TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – MARKETING
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH
MẶT HÀNG GIÀY DÉP VIỆT NAM
XUẤT KHẨU SANG CHILE
Giáo viên hướng dẫn: Th.S QUÁCH THỊ BỬU CHÂU
Nhóm sinh viên: NGUYỄN XUÂN KIM LONG
ĐÀO ANH THY
TRẦN HẠNH CHƯƠNG
NGUYỄN THỊ THUỲ AN
Lớp: Ngoại Thương 2 – K32
TP HCM: 10 – 2008
1
MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu.....................................................................................3
I. Tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam................................4
II. Tình hình nhập khẩu giày dép ở Chile..................................5
III. Yếu tố cạnh tranh của giày dép Việt Nam..........................8
IV. Cầu về mặt hàng giày dép ở Chile......................................14
V. Các ngành công nghiệp hỗ trợ..............................................18
VI. Tổ chức, chiến lược công ty và sự cạnh tranh...................21
Lời kết...........................................................................................26
Tài liệu tham khảo.......................................................................27
2
Lời mở đầu
Hội nhập vào thế giới là xu hướng tất yếu của một quốc gia. Hội nhập luôn
mang lại những cơ hội phát triển cùng với những thách thức, khó khăn cho một
quốc gia. Và đối với các ngành công nghiệp, các công ty trong quốc gia đó cũng
không ngoại lệ. Các công ty, các nhà doanh nghiệp trong nước ngoài việc được
hưởng các cơ hội do xu thế toàn cầu hoá mang lại như: công nghệ, kĩ thuật tiên
tiến, học hỏi kinh nghiệm quản lý của thế giới … thì còn có những thách thức,
những sự cạnh tranh gay gắt đến từ các công ty nước ngoài. Vì vậy, mà các công
ty trong nước hiện nay đang đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu ra nước ngoài, tăng
trưởng thị phần, một mặt là để bảo vệ họ tránh khỏi những rủi ro và sự không ổn
định của chu kỳ kinh doanh nội địa, mặt khác là để đói phó với sự gia tăng cạnh
tranh trên thế giới. Với mục tiêu trên, hiện nay, các ngành công nghiêp ở Việt
Nam đang gia tăng xuất khẩu và đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là các ngành công
nghiệp chủ lực: da-giày, dệt may… Giá trị xuất khẩu mặt hàng giày, dép ở Việt
Nam trong những năm gần đây luôn dẫn đầu trong bảng giá trị xuất khẩu. Và thị
trường nhập khẩu là những quốc gia ở Nam Mỹ, đặc biệt là thị trường Chile được
các nhà chuyên môn đánh giá là thị trường tiềm năng với quan hệ tốt đẹp của
chính phủ hai bên.
3
I. Tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam:
Mục tiêu tới năm 2010 của ngành da giày Việt Nam là sản xuất 720 triệu
đôi giày dép các loại; 80,7 triệu chiếc cặp túi xách và 80 triệu m2 da thuộc thành
phẩm, nâng tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành lên tới 6,5 tỷ USD.
Ngành công nghiệp da giày Việt Nam là một trong những ngành công nghiệp có
lợi thế xuất khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của hàng hoá
Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam là nước đứng thứ thứ 4 thế giới về xuất khẩu da
giày sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy.
Năm 1992, ngành da giày đã xuất khẩu được 5 triệu USD và liên tục tăng
trưởng. Năm 2002, kim ngạch xuất khẩu da giày sau 10 năm đã tăng 369,2 lần,
đạt tốc độ tăng trửơng cao nhất so với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực khác. Từ
năm 2004 đến nay, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu da giày đứng thứ 4 thế
giới sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italy.
Năm 2006, trước tình hình sản xuất kinh doanh có nhiều biến động do ảnh
hưởng của các vụ kiện bán phá giá các loại giày mũ da xuất khẩu vào thị trường
các nước châu Âu (EU) nhưng ngành da giày vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao, mở
rộng được thị trường… Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương, năm 2006,
kim ngạch xuất khẩu da giày cả nước đạt khoảng 3,56 tỷ USD, tăng 16,9% so với
năm 2005, đã vượt 6,1% so với kế hoạch (3,35 tỷ USD). Trong số các thị trường
xuất khẩu thì EU là thị trường xuất khẩu lớn nhất của ngành da giày Việt Nam bởi
khối lượng tiêu dùng cao và đây là vùng khí có khí hậu hàn đới, thời tiết quanh
năm lạnh nên nhu cầu về da giày rất lớn. Hàng năm, 90% sản phẩm do ngành sản
xuất được xuất khẩu sang các thị trường quốc tế, trong đó EU chiếm 70% thị
phần, Mỹ 20% thị phần, Nhật Bản 3% thị phần, Việt Nam là nước đứng thứ 3 sau
Trung Quốc và Inđônêxia về xuất khẩu giày dép vào EU.
Hiện nay, Mỹ là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của ngành da giày Việt
Nam, chỉ tính riêng năm 2006, kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam sang
Mỹ đạt 802 triệu USD, tăng 31% so với 2005, chiếm 22% kim ngạch xuất khẩu
của toàn ngành. Theo số liệu thống kê của Bộ Công thương kim ngạch xuất khẩu
giày dép của Inđônêxia vào thị trường Hoa Kỳ năm 2004 giảm 13,5% so với năm
4
2003 và 32,2% so với năm 2002; kim ngạch xuất khẩu giày dép cuả Thái Lan vào
thị trường Mỹ chỉ đạt 292 triệu USD, giảm so với 315 triệu USD năm 2001. Với
thực tế trên, đây sẽ là cơ hội lớn cho các doanh nghiệp sản xuất giày dép của Việt
Nam phát triển mạnh trong thời gian tới.
Tuy là một ngành có tốc độ tăng trưởng cao, đứng thứ 3 về kim ngạch xuất
khẩu, chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nhưng hiện tại,
ngành da giày cũng đang gặp nhiều khó khăn trong quá trình phát triển. Đặc biệt
là mức thuế bán phá giá 10% mà EU đánh vào giày dép Việt Nam đã khiến các
doanh nghiệp da giày bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vì vậy, các doanh nghiệp da
giày Việt Nam cần rút kinh nghiệm sâu sắc từ vụ kiện bán phá giá, nâng cao hơn
nữa tinh thần đoàn kết và tăng cường học hỏi. Ngoài ra, các doanh nghiệp luôn
phải trang bị cho mình kiến thức để hiểu biết luật lệ, hoàn chỉnh hệ thống sổ sách
kế toán theo thông lệ quốc tế, không để phía nước ngoài tạo cớ ép giá, ảnh hưởng
đến giá trị của các sản phẩm xuất khẩu.
Việt Nam đã tham gia vào Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), ngành da
giày cũng cần đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đổi mới thiết bị và công nghệ để
thu hút khách hàng. Đây sẽ là điểm tựa vững chắc và quan trọng để đứng vững
trên trường quốc tế. Một trong những điểm yếu tồn tại từ rất lâu của ngành là bị
động về nguồn nguyên liệu. Nguyên phụ liệu phần lớn đều phải nhập khẩu từ
nước ngoài với giá thành cao nên ảnh hưởng đến giá trị gia tăng trong kim ngạch
xuất khẩu của ngành. Tuy kim ngạch xuất khẩu của ngành rất cao nhưng hiệu quả
kinh tế thấp, giá trị gia tăng chỉ đạt 25%.
II. Tình hình nhập khẩu giày dép ở Chile:
Theo ông Pedro Berenstein, người đứmg đầu của Feddeccal (Hiệp hội giày
da Chile), trong 2006 đã có hơn 60,5 triệu đôi giày được nhập khẩu vào Chile bởi
hơn 1300 công ty nội địa. Trong khi đó thì nguồn cung ứng trong nước với
khoảng 23 nhà máy mà 80% tập trung tại thủ đô Santiago chỉ sản xuất được 11
triệu đôi/năm. Vì vậy nguồn cung cấp giày dép ở Chile vẫn phụ thuộc vào nhập
khẩu là chủ yếu.
5
Theo nghiên cứu về thị trường giày dép Chile thì Cơ quan Phát triển Ngoại
thương Malaysia (MATRADE) năm 2006 thì tình hình nhập khẩu giày dép tại
Chile như sau:
Trong năm 2006, Chile đã nhập khẩu lượng giày dép có tổng giá trị là
373,7 triệu Đôla Mỹ, tăng 22,3% so với năm 2005 là 305,6 triệu Đôla Mỹ.
Các nhà cung cấp giày dép cho Chile hầu hết là từ các quốc gia Châu Á mà
điển hình là Trung Quốc, Việt Nam, Đài Loan, Indonesia, Thái Lan và Hồng
Kông. Trong đó, quốc gia xuất khẩu giày dép sang Chile lớn nhất là Trung Quốc
với thị phần chiếm đến 60% trong năm 2006, một con số áp đảo hoàn toàn so với
các đối thủ cạnh tranh khác. Mặc dù Chile chỉ mới ký kết Hiệp định thương mại
tự do (FTA) với Trung Quốc vào năm 2005, nhưng trong 10 năm trở lại đây,
Trung Quốc đã tăng thị phần của mình lên 50%. Thế mạnh là những đôi giày bình
dân với giá dao động từ 4 – 5 Đôla Mỹ/đôi.
Đứng thứ hai sau Trung Quốc về thị phần là Brazil với những nhãn hiệu
như Azaleia và Via Uno. Và với một ngành công nghiệp mạnh mẽ hiện nay,
Brazil vẫn được kỳ vọng là một trong những nhà cung cấp giày dép chính cho thị
trường Chile.
Và trong số đó không thể bỏ qua Việt Nam. Với việc gia tăng giá trị xuất
khẩu thêm 48,4%, Việt Nam đã đạt một kỷ lục về tăng trưởng thị phần tại Chile:
29,7 triệu Đôla Mỹ năm 2006 so với 20 triệu Đôla Mỹ năm 2005.
Malaysia cũng có những bước thăng hạng vượt bậc khi từ hàng thứ 23
vươn lên hàng thứ 20 trong danh sách các nhà cung cấp giày dép chính sang
Chile. Giá trị xuất khẩu tăng 33,1% đạt 0,41 triệu Đôla Mỹ. Đặc điểm của giày
dép từ Malaysia là hầu như đa số sản phẩm đều mang những thương hiệu nổi
tiếng trên thế giới như Nike và Puma.
Qua trên, ta có thể thấy Chile là một thị trường tiêu thụ giày dép rất năng
động, có nhiều nguồn cung ứng sản phẩm với rất nhiều chủng loại, nhãn hiệu và
giá cả. Vì vậy sự cạnh tranh sẽ rất gay gắt. Và đề thâm nhập cũng như mở rộng
thị phần tại thị trường này, các quốc gia, doanh nghiệp cũng cần phải có một kế
hoạch, chiến lược cụ thể thích hợp như việc nghiên cứu nhu cầu thị hiếu người
6
tiêu dùng, ký kết các thoả thuận hợp tác, tìm hiểu về đối thủ cạnh tranh, các chính
sách hỗ trợ…
Giày dép xuất khẩu vào Chile từ các quốc gia
Nguồn: Lexis Nexis theo nghiên cứu của MATRADE năm 2006
Nhìn chung xuất khẩu giày dép đóng một vai trò quan trọng trong lĩnh vực xuất
khẩu của Việt Nam, đem lại một nguồn ngoại tệ to lớn cho quốc gia. Như đã đề
cập ở trên, sau 10 năm từ năm 1992, kim ngạch xuất khầu giày dép Việt Nam đã
tăng 369,2 lần, đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất so với các ngành khác. Đó là một
thành tựu đáng khích lệ của ngành da giày Việt Nam. Và trong thời kì hội nhập
kinh tế mạnh mẽ, áp lực cạnh tranh từ các đối thủ trên các thị trường lớn ngày
càng tăng lên. Vì thế nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển đa dạng thị
trường xuất khẩu là yêu cầu thiết yếu trong tương lai. Và Chile là một điểm dừng
chân hấp dẫn cho Việt Nam. Trong những năm qua, như chúng ta đã thấy mặc
hàng giày dép luôn là mặc hàng có giá trị xuất khẩu cao nhất vào Chile, kim ngạch
xuất khẩu của giày dép Việt Nam vào thị trường này tăng liên tục. Năm 2006
Chile là thị trường đứng thứ 5 nhập khẩu giày dép từ Việt Nam. Mối quan hệ giữa
hai nước ngày càng tốt đẹp tạo điều kiện thuận lợi cho hai nước đẩy mạnh hoạt
7
Hạng Quốc gia
2006
US$ CIF
Tăng
trưởng
Thị
phần
2005
US$ CIF
Thị
phần
1 TRUNG QUỐC 252,595,506 26.53% 67.59% 199,638,033 65.32%
2 BRASIL 36,943,137 1.86% 9.89% 36,268,778 11.87%
3 VIỆT NAM 29,671,946 48.39% 7.94% 19,995,901 6.54%
4 ARGENTINA 13,976,560 23.11% 3.74% 11,352,858 3.71%
5 INDONESIA 9,324,331 -4.44% 2.49% 9,757,351 3.19%
6 ĐÀI LOAN 5,314,158 20.64% 1.42% 4,405,019 1.44%
7 HONG-KONG 4,342,548 7.39% 1.16% 4,043,782 1.32%
8 THÁI LAN 3,313,526 10.63% 0.89% 2,995,202 0.98%
9 TÂY BAN NHA 2,546,939 14.88% 0.68% 2,217,117 0.73%
10 Ý 1,908,907 3.59% 0.51% 1,842,716 0.60%
20 MALAYSIA 411,350 33.10% 0.11% 309,051 0.10%
Tổng
373,724,28
3
22.29
%
100.00
%
305,613,38
1
100.00%
động kinh tế, và Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường
đầy tiềm năng này.
III. Các yếu tố cạnh tranh của giày dép Việt Nam:
A. Yếu tố cơ bản:
1. Lao động:
1.1 Nguồn cung lao động:
Đặc điểm nguồn nhân lực Việt Nam:
Nguồn nhân lực Việt Nam, gồm những người nằm trong độ tuổi lao động:
Nam từ 15 – 60; nữ từ 15 – 55 tuổi đã được Bộ Luật Lao động quy định, có 42
triệu người, trong đó, thành thị 10 triệu người, nông thôn 32 triệu người.
Cơ cấu nguồn nhân lực:
Nhóm trẻ, từ 15 – 34 tuổi chiếm hơn 50%; nhóm người ở độ tuổi trung
niên từ 35 – 54 tuổi chiếm hơn 42%. Số nhân lực cao tuổi chiếm khoảng 7%.
Nguồn nhân lực trẻ gắn với những điểm mạnh như sức khỏe tốt, năng động, dễ
tiếp thu cái mới, nắm bắt công nghệ nhanh, di chuyển dễ dàng. Nếu được học văn
hóa, đào tạo nghề, họ sẽ phát huy tác dụng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế.
Mỗi năm cả nước có trên dưới 200.000 sinh viên các trường đại học và cao
đẳng ra trường, đây là nguồn cung cấp nhân lực có chất xám dồi dào cho xã hội,
trong đó, có doanh nghiệp.
Lực lượng lao động Việt Nam được giáo dục tốt và có tinh thần làm việc
tích cực. Độ tuổi trung bình của công nhân là 24 và ngày càng có nhiều người
trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc bằng tiếng Anh như ngôn ngữ thứ
hai, phần lớn là nhờ sự xuất hiện của nhiều trung tâm tiếng Anh.
Những năm vừa qua, thị trường lao động ở nước ta đã hình thành và đang
phát triển, lực lượng lao động khá dồi dào, thể hiện trên các mặt.
Về cung cấp lao động cho sự phát triển thị trường trong nước và quốc tế,
đến năm 2005, tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên chiếm 53,4% dân số (trên 44 triệu
người); chất lượng cung lao động ngày càng cao, lao động qua đào tạo chiếm
25%, trong đó 19% qua đào tạo nghề.
8
Về cầu lao động, lực lượng lao động có việc làm năm 2005 là 43,46 triệu
người, chiếm 97,9%, tỷ lệ tăng trưởng việc làm là 2,67%; cơ cấu việc làm tiếp tục
có sự chuyển dịch tích cực, lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp chiếm
56, 79%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 17,88%, và khu vực dịch vụ
chiếm 25,33%. Tỷ lệ thất nghiệp chung của cả nước là 2,09%, riêng khu vực
thành thị là 5,31%.
1.2 Chi phí lao động:
Đối với doanh nghiệp trong nước:
Nhà nước quy định mức lương tối thiểu theo ba vùng:
Vùng 1: Mức 620.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên
địa bàn các quận thuộc thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Vùng 2: Mức 580.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên
địa bàn các huyện thuộc thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; các quận
thuộc thành phố Hải Phòng, thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh, thành
phố Biên Hoà, thị xã Long Khánh, các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu
và Trảng Bom thuộc tỉnh Đồng Nai; thị xã Thủ Dầu Một, các huyện Thuận An, Dĩ
An, Bến Cát và Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương và thành phố Vũng Tàu thuộc
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Vùng 3: Mức 540.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên
các địa bàn còn lại.
Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài FDI:
Nhà nước cũng quy định địa bàn khu vực theo 3 vùng như đối với doanh
nghiệp trong nước, nhưng mức lương tối thiểu cụ thể mỗi vùng là:
Vùng 1: Mức 1.000.000 đồng/tháng;
Vùng 2: Mức 900.000 đồng/tháng;
Vùng 3: Mức 800.000 đồng/tháng.
Điều tra của JETRO cho thấy, chi phí đầu tư ở Việt Nam thấp chủ yếu do
lương trả cho nhân công thuộc loại thấp nhất khu vực. Theo nhận định, đây chính
là điều hấp dẫn nhất đối với các nhà đầu tư khi có ý định đầu tư vào Việt Nam.
Ví dụ:
9
Tại Nhà máy Nghi Sơn (Thanh Hoá),. Tổng quỹ lương của 20 người Nhật
làm việc trong Nhà máy này bằng tổng quỹ lương của gần 2.000 người Việt Nam
làm việc ở đây. Còn ở một số dịch vụ khác như: ngân hàng, y tế... có tới 40% tổng
số lao động có thu nhập từ 14.000 USD/năm trở lên thuộc người nước ngoài
Chi phí thấp là một vũ khí cạnh tranh đầy mãnh lực. Doanh nghiệp Việt
Nam, với lợi thế có nguồn lao động dồi dào, đơn giá rẻ, có thể sản xuất ra các sản
phẩm/dịch vụ để tiêu thụ với giá cả mang tính cạnh tranh cao.
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2007,
toàn ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh
vực nguyên phụ liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng
nghề có thể lên tới hơn 1 triệu lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công
nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh với mức chi phí nhân công thấp.
Tuy nhiên, chi phí thấp (như chi phí lao động) mới chỉ là sự khởi đầu của
khả năng cạnh tranh Để tăng năng lực cạnh tranh, trong thời gian tới, các Doanh
nghiệp da giày Việt Nam cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển các sản
phẩm có chất lượng cao, có thương hiệu. Các Doanh nghiệp trong nước cần thoát
khỏi sự bị động về thiết kế mẫu mốt, đổi mới công nghệ sản xuất giày và tổ chức
lại sản xuất, tạo thế mạnh thực sự trong khâu công nghệ.
Trên thực tế, những năm qua, một số doanh nghiệp da giày trong nước đã chủ
động nâng cao năng lực cạnh tranh bằng việc đầu tư đổi mới công nghệ, đào tạo
nguồn nhân lực, xây dựng thương hiệu, mở rộng thị trường xuất khẩu song song
với đẩy mạnh tiêu thụ nội địa.
B. Yếu tố tăng cường:
1. Đầu tư cho máy móc thiết bị:
Theo Hiệp hội Da giày Việt Nam (Lefaso), các doanh nghiệp ngành da
giày đã đổ dồn đầu tư vào thiết bị, công nghệ và nhà xưởng nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh, với tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 2001 - 2006 đạt trên 6.500 tỷ
đồng. cải tạo và xây mới trên 2 triệu m2 nhà xưởng, với tổng vốn đầu tư lên đến
3.423 tỷ đồng.
10