Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Tiểu luận “Phân tích lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Việt Nam sang thị trường Philippines” ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.87 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP HỒ CHÍ MINH
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH - MARKETING

Môn Quản trị kinh doanh quốc tế
Tên đề tài:
PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH
CỦA SẢN PHẨM GẠO VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG PHILIPPINES
GV hướng dẫn: Th.S. Quách Thị Bửu Châu
Nhóm thực hiện:
1. Ngô Hoàng Thu Hằng - NT4.K33
2. Dương Ngọc Quỳnh Như - NT4.K33
3. Trần Thị Thúy Quỳnh - NT4.K33
4. Lê Uyên Phương – NT4.K33
5. Bùi Ánh Ngọc - NT3.K33
Tp HCM, Tháng 11/2009
Trang 1













Trang 2


NHẬN XÉT
CỦA GIẢNG
VIÊN
Lời mở đầu 5
Phần I: Khái quát tình hình xuất khẩu gạo của Việt Nam sang các nước
1.1 Xuất khẩu gạo giảm mạnh tại thị trường châu Á,tăng mạnh tại thị
trường châu Phi 6
1.2 Philippines vẫn duy trì vị trí nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam . .7
Phần II:Tình hình nhập khẩu gạo của Philippines từ các nước 10
Phần III:Phân tích lợi thế chạnh tranh gạo VN ở Philippines qua mô
hình kim cương của Porter 13
3.1.Yếu tố thâm dụng 13
3.1.1.Yếu tố cơ bản 13
3.1.2.Yếu tố tăng cường 16
3.2.Nhu cầu 19
3.3.Ngành công nghiệp liên quan và hỗ trợ 21
3.3.1.Tóm tắt quy trình chế biến gạo 21
3.3.2 Những ngành công nghiệp liên quan và hỗ trợ 24
3.4 Chiến lược,cơ cấu,sự cạnh tranh của công ty 36
3.4.1 Gạo Vĩnh Long: Đẩy mạnh công nghệ, thích ứng linh hoạt, tăng
năng lực cạnh tranh 36
3.4.2 An Giang: Trồng lúa Nhật vụ hè thu thu lợi nhuận cao gấp 3,5 lần
trồng lúa chất lượng cao 40
3.4.3 Bình Định: Triển vọng từ giống lúa chất lượng TP5 41
3.4.4 Đăk Lăk: 55 tỷ đồng quy hoạch phát triển vùng sản xuất lúa lai 42
3.4.5 Bình Thuận: Hiệu quả mô hình “3 giảm, 3 tăng” 43
3.4.6 Hậu Giang: Hỗ trợ nhân giống lúa chất lượng 44
3.5.Vai trỏ của chính phủ 45
Trang 3
3.5.1 Trợ cấp và trợ giá 45

3.5.2 Vốn 46
3.5.3 Thành lập t iêu chuẩn gạo Việt Nam xuất khẩu 48
3.5.4.Thuế 49
3.5.5.Pháp Luật 50
3.5.6 Một số chính sách về lương thực 53
3.6.Vai trò về cơ hội vận may rủi 60
Kết luận 69
Tài liệu tham khảo 70
Trang 4
hi đánh giá các thành tựu kinh tế đã đạt được trong những năm đổi
mới vừa qua, chắc chắn chúng ta không thể không đề cập đến những
thành tựu vượt bậc trong lĩnh vực nông nghiệp. Từ một nước nông
nghiệp lạc hậu, nhiều thập kỷ qua phải nhập siêu về lương thực, chủ yếu mặt
hàng gạo, đến nay Việt Nam không những đảm bảo được an ninh lương thực
quốc gia mà còn trở thành một trong những cường quốc về xuất khẩu gạo trên
thế giới.
K
Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thắng lợi bước đầu so với thời kỳ trước
kia của ta. Nếu xem xét một cách toàn diện về sản xuất và xuất khẩu mặt hàng
gạo, Việt Nam còn nhiều mặt hạn chế, trước hết giá cả, chất lượng và khả năng
cạnh tranh còn thấp hơn so với nhiều nước trên thế giới. Trong khi đó, quá trình
tự do hoá thương mại ngày càng diễn ra một cách mạnh mẽ. Tình hình đó càng
làm cho cạnh tranh trở nên quyết liệt và phức tạp hơn cả ở trong và ngoài nước.
Do vậy, nếu chúng ta không sớm có chiến lược dài hạn về sản xuất và xuất khẩu
mặt hàng gạo để tạo ra những bước đột phá mới, chắc chắn chúng ta sẽ khó duy
trì được vị trí như hiện nay, chưa nói đến việc tiến xa hơn so với các đối thủ
cạnh tranh. Xuất phát từ thực tế đó, chúng em thực hiện bài tiểu luận “Phân tích
lợi thế cạnh tranh của sản phẩm gạo Việt Nam sang thị trường Philippines”
nhằm đánh giá khả năng cạnh tranh của Việt Nam vào thị trường này nói riêng
cũng như đối với những nước khác nói chung nhằm giúp Việt Nam ngày càng

khẳng định vị trí về xuất khẩu gạo trên thị trường quốc tế.
Trang 5
MỞ ĐẦU
PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH
CỦA SẢN PHẨM GẠO VIỆT NAM SANG
THỊ TRƯỜNG PHILIPPINES

PHẦN I
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GẠO
CỦA VIỆT NAM SANG CÁC NƯỚC
heo báo cáo thường niên ngành hàng lúa gạo Việt Nam của Trung tâm
Thông tin phát triển nông nghiệp nông thôn (AGROINFO), xuất khẩu
gạo của Việt Nam năm 2008 giảm mạnh tại thị trường Châu Á và tăng
mạnh tại thị trường Châu Phi. Năm 2008, cũng là năm thị trường xuất khẩu gạo
của Việt Nam được mở rộng. Nếu như trong năm 2007, gạo Việt Nam được xuất
khẩu đến 63 quốc gia vùng/lãnh thổ thì đến năm 2008, con số này đã tăng lên
gấp đôi (128 quốc gia/vùng/lãnh thổ).
T
1. XUẤT KHẨU GẠO GIẢM MẠNH TẠI THỊ TRƯỜNG CHÂU Á, TĂNG
MẠNH TẠI THỊ TRƯỜNG CHÂU PHI
Năm 2008, xuất khẩu gạo Việt Nam sang thị trường Châu Á giảm mạnh
so với năm 2007 (giảm từ 78,1% năm 2007 xuống còn 58,8% năm 2008). Trong
số các thị trường có tỷ trọng xuất khẩu gạo tăng thì thị trường Châu Phi là tăng
mạnh nhất, tăng hơn gấp đôi so với năm 2007 (từ 8,4% năm 2007 lên 22% năm
2008).
Trang 6
Hình 1: Kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam đi các thị trường năm
2007-2008 (%)
Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan
Cơ cấu thị trường xuất khẩu gạo năm 2008 của Việt Nam có sự thay đổi

đặc biệt trong việc xuất khẩu gạo sang thị trường Indonesia. Thực tế, trong các
năm trước đây, cũng như năm 2007, Indonesia luôn là thị trường xuất khẩu gạo
lớn của Việt Nam (chiếm 24% tổng lượng xuất khẩu), thì năm 2008, nước này
đã giảm mạnh lượng nhập khẩu gạo (chỉ chiếm hơn 1% tổng lượng gạo xuất
khẩu) do có thể tự đáp ứng được nhu cầu gạo tại thị trường trong nước, do lượng
dự trữ trong nước cao và mở rộng sản xuất. Thậm chí, sang năm 2009, sau khi
thu hoạch lúa vụ chính, nước này sẽ xem xét đến khả năng xuất khẩu gạo. Năm
2008, Indonesia chỉ nhập 76,4 nghìn tấn gạo từ thị trường Việt Nam, giảm mạnh
so với mức hơn 1 triệu tấn gạo của năm 2007.
2. PHILIPPINES VẪN DUY TRÌ VỊ TRÍ SỐ MỘT NHẬP KHẨU GẠO
LỚN NHẤT CỦA VIỆT NAM
Trong 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất của Việt Nam năm 2008 thì,
Phillippines vẫn là thị trường đứng tại vị trí số một, chiếm gần 40% tổng lượng
gạo xuất khẩu của Việt Nam, tăng 9,3% thị phần so với năm 2007. Trong 10 thị
trường có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất này thì có 3 thị trường bao gồm
Philippin, Malaysia, Cu Ba là thị trường truyền thống, chiếm 63,8% về giá trị và
Trang 7
54,8% về lượng. 7 thị trường còn lại là các thị trường thương mại (chiếm 18,4%
về giá trị và 23,3% về lượng), trong đó thị trường châu Phi chiếm tới 11,7% về
giá trị và 14,5% về lượng.
Tuy nhiên, tại 3 thị trường truyền thống, lượng gạo xuất khẩu của Việt
Nam năm 2008 thay đổi không đáng kể so với năm 2007 (tăng 1,5% tại
Philippin, 13,4% tại Cuba và 21,4% tại Malaysia) nhưng do giá tăng mạnh nên
kim ngạch xuất khẩu lại tăng hơn 100% (tăng 133,5% tại Philippin, 145,5% tại
Cuba, 126,6% tại Malaysia).
Tại các thị trường thương mại còn lại, Senegal có sự tăng trưởng về lượng
và kim ngạch lớn nhất (tăng 4.848,9% về lượng và 6.411,3% về giá trị) so với
năm 2007. Gana có sự sụt giảm cả về lượng và giá trị so với năm 2007. Điều
đáng chú ý là năm 2008, I-rắc bắt đầu nhập khẩu gạo Việt Nam trở lại khi tạm
ngừng nhập khẩu vào năm 2007. Trước đây, I-rắc cũng được coi là 1 thị trường

truyền thống trong xuất khẩu gạo của Việt Nam.
Hình 2: Top 10 thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất từ Việt Nam, 2008
Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan
Ả rập Syrian mặc dù có kim ngạch nhập khẩu gạo từ Việt Nam không lớn
nhưng lại có tốc độ tăng trưởng nhập khẩu 2007/08 lớn nhất. Tốc độ tăng trưởng
của thị trường này đạt 29.338%. Ba Lan là thị trường có tốc độ tăng trưởng nhập
khẩu gạo từ Việt Nam lớn thứ hai, đạt 6.790%. Tiếp theo là các thị trường
Senegal (đạt 6.411%), Fiji (tăng 4.638%), Pháp (tăng 2.272%), Kenya (tăng
Trang 8
2.140%), Ả rập Xê út (tăng 2.093%), Đông Timo (tăng 1.646%). Bờ biển Ngà
(1.214%) Các thị trường có tốc độ tăng trưởng kim ngạch nhập khẩu lớn nhất
năm 2008 này chủ yếu là các thị trường thương mại (các thị trường mới) tập
trung tại khu vực Châu Phi.
Trang 9
PHẦN II
TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU GẠO CỦA PHILIPPINES
TỪ CÁC NƯỚC
Sản lượng lúa gạo của Philippines không đáp ứng đủ nhu cầu trong nước;
mức thâm hụt hàng năm vào khoảng 10% nhu cầu. Năm 2008, nước này nhập
khẩu 2,4 triệu tấn gạo chủ yếu từ Việt Nam và Thái Lan.
Dưới đây là thống kê các cuộc đấu thầu mua gạo của Cơ quan Lương
thực Quốc gia Philippine từ tháng 12/2007, khi cơ quan này bắt đầu thực hiện
việc nhập khẩu gạo cho năm 2008. Năm đó, Philippine đã mua kỷ lục 2,3 triệu
tấn gạo, góp phần đẩy giá lên cao kỷ lục.
Thời gian Khối lượng (tấn) Loại gạo Xuất xứ
Tháng 12/2007 410.701,50 25% Việt Nam
12.000 25% Thái lan
Tháng 1/2008 300.000 25% Việt Nam
162.750 25% Thái lan
Tháng 3/2008 10.000 25% Pakistan

125.500 25% Thái lan
160.000 25% Việt Nam
12.500 15% Việt Nam
15.000 5% Thái lan
12.500 5% Việt Nam
2.500 25% Pakistan
3.000 25% Thái lan
11.250 25% Việt Nam
28.750 25% Thái lan/Việt
Trang 10
Nam/Pakistan
3.125 15% Thái lan/Việt
Nam/Pakistan
3.125 5% Thái lan/Việt
Nam/Pakistan
Tháng 4/2008 25.000 25% Pakistan
193.875 25% Thái lan
70.000 25% Việt Nam
35.000 5% Thái lan
40.625 25% Pakistan
35.000 25% Thái lan
5.625 5% Thái lan
Tháng 6/ 2008 360.000 25% Việt Nam
180.000 15% Việt Nam
60.000 5% Việt Nam
72.600 Gạo loại 4 Mỹ
Tháng 7/2009 65.000 25% Thái lan
10.000 25% Pakistan
Nguồn: AGROINFO, tính theo Tổng cục Hải quan
Trong năm 2009, Philippines nhập 1,775 triệu tấn gạo (gồm cả 1,5 triệu

tấn mua từ Việt Nam thông qua thoả thuận cấp chính phủ). Con số này ít hơn so
với lượng gạo nhập trong năm 2008 là 2,3 triệu tấn.
Trong tổng số 1,775 triệu tấn gạo mà Philippine nhập khẩu cho năm
2009, 1,5 triệu tấn thông qua các hợp đồng liên chính phủ với Việt Nam, các
công ty tư nhân mua 200.000 tấn còn lại.
Hiện nay, sau khi Philippines ký hợp đồng nhập 250.000 tấn gạo từ Việt
Nam và Hàn Quốc trong cuộc đấu thầu ngày 4.11. 2009, Phlippines lại tiếp tục
Trang 11
công bố ba cuộc bỏ thầu trong tháng 12 năm 2009 với sản lượng mua mỗi đợt là
600 000 tấn.
Ngoài ra, Philippines dự tính mua thêm 100.000 tấn từ Pakistan, Mỹ, Úc
và Ấn Độ, còn lại là từ các nhà xuất khẩu Việt Nam, Trung Quốc và Thái Lan.
Philippines sẽ nhập từ 2,5 – 3 triệu tấn gạo trong năm 2010, sau khi mùa màng
bị bốn cơn bão lớn tàn phá.
Như vậy tính đến thời điểm này, lượng gạo Philippines nhập khẩu cho
năm 2010 trong năm nay có thể lên tới 2,05 triệu tấn. Đây là một số lượng nhập
khẩu kỷ lục trong một khoảng thời gian ngắn như vậy.
Philippines cũng cho biết nhập khẩu gạo của nước này sẽ đạt ít nhất là
2,35 triệu tấn vào năm tới do ảnh hưởng nặng nề từ các đợt mưa bão. Và trong
tình huống xấu nhất, sản xuất gạo có thể tiếp tục bị ảnh hưởng bởi thời tiết thất
thường cùng hiện tượng El Nino, nước này có thể nhập đến 3 triệu tấn gạo.
PHẦN III
Trang 12
PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA SẢN PHẨM
GẠO VIỆT NAM Ở THỊ TRƯỜNG PHILIPPINES
THÔNG QUA MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA PORTER
rong thương mại quốc tế, các nước đều căn cứ vào lợi thế so sánh
của mình để sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng đem lại hiệu quả
cao nhất, như Heckscher- Ohlin đã nhấn mạnh: “Một nước sẽ sản
xuất và xuất khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng cần sử dụng nhiều

yếu tố rẻ và tương đối sẵn có của nước đó”.Chẳng hạn, xuất khẩu dầu mỏ của
Trung Cận Đông, đồng của Zambia, Zaica, Chilê,Pêru, hoặc gỗ của Malaixia,
Philippin Khí hậu nhiệt đới đem lại lợi thế về các mặt hàng như cà phê, ca cao,
chuối, dầu thực vật và các nguyên liệu thô như bông cao su. Cuối cùng, tiềm
năng lao động dồi dào cho phép xuất khẩu các mặt hàng sử dụng nhiều lao động
như dệt may, dày gia, công nghiệp nhẹ Việt Nam cũng không nằm ngoài trường
hợp này. Nguồn tiềm năng thuận lợi của Việt Nam trong xuất khẩu gạo bao gồm
cả điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và lao động dồi dào.
T
3.1 YẾU TỐ THÂM DỤNG
3 . 1.1 Yếu tố cơ bản:
Việt Nam là một quốc gia nằm trên bán đảo Đông Dương, ven biển Thái
Bình Dương. Việt Nam có đường biên giới trên đất liền dài 4.550 km tiếp giáp
với Trung Quốc ở phía Bắc, với Lào và Căm-pu-chia ở phía Tây; phía Đông giáp
biển Đông. Trên bản đồ, dải đất liền Việt Nam mang hình chữ S, kéo dài từ vĩ độ
23
o
23’ Bắc đến 8
o
27’ Bắc, dài 1.650 km theo hướng bắc nam, phần rộng nhất
trên đất liền dài chừng 500 km; nơi hẹp nhất dài gần 50 km.
Về tự nhiên, Việt Nam có diện tích 330,363 km
2
(thuộc loại có diện tích
trung bình trên thế giới). Đất đai màu mỡ rất thuận lợi cho phát triển nông
nghiệp.Ta có bờ biển dài thuận lợi cho giao thông và chuyên chở đường biển-
Trang 13
thuận lợi cho xuất khẩu. Việt Nam nằm ở trung tâm Đông Nam Á và Bắc Bán
Cầu, khí hậu nhiệt đới gió mùa, rất thuận lợi cho việc phát triển nghề trồng lúa.
Do vậy, cây lúa là cây lương thực truyền thống. Nhiều công trình nghiên cứu

khoa học cho biết Việt Nam là một trong những cái nôi của nền văn minh lúa
nước xa xưa. Nên người Việt Nam đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm canh tác
lúa, làm nền tảng cho việc trồng lúa hướng xuất khẩu. Việt Nam cũng là một
trong những nước tham gia xuất khẩu gạo tương đối sớm so với nhiều nước xuất
khẩu khác trên thế giới (năm 1880 Việt Nam xuất 300 ngàn tấn gạo sang các
nước trong hệ thống thuộc địa của Pháp).
Đất ở Việt Nam rất đa dạng, có độ phì cao, thuận lợi cho phát triển
nông, lâm nghiệp. Đất đai là cơ sở đầu tiên, quan trọng nhất để tiến hành trồng
trọt, chăn nuôi. Quỹ đất, tính chất đất và độ phì của đất có ảnh hưởng đến quy
mô, cơ cấu, năng suất và sự phân bố cây trồng, vật nuôi. Đất nào, cây ấy. Kinh
nghiệm dân gian đã chỉ rõ vai trò của đất đối với sự phát triển và phân bố nông
nghiệp. và theo đó, cây lúa rất thích hợp với việc trồng lúa cũng như là điều kiện
cơ bản để phát triển xuất khẩu lúa, gạo của nước ta.
Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc (2.360 con sông dài trên
10 km), chảy theo hai hướng chính là tây bắc- đông nam và vòng cung. Hai sông
lớn nhất là sông Hồng và sông Mê Công tạo nên hai vùng đồng bằng rộng lớn và
phì nhiêu. Hệ thống các sông suối hàng năm được bổ sung tới 310 tỷ m
3
nước.

Đặc điểm địa hình và nguồn nước ở Thái Lan
Thái Lan với tổng diện tích 513.120 km
2
được chia thành 4 vùng: (i) vùng
rừng núi phía bắc; (ii) vùng Đông-Bắc khô hạn với một cao nguyên rộng lớn,
(iii) vùng đồng bằng trung tâm thường xuyên bị ngập lụt; và (iv) vùng bán đảo
phía Nam. Trong số 26,79 triệu ha có thể phát triển nông nghiệp, chỉ có 40%
được canh tác do thiếu nước. Về các yếu tố khí hậu, ngoài chế độ gió mùa Tây-
Nam, Thái Lan chịu ảnh hưởng khô hạn và lạnh của của gió mùa Tây-Bắc.
Lượng mưa trung bình năm ở mức 1.485 mm, trong khi vùng đông bắc chỉ ở

mức 1.100 mm. Lưu vực sông Mê Công ở Thái Lan rộng 188,623 km2 chiếm
Trang 14
36,8% tổng diện tích lưu vực, và đóng góp 51,9 tỷ m3 chiếm 26,1% tổng lượng
nước hàng năm của Thái Lan.
Nông dân ở các đồng bằng trung tâm đất nước có thể trồng lúa vào mùa
khô để kiếm tiền nhưng ở miền đông bắc, người ta không trồng nhiều được”,
ông Amar cho biết.
Dù là nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới nhờ diện tích trồng lúa rộng
và dân số tương đối ít nhưng năng suất trồng lúa ở Thái Lan vẫn thấp và không
thể dự đoán.
Cho tới nay các thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội và các
hoạt động và chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, đặc biệt đối với phát triển tài
nguyên nước của Thái Lan rất thiếu và không hệ thống. Mức độ hợp tác trao đổi
thông tin và ý kiến giữa các quốc gia trong lưu vực sông Mekong, trong đó có
Việt Nam, cũng rất hạn chế phần lớn do chính sách của các cơ quan đối tác của
Thái Lan trong trao đổi và chia sẻ thông tin số liệu. Các nguồn thông tin từ
cộng đồng tài trợ cũng rất hạn chế do Thái Lan không thuộc diện nhận tài trợ
phát triển như các quốc gia khác trong MRC
Về lao động, Việt Nam là nước có lao động trong nông nghiệp chiếm tỷ
lệ cao: trên 70% lực lượng lao động cả nước. Thu nhập bình quân đầu người
thấp – giá nhân công rẻ. Điều này làm cho sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam có
giá thành thấp, tăng thêm sức cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới.
Việt Nam có thể tận dụng ưu thế về đất đai, khí hậu và lao động để sản
xuất những sản phẩm xuất khẩu chứa hàm lượng tài nguyên và lao động cao, còn
vốn và kỹ thuật thấp. Do vậy, Việt Nam chọn phát triển sản xuất lúa gạo là
ngành chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân là hoàn toàn đúng đắn cả về lý thuyết
và thực tiễn. Sản xuất lúa gạo thể hiện rõ các đặc tính của sản xuất nông nghiệp.
Thứ nhất, thực hiện sản xuất trên diện rộng và phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên
như khí hậu, đất đai, nguồn nước Thứ hai, tiến hành sản xuất cần nhiều lao
động do tính chất phân bố rộng của sản xuất và đòi hỏi bắt buộc khi thực hiện

Trang 15
công việc. Sản xuất lúa cho phép tận dụng tốt ưu thế về lao động và tài nguyên
thiên nhiên, đồng thời hạn chế những khó khăn về vốn, kỹ thuật - công nghệ.
3.1.2 Yếu tố tăng cường:
3.1.2.1 Phương tiện nghiên cứu
Hiện nay cả nước có khoảng 14 viện nghiên cứu rải đều trong cả nước,
ngoài ra còn có các trường đại học nghiên cứu và phát triến giống lúa và các loại
thuốc trừ sâu bệnh cho cây lúa. Các viện nghiên cứu đều được trang bị các thiết
bị hiện đại nhằm phục vụ tối đa các việc nghiên cứu.
3.1.2. 2 Bí quyết
Một số vùng bị nhiễm phèn, người nông dân ngoài việc dùng các loại vôi
hay phân bón làm giảm lượng phèn, còn dùng thêm bột thuốc lá để tăng độ xốp
của đất, nhiều dinh dưỡng, hạn chế tác hại của phèn, sâu đục thân và các loại
rầy…
3.1.2. 3 C ơ sở hạ tầng
Khi nói đến cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn chúng ta thường nhắc
tới các hạng mục công trình như: Đường giao thông (trong thôn, liên thôn, liên
xã, liên huyện ), hệ thống thuỷ lợi (các công trình thuỷ nông tưới tiêu nước
phục vụ sản xuất nông nghiệp), hệ thống cấp nước sinh hoạt, hệ thống điện, công
trình văn hoá thể thao, trạm y tế, trường học, thông tin liên lạc
Trong thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Nhờ tập trung đầu tư của
Nhà nước, cùng với sự đóng góp của nhân dân, cơ sở hạ tầng nông thôn đã được
cải thiện đáng kể, điều kiện sống, ăn ở, đi lại học hành, bộ mặt kinh tế-xã hội ở
nông thôn có sự thay đổi rõ rệt.
Từ năm 1999 đến nay đã huy động được trên 29 nghìn tỷ đồng từ nguồn
vốn trong nước, kết hợp với tài trợ quốc tế để xây dựng giao thông nông thôn.
Trong đó nhân dân đóng góp hơn 12 nghìn tỷ đồng (chiếm 41,99%) và hơn 409
Trang 16
triệu ngày công lao động; địa phương đóng góp hơn 9,7 nghìn tỷ đồng (33,26%);

Trung ương hỗ trợ hơn 2,5 nghìn tỷ đồng (8,76%); các nguồn huy động khác
hơn 4,6 nghìn tỷ đồng (15,99%).
Tình hình xây dựng cơ sở hạ tầng
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thuỷ lợi,
giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, làm thay đổi bộ mặt nông thôn
 Giao thông nông thôn: Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm”, giao thông nông thôn có bước phát triển cả về số lượng và chất lượng.
Ngoài việc phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn, các địa phương
đã tích cực huy động các nguồn lực tham gia xây dựng các cống qua đường,
nâng cấp và xã hội hệ thống đường nội bộ xã, liên thôn, xoá cầu khỉ ở Đồng
bằng sông Cửu Long… đến năm 2006 cả nước có 8.792 xã có đường ô tô đến
trụ sở UBND xã, chiếm 96,9% tổng số xã (năm 2001 là 94,2%); trong đó có
8.488 xã (chiếm 93,55%) có đường ô tô đi lại quanh năm, có 6.356 xã (chiếm
70%) đường ô tô được nhựa, bê tông hoá… góp phần thu hút các nhà đầu tư
về nông thôn, tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo và giải quyết nhiều
vấn đề kinh tế, xã hội khác.
 Về thuỷ lợi : Tới nay, cả nước có trên 1.952 hồ chứa có dung tích chứa
trên 0,2 triệu m3 nước; 10 ngàn trạm bơm, 1000km kênh trục chính Tổng
năng lực thiết kế tưới của các hệ thống đảm bảo cho 11,45 triệu ha gieo
trồng, trong đó tưới cho 6,85 triệu ha đất lúa, 1 triệu ha rau màu; đảm bảo
tiêu cho khoảng 1,71 triệu ha, ngăn mặn cho 0,87 triệu ha, cải tạo 1,6 triệu ha
đất, cấp nước sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ trên 5 tỷ m3/năm Trong giai
đoạn 2001-2005, năng lực tưới đã tăng thêm 575 ngàn ha, năng lực tiêu tăng
thêm 235 ngàn ha. Đã kiên cố hoá trên 15.000 km kênh mương “Trung ương,
địa phương; nhà nước và nhân dân cùng làm”. Hệ thống quản lý, vận hành hệ
thống thuỷ lợi được củng cố và tăng cường năng lực. Hệ thống thuỷ lợi cả
nước được vận hành do 100 công ty thuỷ nông với tổng số 22.569 cán bộ
công nhân viên và 12.000 HTX, tổ hợp tác.
Trang 17
Vùng ven biển đã tăng cường xây dựng hệ thống các cống đập ngăn mặn, giữ

ngọt, nhiều công trình đã đưa vào sử dụng và phát huy tác dụng. Vùng Đồng
bằng sông Cửu Long, tập trung thực hiện chương trình kiểm soát lũ, phát triển
thuỷ lợi, giao thông và dân cư. Bước đầu thực hiện các công trình thuỷ lợi ven
biển phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, gắn ngọt hoá với việc nuôi trồng thuỷ sản
nước mặn, nước lợ và tận dụng và khai thác thuỷ sản mùa lũ.
 Về hệ thống đê , từ năm 2000 đến nay đã tập trung thực hiện tu bổ, củng
cố đê biển, đê sông từ cấp III trở lên; cứng hoá mặt đê kết hợp giao thông
và phòng chống lũ; trồng tre chắn sóng bảo vệ đê.
 Về điện lưới quốc gia: Điện lưới quốc gia đã cấp điện cho 525/536 huyện
đạt 97,95%; 10.522 xã phường có điện lưới quốc gia, đạt 96,80%; số hộ
dùng điện lưới quốc gia đạt 93,34%.
 Về cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường nông thôn: Đến cuối năm
2005, đạt tỷ lệ 62% dân cư nông thôn đảm bảo cung cấp nước sinh hoạt
đạt vệ sinh. Tới cuối năm 2007, đã có 70% cư dân nông thôn có nước
sinh hoạt hợp vệ sinh và có khoảng 30% người dân được dùng nước đạt
tiêu chuẩn của Bộ Y tế, 12% số xã có hệ thống thoát nước thải chung
 Nhờ đầu tư cho hạ tầng nông nghiệp, nông thôn nên đã tạo điều kiện phát
triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, giải quyết việc làm, nên thu
nhập của người dân đã được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn đã giảm rõ rệt.
3.2 NHU C ẦU
Tại nhiều đại lý gạo, chợ đầu mối và một số siêu thị khu vực Tp.HCM,
các mặt hàng gạo cao cấp với những tên gọi mới như Hồng Hạc, Chín Rồng
vàng (Công ty Lương thực Tiền Giang), Trạng Nguyên (Công ty Lương thực
Trang 18
sông Hậu), Nàng hương Chợ Đào, Tài nguyên Chợ Đào, Tài nguyên thơm (Long
An - MECOFOOD), đã sánh vai cùng dẻo Thái, thơm Thái, thơm Đài Loan, Hàn
Quốc, thơm Nhật, Jasmine và trở nên phổ biến, gần gũi với người tiêu dùng.
Vài năm trở về trước, thị trường gạo cao cấp này thường là “đặc quyền” của một
số người dùng có nhiều tiền, bởi giá khá cao. Giá 1kg gạo thơm Hàn Quốc lên
đến 18.000 đ/kg; gạo thơm Đài Loan giá 8.600 đ/kg. Gạo Nàng hương Chợ Đào,

dù cho là không “chính gốc” cũng có giá từ 7.500 - 8.000 đ/kg. Ngoài ra, thị
trường còn có sự tham gia của một số sản phẩm gạo từ châu Âu như Hà Lan,
Pháp
Riêng gạo cao cấp có thương hiệu trong nước thì có bao bì khá bắt mắt và
khá tiện ích. Trọng lượng từ 2kg đến 10 kg, trên nhãn có ghi hướng dẫn cách nấu
cho mỗi loại, ngày sản xuất, ngày sử dụng, tên doanh nghiệp sản xuất. Nhiều
người dùng cho biết, rất thích những loại gạo này, do khi mua vào cảm thấy yên
tâm hơn và cũng dễ bảo quản, nấu nướng, hương vị đa dạng, phong phú.
Tuy nhiên, theo một lãnh đạo của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA): “Phần
lớn gạo có thương hiệu là gạo đặc sản, chủ yếu là trong nước, gạo nhập chiếm
một tỷ lệ rất thấp”. Nguyên do là tâm lý người tiêu dùng Việt Nam đã quá quen
với các chủng loại gạo nội, dễ ăn, giá vừa phải. Mặt khác, người tiêu dùng khi
mua gạo ngon, thường nhắm tới thương hiệu là chính, còn xuất xứ thì khó có thể
biết đích xác đâu là gạo ngoại xịn, đâu là gạo nội được đóng mác ngoại.
Đánh vào tâm lý một số người dùng “sính” gạo ngoại, nhiều nhà bán lẻ
(thậm chí đại lý bán sỉ) đã đánh lừa khách hàng bằng cách dùng gạo nội loại
ngon, đẹp rồi gắn vào một cái tên rất ngoại rồi bán với giá cũng rất ngoại. Một
trong những loại gạo ngoại này là gạo thơm Thái, dẻo Thái AAA, thơm dẻo
Khawdakmali.
Tâm lý hiện nay của nhiều người tiêu dùng là giá cả bằng nhau thì chuyển
qua dùng gạo ngoại. Thế nhưng, sau khi đã dùng thử nhiều người mới nhận ra
rằng, chất lượng gạo ngoại chẳng hơn gạo ta, thậm chí có loại còn thua xa các
loại gạo nội giá rẻ.
Trang 19
Người tiêu dùng cần thận trọng bởi thực tế hiện nay, gạo nội dán mác
ngoại đã và đang xuất hiện khá nhiều trên thị trường. Ở một số chợ tại TP.HCM
và các tỉnh lân cận, để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nhiều hàng xáo đã lấy
gạo ở ĐBSCL “xào nấu” bằng cách trộn lẫn 5 - 7 thứ gạo với nhau rồi dán mác
ngoại vào để nâng giá bán ra. Hầu hết các loại gạo mang nhãn mác Tây, Tàu
“dỏm” xuất hiện ở TP.HCM đều do các cơ sở kinh doanh nhỏ lẻ tung ra. Do vậy,

để không bị lừa, lời khuyên đối với người tiêu dùng là “ta về ta tắm ao ta ” cho
chắc ăn. Còn nếu muốn mua gạo nội thơm ngon thì chọn các loại gạo đã có
thương hiệu như: Hương Lài, nàng thơm Chợ Đào để khỏi tiền mất mà phải ăn
gạo ngoại chất lượng thấp!
Theo ban quản lý chợ Trần Chánh Chiếu - chợ đầu mối gạo lớn nhất hiện
nay tại TP.HCM, hiện có nhiều loại gạo được bán tại đây tuy nhiên chất lượng
không ai kiểm soát. Người mua chỉ biết nhìn vào bảng giá, tên gạo được người
bán niêm yết trên bao gạo. Hoạt động mua bán gạo chủ yếu dựa theo mối quen,
lòng tin của người tiêu dùng với người bán.
Theo ông Lê Văn Bảnh, để mua được gạo ngon, đúng chất lượng, người
dân nên tìm mua gạo có thương hiệu, được đóng gói cẩn thận. Với những gia
đình có thói quen mua gạo tại các điểm bán lẻ thì nên chọn cho mình mối quen
hoặc các đại lý gạo đầu mối, tỉ lệ pha trộn ít hơn
3.3 NGÀNH CÔNG NGHIỆP LIÊN QUAN VÀ HỖ TRỢ
3.3.1 Tóm tắt quy trình sản xuất chế biến gạo:
3.3.1.1 Quy trình sản xuất - chế biến gạo xuất khẩu gồm 03 công đoạn chính
sau:
A/ Công đoạn xử lý và xay xát lúa:
Trang 20

Thu hoạch: Lúa chín được thu hoạch đa phần bằng thủ công, sau đó qua máy
đập lúa loại bỏ rơm và các tạp chất hữu cơ và vô cơ khác. Nếu vụ Ðông – Xuân
thì nông dân phơi lúa dưới nắng mặt trời, vụ Hè – Thu có thể phơi lúa dưới tấm
nylon trắng hay sử dụng máy sấy xử lý độ ẩm sao cho còn khoảng 17 – 18%
đem đi tiêu thụ.

Thu mua & kiểm phẩm: Khi thu mua lúa đã được sơ chế phải thực hiện công
việc lấy mẩu kiểm tra nguyện liệu đầu vào. Mẩu lấy sau khi được phân tích các
chỉ tiêu như độ ẩm, tạp chất, hạt trong nguyên, hạt bệnh, hạt xanh non… bằng
các thiết bị phân tích thử nghiệm chuyên dùng để phân loại lúa. Lúa loại 1 dùng

để sản xuất các loại gạo có phẩm chất cấp thường như gạo: 20%, 25%, 35%
tấm….
Sấy công nghiệp: Lúa chưa đạt ẩm độ cần thiết phải cho qua máy sấy để xử lý
độ ẩm; thường là loại máy sấy tầng sôi và loại máy sấy vĩ ngang. Cả hai loại đều
cho không khí nóng đi qua và liên tục thay đổi với lưu lượng lớn không khí,
nhằm làm giảm lượng nước trong lúa dần dần nên không ảnh hưởng đến chất
lượng gạo, hay giảm tỷ lệ thu hồi khi qua xay xát.

Xay xát: Lúa đã xử lý được đưa vào hệ thống máy xay xát, hệ thống này gồm
có sàng tạp chất để loại bỏ tạp chất. Lúa sạch được đưa qua cối tách vỏ trấu. Vỏ
trấu lại được tách riêng khỏi gạo lức bằng máy hút rớt dựa theo nguyên lý trọng
lượng, gạo lức qua gằng thóc để loại bỏ thóc còn lẫn, sau đó cối xát trắng bóc
cám thành gạo trắng. Lượng cám được tách bóc tùy theo yêu cầu sản xuất gạo
nguyên liệu hay gạo thành phẩm tiêu phụ nội địa.
B/ Công đoạn đánh bóng & đóng gói gạo:
Ðánh bóng gạo & giám định: Gạo nguyên liệu từ máy xay xát chuyển qua,
hay gạo nguyên liệu thu mua từ các nhà máy xay xát cung ứng cho đơn vị được
đưa vào dây chuyền máy đánh bóng.
Ðầu tiên gạo nguyên liệu qua sàng tạp chất và gằng tách thóc làm sạch
gạo nguyên liệu. Nếu là gạo trắng nguyên liệu thì đưa thẳng vào máy đánh bóng,
Trang 21
nếu là gạo bóc cám chưa sạch phải cho qua máy xát trắng mới chuyển vào máy
đánh bóng.
Quá trình này áp dụng công nghệ phun sương tạo ẩm kết hợp ma sát giữa
các hạt gạo với nhau và với dao máy lau bóng, bằng lực ly tâm gạo được làm
sạch và đánh bóng bề mặt.
Gạo lau bóng chuyển đến sàng tách tấm và trống chọn hạt để phân loại
gạo theo tiêu chuẩn hợp đồng xuất khẩu, hay gạo bán thành phẩm chờ chế biến
gạo đánh bóng 2 lần
Riêng các loại gạo Pass – 02 sẽ được cho qua hệ thống máy lau đánh

bóng lần 2 – làm nguội – kiểm tra, phân loại - sau đó cho qua máy đấu trộn để
đạt các tiêu chuẩn về yêu cầu chất lượng.
Gạo thành phẩm đã giám định đạt được nạp vào bồ đài nạp liệu của máy
đấu trốn và đóng góp gói gạo, bồ đài đưa gạo lên bồn chứa từng loại gạo riêng
biệt (kết hợp đưa gạo qua sàng tạp chất và hệ thống máy hút bụi trong máy đấu).
Từ các bồn chứa riêng qua bộ phận rải liệu xuống băng tải gạo được chuyển đến
bồ đài tổng, đưa lên bồn chứa qua máy hút bụi làm sạch lần thứ hai.
Công đoạn này có sự giám định của Giám sát viên các cơ quan Giám định
như FCC, SGS, VINACONTROL…
Tùy theo thành phần và chất lượng gạo nguyên liệu mà phân ra thành
nhiều loại khác nhau như: 5% tấm, 10% tấm, 15% tấm, 20% tấm, 25% tấm… và
tùy thuộc vào độ ẩm phân loại để xử lý.
Trên cơ sở phân loại gạo nguyên liệu, theo từng loại nguyên liệu cho qua
máy chế biến, thu loại thành phẩm tương ứng sẽ đạt được các thành phần chỉ tiêu
chất lượng xuất khẩu.
Ðóng gói: Nhằm tạo sự đồng nhất của sản phẩm và đạt các tiêu chuẩn trong
hợp đồng xuất khẩu từ bồn chứa gạo thành phẩm được đóng gói bằng bao P.P.
qua cân đạt trọng lượng theo hợp đồng, miệng bao may hai đường chỉ coton
song song với nhau để đảm bảo trong quá trình bốc xếp và vận chuyển.
Ðặc biệt đơn vị thường xuyên theo dõi hàng hóa trong các phân xưởng -
kho bãi, kịp thời xử lý côn trùng sâu mọt, duy trì môi trường trong và ngoài phân
Trang 22
xưởng – kho bãi luôn thoáng mát, sạch sẽ; hạn chế tối đa tình trạng hàng hóa
xuống cấp.
C/ Công đoạn bốc xếp và vận chuyển gạo thành phẩm đến Cảng xuất
hàng:
Vận chuyển & xuất hàng: Gạo thành phẩm sau khi đóng gói hoàn thành công
nhân vác chuyển xuống sà lan, năng lực bốc xếp bình quân tại bến xuất nhập
hàng hóa của đơn vị khoảng 200 – 300 tấn gạo / ngày. Tùy theo yêu cầu có thể
hun trùng tại kho hoặc dưới sà lan. Từ bến của đơn vị, sà lan vận chuyển đến

Cảng xuất hàng không quá 24 giờ.
Trong quá trình sản xuất, bảo quản và giao thương, đơn vị luôn thực hiện tốt:
 Quy trình vệ sinh an toàn thực phẩm, sử dụng đúng loại thuộc hun
trùng, đúng liều và đúng lúc.
 Qui cách và tiêu chuẩn sản phẩm đáp ứng phù hợp cho hàng xuất khẩu
theo từng hợp đồng.
 Quy trình quản lý chất lượng, tạo tính ổn định và sự đồng nhất của sản
phẩm.
3.3.1.2 Quy trình hoạt động thu mua nguyên liệu đầu vào
Qui trình xác định chất lượng nguyên liệu đầu vào được đơn vị thực hiện
gồm 04 bước sau đây:
Bước thứ nhất: Lấy mẩu đại diện và định giá mua.
Kiểm phẩm thực hiện xăm lấy lấy mẩu đại diện để xác định một số chỉ
tiêu cơ bản sau:
- Xác định ẩm độ mẩu đại diện.
- Hạt nguyên vẹn.
- Một số chỉ tiêu chất lượng.
- Ðịnh giá mua nguyên liệu đầu vào và đạt được thỏa thuận về phương thức thu
mua với người bán.
Các chỉ tiêu chất lượng theo kết quả phân tích được so sánh với định mức
kinh tế kỹ thuật do Tổng Công Ty Lương Thực Miền Nam lập và bảng chiết tính
giá thành của Ðơn vị dựa trên tỷ lệ thu hồi để xác định giá mua.
Trang 23
Bước thứ hai: Xăm kiểm tra nguyên liệu đầu vào.
Kiểm phẩm xăm kiểm tra toàn bộ nguyên liệu đầu vào, trong quá trình
xăm kiểm tra phẩm loại bỏ những bao không đạt theo mẩu đại diện.
Bước thứ ba: Phân tích mẫu thực tế.
Kiểm phẩm lấy mẩu thực tế phân tích chỉ tiêu:
 Xác định ẩm độ mẩu thực tế.
 Hạt nguyên ven.

 Một số chỉ tiêu chất lượng
Bước thứ tư: Quyết định giá mua.
So sánh giữa mẩu đại diện và mẩu thực tế, nếu các chỉ tiêu đạt được trên
95% thì quyết định mua theo giá ban đầu. Ngược lại tùy theo kết quả so sánh thì
giảm giá mua nguyên liệu đầu vào phù hợp và được người bán chấp nhận.
3.3.2 Những ngành công nghiệp liên quan và hỗ trợ:
Với sự phát triển đi lên của xã hội, nhu cầu gạo cấp cao, gạo đặc sản sẽ
ngày càng tăng lên, ngược lại nhu cầu gạo cấp thấp sẽ ngày càng giảm dần. Gạo
phẩm cấp thấp vừa có sức cạnh tranh kém hơn vừa khó mở rộng thị trường xuất
khẩu. Ngược lại, đa số những nước phát triển có nhu cầu lớn về loại gạo chất
lượng cao. Xu thế này đang chiếm đa số, nên khả năng mở rộng thị trường lớn
hơn. Mặt khác, chất lượng gạo xuất khẩu có ảnh hưởng trực tiếp đến giá gạo thị
trường xuất khẩu. Với những loại gạo có chất lượng càng cao thì giá cả càng
cao, làm tăng kim ngạch xuất khẩu gạo. Để sản xuất lúa gạo nói chung và xuất
khẩu gạo nói riêng nâng cao hiệu quả kinh tế, con đường nhanh nhất là phải tăng
sản lượng gạo phẩm cấp cao, hạ sản lượng gạo phẩm cấp thấp. Do vậy, có thể
khẳng định rằng chất lượng gạo là yếu tố quan trọng nhất tạo nên khả năng cạnh
tranh xuất khẩu của mặt hàng gạo xuất khẩu.Trên thực tế, chất lượng gạo xuất
khẩu phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản sau.
3.3.2.1 Những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng gạo:
3.3.2.1.1Giống lúa
Trang 24
Trên thực tế, giống lúa được coi là yếu tố hàng đầu chi phối trực tiếp đến
chất lượng sản phẩm gạo. Với mỗi loại giống lúa khác nhau sẽ cho một loại chất
lượng gạo khác nhau như gạo nếp, gạo tẻ thường, gạo thơm, gạo dẻo, gạo hạt
dài, gạo hạt ngắn hạt Do vậy, chúng ta cần phải đa dạng hoá các loại giống lúa
và chủng loại khác nhau nhằm mục tiêu vừa nâng cao chất lượng gạo vừa để đáp
ứng nhu cầu của người tiêu dùng trên thế giới ngày càng đa dạng, phong phú. Ví
dụ, người Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản ưa dùng loại gạo hạt dài, chất lượng cao;
còn người Trung Quốc, Ôxtrâylia, Hàn Quốc ưa dùng loại gạo hạt trong, dẻo;

một số thị trường cấp cao thích gạo thơm đặc sản có giá trị dinh dưỡng cao
Đối chiếu với Việt Nam, chúng ta nhận thấy sự đa dạng về chủng loại gạo xuất
khẩu của ta còn nhiều hạn chế và chưa phát huy được thế mạnh vốn có của
mình. Đó là chúng ta có những giống lúa thơm đặc sản truyền thống nổi tiếng
như Tám thơm, Tám xoan, Dự hương, Nếp cái hoa vàng , khiến ai đã dùng dù
chỉ một lần sẽ nhớ mãi, nhưng tỷ trọng loại gạo này trong tổng số xuất khẩu của
Việt Nam còn khá khiêm tốn. Ngoài ra, xuất khẩu loại này vừa thu được lợi
nhuận lớn và đạt hiệu quả kinh tế cao vì số lượng ít nhưng kim ngạch cao. Điều
này đòi hỏi Việt Nam nỗ lực đa dạng hoá chủng loại và cơ cấu gạo xuất khẩu
hơn nữa để có thể mở rộng thị trường có hiệu quả.

Giống lúa ở Thái lan
Thái Lan xuất khẩu gạo đi khắp thế giới chỉ bằng hai giống lúa là Khao-
đắc- mali và Jasmin. Các nhà khoa học Thái Lan chỉ tập trung nghiên cứu, cải
tiến hai giống này để có chất lượng gạo tốt nhất. Do vậy, gạo xuất khẩu của họ
giá luôn ở mức cao.
Trong khi đó, các nhà khoa học Việt Nam có rất nhiều đề tài, hàng chục
bộ giống ra đời nhưng không giống nào đạt tầm quốc gia. Những năm gần đây,
chúng ta chủ yếu đi khai thác công nghệ. Tiến hành nghiên cứu thì giống lúa
của Việt Nam không ra được đồng ruộng trên diện rộng. Nguyên nhân do chúng
ta sai ngay từ cách đặt đề tài, rồi đến cách tổ chức thực hiện.
Gần đây, Một giống lúa giàu chắt sắt đã được nghiên cứu thành công ở
Thái Lan, có hàm lượng sắt cực cao so với các giống lúa thường. Các nhà khoa
Trang 25

×