Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.24 KB, 20 trang )

CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay
Đổi Phúc Lợi-PHẦN4
3.3 Tác động của Dự án khi Giá Thay đổi: Biến động Bù đắp
và Biến động Tương đương
Thường thì các đầu vào (input) và đầu ra (output) của dự án
được mua bán trao đổi trên thị trường. Điều này có nghĩa là cơ
quan thực thi dự án mua đầu vào và phân phối đầu ra thông qua
các thị trường. Hay một chương trình có thể buộc các cá thể tư
phải mua bán trong các thị trường. Điều này có thể tạo ra thay đổi
giá cả nhất là nếu dự án có quy mô tương đối lớn so với kích cỡ
của thị trường. Thay đổi trong tiêu dùng do dự án tạo ra có thể là
kết quả của thay đổi giá cả hơn là của việc phân bổ trực tiếp đầu
vào hay đầu ra.
Có thể lấy ví dụ từ một số dự án. Êtanol, một chất thay thế cho
xăng được làm từ ngô. Chất này được một số dự án của chính
phủ sản xuất và bán trên các thị trường xăng dầu thông thường.
Sản phẩm điện do các dự án thuỷ điện liên bang làm ra được bán
trên các thị trường điện vùng. Nếu đầu ra của các dự án này có
số lượng đủ lớn so với kích cỡ các thị trường tương ứng thì
chúng sẽ tạo ra thay đổi giá cả. Việc sản xuất và bán chất êtanol
có thể làm giảm giá chất đốt và tăng tiêu dùng. Việc bán điện sản
xuất từ các đập do bang tài trợ sẽ giảm giá điện và trong trường
hợp này cũng vậy khiến tiêu dùng tăng. Các mức giá thấp hơn sẽ
đem lại lợi ích cho người tiêu dùng những loại hàng hoá này vì
tiết kiệm chi phí từ mỗi đơn vị mà họ đáng lẽ ra họ đã phải trả
thêm khi mua sản phẩm và bởi giá trị mà họ gắn cho mỗi đơn vị
gia tăng mà họ tiêu dùng. Hoặc một điều luật bắt đội mũ bảo hiểm
có thể tăng nhu cầu đối với mũ bảo hiểm một cách đáng kể đủ để
tăng giá mũ bảo hiểm. Giá tăng sẽ gây thiệt hại cho người sử
dụng mũ bảo hiểm.
Giá trị của một thay đổi giá cả đối với người tiêu dùng bằng với


giá trị độ sẵn sàng chi trả (WTP) cho thay đổi giá cả đó (dù là để
tạo ra một sự giảm giá hay tránh sự lên giá) hay giá trị độ sẵn
sàng chấp nhận (WTA) để đổi lại thay đổi giá cả (bù đắp cho một
sự giảm giá không xảy ra hay một sự tăng giá đã xảy ra). Chúng
ta có thể có được những hiểu biết sâu sắc về những khái niệm
này bằng cách phân tích đường bàng quan (indifference curve).
Trước hết, xét lợi ích mà một người tiêu dùng thu được từ một sự
giảm giá. Nỗ lực ban đầu trong việc xác định giá trị của thay đổi
giá cả sẽ chỉ đơn giản là nhân thay đổi giá với số lượng hàng hoá
tiêu thụ. Tuy nhiên, việc này sẽ bỏ qua thực tế là có thể lượng
tiêu dùng đối với loại hàng này hay loại hàng khác sẽ gia tăng.
Nếu mức giá ban đầu của một loại hàng hoá là $20/đơn vị và một
người tiêu dùng tiêu biểu mua 100 đơn vị thì giá trị của việc giảm
giá xuống mức $18/đơn vị có thể được xác định ở mức $200.
Song giá trị này có thể là tương đối có thể làm cho chính xác
hơn. Cách xác định giá trị này không tính đến giá trị của bất kỳ
một tiêu dùng bổ sung nào mà việc giảm giá có thể tạo ra.
Việc xác định giá trị chuẩn xác đối với một thay đổi giá cả kiểu
như vậy được thực hiện thông qua phân tích các đường bàng
quan. Để đạt được những mục đích mà ví dụ này đặt ra, hãy hình
dung rằng một dự án của chính phủ sẽ khiến cho giá rượu giảm.
Giá giảm và thay đổi trong mức tiêu dùng sản phẩm rượu và các
hàng hoá khác được thể hiện trong hình vẽ dưới đây.
Hình W-3

Giảm giá rượu xoay đường ngân sách từ MM sang MM?. Điều
này dẫn đến việc người tiêu dùng di chuyển từ điểm A đến điểm
B, tiêu dùng nhiều rượu hơn và ít các loại hàng hoá khác hơn.
Có hai phương thức xác định sự thay đổi giá cả này: thay đổi
tương đương (equivalent variation) và thay đổi bù đắp

(compensating variation). Mỗi cách tiếp cận xem xét giá trị của
thay đổi giá mặt hàng rượu tính theo đơn vị của các mặt hàng
khác. Điểm khác biệt giữa hai cách tiếp cận là thay đổi bù đắp sử
dụng các mức giá trước khi chương trình có tác động trong khi
thay đổi tương đương lại sử dụng các mức giá sau khi chương
trình có tác động.
Để đơn giản hoá phân tích này hãy giả định rằng các loại Mặt
hàng Khác có giá trị được xác định ở mức $1/đơn vị. Khi đó, một
đơn vị Hàng hoá Khác tương đương với $1 chi cho Hàng hoá
Khác.
Biến đổi tương đương là độ sẵn sàng mà người tiêu dùng chấp
nhận để đổi lại việc dự đoán trước được việc giảm giá rượu. Có
nghĩa là đây là số lượng tính theo đơn vị các hàng hoá khác mà
người tiêu dùng đáng lẽ ra nhận được để đạt được mức giàu có
khi không có thay đổi giá cả ngang bằng với mức giàu có khi giá
cả thay đổi. Vì thế, các mức giá dùng để tính toán giá trị này là
các mức giá trước dự án. Như mô tả trong hình dưới đây, giảm
giá rượu dịch chuyển đường bàng quan I0 sang vị trí I1. Giá trị
gắn cho việc dịch chuyển này tính theo hàng hoá khác tại tỷ lệ giá
ban đầu là N-M. Đây là biến đổi tương đương. (TQ hiệu đính:
biến đổi tương đương (equivalent variation) giống với ?ảnh
hưởng thu nhập? (income effect) trong kinh tế Vi Mô
(microeconomics), nghĩa là, phải tăng thu nhập của họ lên bao
nhiêu để họ được có 1 sự tiêu dùng (consumption) tương
đương).
Hình W-4

Biến đổi bù đắp là độ sẵn sàng chi tiêu của người tiêu dùng khi
giá rượu giảm. Đây là lượng tối đa mà người tiêu dùng mong
muốn chi để khiến cho giá cả thay đổi. Các mức giá dùng để tính

toán giá trị này là những mức giá có hiệu lực sau dự án. Như
được mô tả dưới đây, giảm giá rượu dịch chuyển người tiêu dùng
từ đường bàng quan I0 sang đường bàng quan I1. Giá trị gắn cho
dịch chuyển này tính theo đơn vị các hàng hoá khác tại tỷ lệ giá
sau dự án là M-O. Đây là biến đổi bù đắp. (TQ hiệu đính: tương
tự, biến đổi bù đắp (compensating variation) cũng giống như sự
phân tích ?ảnh hưởng thay thế? (substitution effect) trong Kinh
Tế Vi Mô (Microeconomics).)
Hình W-5

Các biến đổi bù đắp và tương đương có thể được gán cho ý
nghĩa thông thường hơn. Theo thuật ngữ CBA cách nghĩ về vấn
đề này là nhận ra rằng xuất phát điểm trong cách tiếp cận biến
đổi bù đắp là hiện trạng. Xuất phát điểm trong cách biến đổi
tương đương là vị trí mới tiềm năng.
Xét một dự án tạo ra tác động làm giảm giá rượu. Biến đổi bù đắp
giả định rằng người tiêu dùng không có quyền được hưởng lợi
ích đem lại từ việc giảm giá. Họ phải trả một cái giá nào đó để đổi
lại sự giảm giá này. Biến đổi tương đương giả định rằng người
tiêu dùng có quyền được hưởng lợi ích đem lại từ việc giảm giá
và phải được đền bù một cái giá nhất định để từ bỏ quyền này.
Đối với mỗi cái lợi thu được từ hiện trạng (như giảm giá rượu) thì
độ sẵn sàng chi trả WTP là thước đo biến đổi bù đắp của lợi ích
phúc lợi xã hội trong khi độ sẵn sàng chấp nhận WTA là biến đổi
tương đương. Biến đổi bù đắp là thước đo thường được sử dụng
trong CBA.
Bây giờ, xét một dự án khiến cho giá rượu tăng lên. Biến đổi bù
đắp giả định rằng người tiêu dùng có quyền đối với hiện trạng,
tức là mức giá rượu thấp và phải được đền bù khi giá rượu tăng.
Mức bù đắp cần phải có là WTA. Biến đổi tương đương giả định

rằng người tiêu dùng không có quyền với hiện trạng cũng không
có quyền cản trở việc tăng giá. Nhằm ngăn cản việc tăng giá,
người tiêu dùng sẽ sẵn sàng trả một lượng lớn hơn WTP. Đối với
việc mất đi hiện trạng (như kết cục của việc tăng giá rượu) WTA
là thước đo bù đắp của cái mất.
Tóm lại, biến đổi bù đắp thường được sử dụng trong CBA. Trong
trường hợp được hưởng lợi, đó là WTP. Trong trường hợp chịu
mất mát, đó là WTA. Bởi vậy, trong phân tích CBA, nhìn chung đó
là trường hợp mà lãi hay lợi ích được định giá bằng việc sử dụng
WTP và lỗ hay chi phí được định giá bằng cách sử dụng WTA.
Cả hai cách này đều nhất quán với cách sử dụng biến đổi bù đắp.
Những ý tưởng này được tóm tắt trong Bảng W-1. Nếu một dự án
khiến cho giá hàng hoá tăng, người tiêu dùng loại hàng hoá đó
phải chịu thiệt thòi. Nếu bạn giả định rằng những người tiêu dùng
này có quyền đối với mức giá thấp hơn (trước dự án) thì mất mát
mà người tiêu dùng phải chịu phải được xác định bằng cách sử
dụng WTA. Nếu một dự án khiến cho giá của một loại hàng hoá
giảm xuống thì người tiêu dùng sẽ được lợi. Nếu bạn giả định
rằng người tiêu dùng không có quyền với mức giá thấp hơn (sau
dự án) thì khoản lợi này phải được định giá theo WTP. Cách
dùng WTP để tính lợi ích và WTA để tính thiệt hại một cách đúng
đắn được thể hiện trong Bảng W-2. Cần lưu ý rằng việc sử dụng
biến đổi bù đắp là một phương pháp bảo thủ vì nó bao gồm giá trị
thấp hơn đối với lợi ích của dự án và giá trị cao hơn cho chi phí
dự án.
Bảng W-1

Giá tăng, Người tiêu
dùng bị thiệt
Giá giảm, Người tiêu

dùng được lợi
Người tiêu dùng
có quyền sở hữu
WTA, biến đổi bù
đắp, giá trị cao hơn
WTA, biến đổi tương
đương, giá trị cao
hơn
Người tiêu dùng
không có quyền
sở hữu
WTP, biến đổi tương
đương, giá trị thấp
hơn
WTP, biến đổi bù
đắp, giá trị thấp hơn
Bảng W-2
Lợi ích thu được từ Hiện
trạng
WTP (Biến đổi Bù đắp) Giá trị Thấp
hơn
Mất do giữ nguyên Hiện
trạng
WTA (Biến đổi Bù đắp) Giá trị Cao
hơn
Lợi ích ròng WTP-WTA
Bởi vậy, cơ sở để phân biệt giữa Biến đổi Tương đương và Biến
đổi Bù đắp là quyền sở hữu hay là khái niệm pháp lý về quyền
lợi. Nhận thức được điều này cũng có nghĩa là thừa nhận quy tắc
cho rằng phân tích CBA không độc lập đối với luật pháp. Vì các

việc định giá không thể tiến hành độc lập với quyền sở hữu nên
phải xét đến quyền sở hữu trong phân tích CBA dự án. Xét một ví
dụ cực đoan. Coi việc ăn cắp một chiếc xe đạp chỉ là một sự
chuyển đổi chiếc xe từ người này sang người khác. Tuy nhiên,
quyền pháp lý gắn cho chiếc xe đạp đó một giá trị dương nếu nó
ở trong tay chủ nhân hợp pháp, một giá trị bằng 0 nếu ở trong tay
tên trộm. Việc này dẫn đến một kết luận rất đúng rằng tên trộm
làm giảm phúc lợi xã hội và xã hội không mong muốn việc mất
cắp xảy ra.
Để áp dụng biến đổi tương đương và biến đổi bù đắp trong một ví
dụ, xét trường hợp điện được làm ra từ công trình xây đập thuỷ
điện do chính quyền liên bang tài trợ ở Mỹ. Thoạt đầu, tình thế
khi đập này mới được xây dựng có thể là một người cuối cùng sẽ
là người mua sản phẩm điện không có quyền hợp pháp vốn có
nào đối với việc mua điện. Khi đó, câu hỏi giá trị tương đương là,
?Người đó sẵn sàng chi trả gì để có được lượng điện sản xuất??
Đây chính là biến đổi bù đắp. Một khi đập được hoàn thiện và bắt
đầu phát điện, người tiêu dùng có thể được xem như là có một số
quyền đối với chiếc đập. Có lẽ, nó là kết quả của một tiền lệ. Nếu
một đề xuất bán điện cho cư dân nước ngoài được đưa ra thì
mức giá điện sẽ ngang với lượng bù đắp mà người tiêu dùng cần
có để ở mức độ giàu có ngang với khi không bán điện ra nước
ngoài. Tức là độ sẵn sàng chấp nhận của họ. Đây chính là biến
đổi tương đương.
Đối với mỗi cá nhân, cả Biến đổi Bù đắp lẫn Biến đổi Tương
đương đều được coi là những chỉ số thoả dụng chuẩn xác. Điều
này có nghĩa là hoặc Biến đổi Bù đắp hoặc Biến đổi Tương
đương (tuỳ thuộc vào phân chia quyền sở hữu) sẽ gọi ra các lựa
chọn chính xác cho từng cá nhân. Nếu Biến đổi Bù đắp của lợi
ích của một dự án là $100 và Biến đổi Bù đắp cho lợi ích của một

dự án khác là $150, thì dự án thứ hai sẽ được ưa thích hơn dự
án thứ nhất.
Bởi vậy, về lý thuyết thì giá trị đúng gắn cho một dự án có tác
động đối với tiêu dùng cá nhân thông qua biến đổi giá cả là tính
toán những biến đổi tương đương và/hay biến đổi bù đắp cho
mỗi loại hàng hoá và cho mỗi người chịu tác động của dự án.
Việc thực hiện những tính toán như vậy là một nhiệm vụ cực kỳ
khó khăn ngay cả khi đó chỉ là tính toán cho một cá nhân. Bởi
vậy, cuối cùng chúng ta sẽ bàn về những cách tiếp cận thực tế
hơn.
Bây giờ thì hãy chuyển từ cân nhắc các tác động của một dự án
dựa trên mức độ sung túc của một cá nhân cho đến tác động của
dự án lên của cải của một nhóm.
3.4 Phúc lợi Xã hội và Lợi ích ròng
Khi xét đến nhiều cá nhân thì tình huống sẽ trở nên hoàn toàn
khác biệt. Trong phần trước, chúng ta đã xét đến lợi ích và chi
phí của một người. Để đánh giá tác động của một dự án đối với
một nhóm người thì phải bằng cách nào đó kết hợp cái được, cái
mất của mỗi người trong một nhóm. Điều này có thể được thực
hiện bằng nhiều cách khác nhau.
Một cách để kết hợp lợi ích và chi phí của các cá nhân là tiêu
chuẩn Pareto (Pareto criterion). Tiêu chuẩn Pareto phát biểu rằng
nếu một dự án giúp cho ít nhất một người trở nên giàu có hơn và
không khiến cho ai trở nên nghèo khó hơn thì dự án đó là đáng
được mong đợi. Nếu một dự án khiến cho dù chỉ một người trở
nên khốn khó hơn thì dự án bị coi là không đáng được mong đợi.
Kết quả là tiêu chuẩn Pareto áp đặt sức nặng vô tận cho bất kỳ
một mất mát nào cho dù mất mát đó có nhỏ đến đâu đi chăng
nữa trong khi lại áp đặt một sức nặng có hạn cho bất kỳ một lợi
ích thu được nào. Hiếm có một dự án nào lại có thể giúp tất cả

những đối tượng bị tác động trở nên giàu có hơn hay ít nhất là
không khiến cho ai bị nghèo khó đi. Một dự án thoả mãn tiêu
chuẩn Pareto khi có lợi cho ít nhất một người trong khi không gây
hại cho bất kỳ người nào khác. Về mặt kinh tế mà nói, dự án này
là đáng được mong đợi. Tuy nhiên, tiêu chuẩn này là không thực
tế.
Thông thường, một dự án sẽ giúp một số người giàu có hơn
trong khi khiến một số người khác nghèo khó đi. Thách thức đặt
ra là hiển nhiên: làm cách nào để so sánh thay đổi phúc lợi giữa
những người này với nhau? Chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề này
bằng việc giả định rằng có thể cân đong đo đếm được độ thoả
dụng. Tiếp đó, chúng ta sẽ hướng tới một hướng đi thực tế hơn.

×