Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Một số vấn đề về kĩ năng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.39 KB, 10 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ KĨ NĂNG
1. Lí thuyết và nghiên cứu xung quanh vấn
đề thực hành
Ở mức độ cảm tính bạn cũng có thể thấy
rõ rằng thực hành cần thiết cho việc học bất
cứ một loại kiến thức nào.
Hai khái quát từ các nghiên cứu về thực
hành như sau:
*) Để thông thạo một kĩ năng đòi hỏi phải
thực hành có trọng điểm với một thời lượng
nhất định
- Các nghiên cứu về tâm lí học nhận thức cho
thấy việc học một kĩ năng thường diễn ra
theo một cách đặc biệt (Xem Anderson, JR,
1995; Newell & Roselbloom, 1982).
1
Mối quan hệ giữa số lần thực hành và mức độ
thành thục một kĩ năng
Số lần
thực
hành
Mức độ gia
tăng hiểu biết
(%) sau mỗi lần
thực hành
Mức độ thành thạo
một kĩ năng (%)
sau mỗi lần thực
hành
1 22,918 22,918
2 11,741 34,659


3 7,659 42,318
4 5,593 47,911
5 4,349 52,26
6 3,534 55.798
7 2,960 58,754
8 2,535 61,289
9 2,205 63,494
10 1,945 65,439
11 1,740 67,179
12 1,562 68,741
13 1,426 70,167
14 1,305 71,472
15 1,198 72,670
16 1,108 73,778
2
17 1,034 74,812
18 0,963 75,775
19 0,897 76,672
20 0,849 77,521
21 0,802 78,323
22 0,761 79,084
23 0,721 79,805
24 0,618 80,423
Qua nghiên cứu, các tác giả cho thấy HS
phải thực hành đến lần thứ 24 trở lên họ
mới đạt được 80% độ thành thục kĩ năng ấy.
Mặt khác, sự gia tăng hiểu biết trong việc
thành thạo kĩ năng giảm dần đi sau mỗi lần
thực hành.
- Bảng trªn cho thấy, sau 4 lần thực tập đầu

tiên, kết quả của việc thành thục kĩ năng
này là 47,9%.
Tuy vậy trong 4 lần thực tập tiếp theo, mức
độ gia tăng chỉ còn 14%.
3
Vì vậy, học một nội dung mới không xảy ra
một cách nhanh chóng. Nó yêu cầu một sự
thực hành trải dài trong một khoảng thời
gian nhất định. Kết quả việc thực hành như
vậy, làm cho mức độ nhận thức tăng lên rất
nhiều ở giai đoạn đầu, nhưng dần dần sẽ
trở nên ngày càng nhỏ hơn khi HS nắm bắt
được kiến thức và kĩ năng. Chỉ sau rất
nhiều lần thực hành, HS mới có thể thực
hiện một kĩ năng một cách nhanh nhẹn và
chính xác.
4
*) Trong khi thực hành HS cần phải thay đổi và
định hình những gì mình đã học được
Một phát hiện trong các nghiên cứu về
thực hành đưa ra một hàm ý mạnh mẽ rằng
HS phải thích nghi hoặc định hình những kĩ
năng trong quá trình học.

Trong thực tế, bạn có thể nghĩ kĩ năng
học như là “một giai đoạn định hướng có liên
quan”. Trong giai đoạn định hướng này
người học quan tâm đến những hiểu biết có
tính học thuật về một kĩ năng.
Khi HS thiếu hiểu biết về kĩ năng, họ

thường có khuynh hướng thực hiện các bước
một cách mò mẫm và không hiệu quả
(Xem Clement, Lockhead & Mink, 1979;
David , RB, 1984; Mathematical Science
Education board, 1990; Romberg &
Carpenter, 1986).
5
2. TiÕn hành trên lớp về các kĩ năng thực
hành
*) Lập đồ thị biểu hiện mối tương quan giữa sự
chính xác và tốc độ trong thực hành
- Khái quát đầu tiên về thực hành cho thấy
một kĩ năng chỉ được coi là thành thục khi
HS có thể thực hiện kĩ năng đó nhanh và
chính xác.
Để phát triển kĩ năng, HS phải đảm bảo
được cả về tốc độ và mức độ chính xác. Một
trong những biện pháp tốt là lập biểu đồ biểu
diễn mối tương quan giữa tốc độ và độ chính
xác trong quá trình thực hành một kĩ năng
nào đó.
6
- Ví dụ:
GV giao cho HS bài tập về nhà với một số
bài cụ thể, phải hoàn thành trong khoảng 30
phút, nhằm rèn luyện một kĩ năng nào đó.

Sau đó GV kiểm tra lại việc làm của HS,
sửa chữa bài tập đã giao về nhà đó, qua đó
HS thống kê lại xem trong 30 phút đó họ làm

được bao nhiêu bài tập, trong đó có bao
nhiêu bài làm đúng.
Sau đó họ kẻ bảng biểu diễn đồ thị về sự
nhanh chóng và chính xác để kiểm tra số bài
làm đúng có tăng lên cùng với tốc độ làm bài
không.
7
*) Thiết kế các bài thực hành cục bộ cho một kĩ
năng hoặc quá trình phức tạp
- Ý tưởng về thực hành cục bộ đặc biệt quan
trọng khi HS thực hành một kĩ năng hoặc
một quá trình phức tạp gồm nhiều bước
như là quá trình nghiên cứu, điều tra khoa
học hoặc quá trình viết.
- Chẳng hạn, khi một mặt nào đó của quá
trình này tỏ ra đặc biệt khó đối với HS, họ
có thể cần đến những hướng dẫn cụ thể, chi
tiết giúp họ tập trung thực hành vào mặt
nào đó. Loại thực hành này được gọi là thực
hành cục bộ bởi vì người học vẫn tham gia
vào một kĩ năng hoặc quá trình một cách
tổng thể, nhưng mục tiêu lại phải chú ý đến
một mặt nào đó của quá trình này.
8
- Ví dụ:
Đứng trước một nhiệm vụ nhận thức (một
bài tập), HS cảm thấy khó có thể vượt qua,
GV hiểu được khó khăn đó, buộc phải tìm
cách hạ thấp yêu cầu, hoặc luyện tập bổ
sung một kĩ năng mà HS cần có để có thể

vượt qua khó khăn đang vướng.
Việc luyện tập kĩ năng này đến một mức độ
nào đó giúp HS tự nhận ra cách vượt qua
khó khăn ban đầu.
Trong trường hợp này, kĩ năng được rèn
luyện bổ trợ được gọi là thực hành cục bộ.
3. Lời khuyên cho GV:
- Dành thời gian giúp HS gia tăng hiểu biết
kiến thức, kĩ năng hoặc quá trình.
- Trong khi lập chương trình dạy học, GV
cần xác định các kĩ năng và quá trình mà
HS phải học, sau đó mới quyết định xem
khoảng thời gian hướng dẫn và làm bài tập
như thế nào là vừa đủ cho mỗi kĩ năng và
quá trình ấy.
9
- GV dành thời gian cho việc làm mẫu một kĩ
năng hoặc một quá trình, đưa ra các bước
thực hành có hướng dẫn, phù hợp với các
bước trong kĩ năng và quá trình đó, sau đó
giao các bài tập thực hành từng phần hoặc
độc lập.
- Tuy vậy điều quan trọng là HS phải hiểu
một kĩ năng hoặc một quá trình diễn ra như
thế nào. Trong khi soạn giáo án, GV phải
thực hiện các mục tiêu sao cho có thể gia
tăng hiểu biết của HS về kĩ năng và quá
trình, sau đó xác định những hoạt động có
thể giúp HS đạt được những mục tiêu đó.
(Tài liệu tham khảo: Classroom Instruction

that Works Reseach- Based Strategies for
Increasing Student Achievement. Robert
J.Mazano, Debra J.Pickering, Jane E. Pollock
– Beauregard Street, Alexandria, VA 22311 –
1714 USA)
10

×