lý nhà nước cần đổi mới nhận thức về đô thị
hóa, từ đó đổi mới về hoạch định chính sách, chiến lược và quy
hoạch đô thị trên cơ sở một tầm nhìn dài hạn, khoa học và tổng thể.
Việc lựa chọn các mô hình định cư tiến bộ cho đô thị và nông thôn,
phù hợp với Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại
hóa phải được tiêu chuẩn hóa và nghiên cứu ứng dụng ngay từ bây
giờ, mặc dù đã là muộn.
Lập các quyết sách cho phát triển đô thị cần có dữ liệu khoa học để
cân đối nguồn tài nguyên như: đất, nước, năng lượng Trong đó,
nguồn tài nguyên đất đang cạn kiệt cần đặc biệt chú ý, nhằm bảo
đảm an ninh lương thực, cũng như giải quyết các vấn đề xã hội
phát sinh từ nó. Nguồn lực và sự dịch chuyển kinh tế đô thị phải
được nghiên cứu để tăng trưởng kinh tế đồng bộ với chất lượng

cuộc sống dân cư. Xem xét lại các chính sách, kiến trúc và quy
trình thực hiện các dự án đô thị, cũng như những quy định trái với
thực tiễn cuộc sống, nhằm đẩy mạnh công tác chuẩn bị đầu tư cho
xây dựng đô thị.
Trước thực tiễn người làm công tác chuyên môn liên quan đến vấn
đề đô thị còn hạn chế trong việc cập nhật lý luận, các phương tiện
kỹ thuật, công nghệ mới cũng như các vấn đề của thực tiễn đô thị
(dẫn đến phương pháp xây dựng lạc hậu, lãng phí, trình độ các
công ty xây dựng cũng như khâu thẩm định chất lượng công trình
hạn chế), cần nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ quy hoạch và
kiến trúc như một khâu trọng yếu trong quá trình đổi mới về chiến
lược phát triển đô thị của Việt Nam.
- 20 -

×