Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay Đổi Phúc Lợi pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.6 KB, 23 trang )

CHƯƠNG 3: Phân Tích các Thay Đổi
Phúc Lợi-PHẦN3
Phân tích CBA chủ yếu là tìm xem liệu một dự án có khiến cho
mọi người trở nên giàu có hơn hay không. Các dự án thay đổi tổ
hợp hàng hoá mà mọi người tiêu dùng, giảm bớt số lượng của
loại hàng này và tăng số lượng của một loại hàng khác. Trong khi
mục tiêu của chúng ta là phải đưa ra được những lời tuyên bố với
cả cộng đồng khẳng định xem cộng đồng đó có trở nên khá giả
hơn nhờ dự án hay không. Chúng ta phải bắt đầu phân tích ở cấp
độ mỗi cá nhân và hỏi xem liệu một dự án có làm cho một người
trở nên giàu có hơn hay không.
Chương này bắt đầu với một thảo luận lý thuyết về các thay đổi
trong độ thoả dụng cá nhân. Bằng cách nào mà một dự án có thể
khiến cho một cá nhân trở nên khá giả hơn hay nghèo khó hơn.
Làm cách nào để đo lường được giá trị của những thay đổi này.
Từ đó, chúng ta sẽ bàn xem cần phải làm gì để đánh giá các dự
án trong trường hợp có nhiều bên liên quan với điều kiện có
thông tin hoàn hảo về sở thích của mỗi cá nhân và các tác động
của dự án. Cuối cùng, chúng ta sẽ chuyển từ những ý tưởng có
vẻ như trừu tượng về độ thoả dụng và phúc lợi xã hội cá nhân
sang những cách tiếp cận thực tế hơn để quyết định xem liệu các
dự án có đáng được triển khai xét trên phương diện kinh tế hay
không.
Các khái niệm được thảo luận trong chương này tạo thành cơ sở
cho các kỹ thuật thực tế mô tả trong các chương VI và V. Quan
trọng hơn, các khái niệm này giúp bạn đọc có thể quyết định
được đâu là thời điểm thích hợp để áp dụng trực tiếp các kỹ thuật
thực tế hơn vào phân tích chi phí-lợi ích, lúc nào thì phân tích sẽ
mang lại những kết quả không chuẩn xác.
3.1 Phân tích các mức Thay đổi độ Thoả dụng Cá nhân
Một đánh giá CBA chính xác đối với một dự án phải được dựa


trên tác động của dự án đối với mọi người. Tuy nhiên, vì phúc lợi
của nhóm hay phúc lợi xã hội lại phụ thuộc vào độ thoả dụng cá
nhân nên thảo luận của chúng ta bắt đầu với các tác động của
một dự án đối với mỗi một cá nhân.
Các tác động thật của một dự án là những thay đổi trong tiêu
dùng mà nó tạo ra. Nếu một dự án tiêu dùng một loại hàng hoá
và sử dụng nó như một đầu vào của dự án thì lượng cung loại
hàng đó sẽ giảm. Nếu một dự án sản xuất ra một mặt hàng, tức
là đầu ra của dự án thì lượng cung mặt hàng đó sẽ tăng. Dù trong
trường hợp nào thì các quyết định tiêu dùng cá nhân cũng có khả
năng thay đổi do tác động của dự án. Chúng ta có thể phân tích
tác động của một dự án lên mỗi cá nhân bằng cách sử dụng các
đường bàng quan. Ví dụ như nếu một người tiêu thụ nhiều hơn
một mặt hàng và giữ nguyên một mặt hàng khác thì độ thoả dụng
của người đó sẽ tăng (đơn giản có nghĩa là người đó sẽ trở nên
giàu có hơn) do tác động của dự án. Mặt khác, nếu một người
tiêu thụ ít hơn một loại hàng hoá trong khi giữ nguyên lượng tiêu
thụ đối với các loại hàng hoá khác thì độ thoả dụng của anh ta sẽ
giảm. Trường hợp thường gặp là dưới tác động của dự án, một
người sẽ tiêu dùng nhiều hơn một số loại hàng hoá trong khi tiêu
dùng ít đi một số loại hàng hoá khác . Điều này khiến cho tác
động của dự án lên độ thoả dụng trở nên mơ hồ. Có nghĩa là một
dự án như vậy có thể tăng, giảm hay không thay đổi độ thoả dụng
của một người.
Trước hết, chúng ta sẽ xét tình huống mà một dự án không có tác
động lên giá thị trường. Tiếp đó, chúng ta sẽ chuyển sang tình
huống mà một dự án tác động đến giá cả hoặc của đầu vào hoặc
của đầu ra.
Hình WW-1 mô tả các tác động của một thay đổi trong mức tiêu
dùng lên độ thoả dụng cá nhân. Tăng lượng tiêu dùng mặt hàng

Y tạo ra di chuyển từ A đến B đẩy cá nhân lên đường bàng quan
cao hơn. Điều này là dấu hiệu cho thấy rằng họ đã trở nên giàu
có hơn. Mức tiêu dùng mặt hàng Y di chuyển từ A đến C, tức là
giảm đi khiến cho mỗi cá nhân trở nên nghèo hơn. Nếu một dự
án tăng lượng tiêu dùng của một mặt hàng và giảm lượng tiêu
dùng của một mặt hàng khác thì tác động lên độ thoả dụng hay
phúc lợi là mờ nhạt. Tăng lượng tiêu dùng mặt hàng X và giảm
lượng tiêu dùng mặt hàng Y có thể dẫn đến tình trạng một cá
nhân giàu có (dịch chuyển từ A đến E) hơn hay nghèo khó hơn
(dịch chuyển từ A đến D) tuỳ thuộc vào từng thay đổi cụ thể và thị
hiếu của mỗi cá nhân.
Hình W-1

Trong kinh tế, độ giàu có, độ thoả dụng được đánh giá theo thứ
tự nhiều hơn là đo lường chính xác bằng số lượng. Điều này có
nghĩa là không có giá trị số nào cho phép việc đo lường xem mức
độ một người giàu lên, nghèo đi là bao nhiêu do thay đổi trong
tiêu dùng. Điều duy nhất có thể nói được là liệu một người có trở
nên giàu có hơn (độ thoả dụng tăng) hay nghèo khó đi (độ thoả
dụng giảm) do tác động của một thay đổi trong tiêu dùng.
3.2 Các Tác động của Dự án khi Giá cả Không đổi
Xét một dự án tiêu dùng một số mặt hàng (đầu vào) và tạo ra một
số mặt hàng khác (đầu ra) mà không ảnh hưởng gì đến mức giá
thị trường. Điều này sẽ xảy ra nếu như dự án có quy mô đủ nhỏ
trong tương quan với thị trường để không gây ra một thay đổi nào
trong giá cả. Trong trường hợp đó, có thể sẽ là thích hợp khi chỉ
đơn giản xét tác động đối với tiêu dùng của một cá nhân với giả
định rằng mức giá không thay đổi. Những thay đổi trong mức tiêu
dùng sẽ ảnh hưởng đến sự giàu có hay độ thoả dụng. Giá trị của
một đồng đô la có thể gắn liền với thay đổi dựa trên thay đổi trong

giá trị của hàng hoá được tiêu dùng.
Ví dụ như hãy tưởng tượng rằng có một chương trình phân phối
phó mát thừa. Nếu phó mát được bán ở chợ với mức giá là
$4/pao và chương trình phân phát 5 pao phó mát cho một người
thì giá trị của lượng phó mát mà một người được nhận có thể là
$20[1] nếu như người nhận phó mát thờ ơ giữa việc nhận phó
mát và nhận một lượng tiền mặt tương ứng và chương trình
không gây ra thay đổi trong mức giá phó mát trong tương đối với
giá của các loại hàng hoá khác. Nói một cách khác, $20 có thể là
giá trị thích hợp cho lượng phó mát được phân phát nếu một
người sẽ tiêu dùng một lượng phó mát tương tự nếu họ được
cung cấp $20 tiền mặt. Đây là tình huống được mô tả ở Hình W-
2.
Hình W-2

Có thể có một số chương trình phân phối trực tiếp các mặt hàng
mà mọi người hoặc không tiêu dùng hoặc có tiêu dùng song là
những lượng rất nhỏ. Nếu người nhận không thể bán lại những gì
họ nhận được thì có thể không hợp lý khi định giá đầu ra của
chương trình theo mức giá thị trường. Đặc biệt hơn là trường hợp
dự án trao một lượng lớn hàng hoá cho mọi người. Trong trường
hợp này sẽ là thích hợp để định giá đầu ra của dự án theo mức
giá thị trường khi người hưởng lợi từ dự án dùng toàn bộ số tiền
được cấp phát để mua duy nhất mặt hàng đó nếu họ được cho
tiền thay vì cấp hàng.
Nói đến ví dụ trước, hãy tưởng tượng là thay vì được cung cấp 5
pao phó mát, một đối tượng tiếp nhận của chương trình được
phân phát 500 pao phó mát và vì nhiều lý do khác nhau người
này không thể bán lại lượng phó mát được phân phát. Giả định
rằng những người tiếp nhận sẽ không vì thế mà tiêu dùng được

ngần đó phó mát, giá trị chính xác của lợi ích này có thể ít hơn
giá trị tiền mặt tương ứng, tức là $2000.[2]
Một ví dụ khác là xét một dự án chung cư[3] cung cấp nhà ở
tương ứng với lượng nhà do tư nhân cung cấp trị giá
$1500/tháng. Có thể người ta sẽ muốn gắn giá trị $1500/tháng
cho các đơn vị nhà ở dự án cung cấp. Tuy nhiên, điều này chỉ
thích hợp nếu như cư dân khi được cho $1500 một tháng sẽ tiêu
tất cả khoản tiền đó vào nhà ở. Nếu một người chỉ chi một phần
trong khoản $1500 vào nhà ở thì giá trị đúng gắn cho nhà ở sẽ
nhỏ hơn. Mức độ nhỏ hơn bao nhiêu tuỳ thuộc vào một số giả
định kỹ thuật về các thị hiếu của cá nhân. Song chắc chắn là giá
trị đó sẽ nhỏ hơn $1500.
Một cách tiếp cận khác khá hữu hiệu trong việc xác định giá trị
của lợi ích. Đó là hình dung xem một người hưởng lợi có sẵn
sàng trả tiền để mua phó-mát hay không. Trong các ví dụ trên, thì
giá trị chính là số tiền mà người tiếp nhận sẵn sàng chi trả để có
được 5 pao phó-mát, 100 pao phó-mát hay một căn hộ có mức
giá thuê trên thị trường là $US 1500. Chính độ sẵn sàng để chi
trả (Willing To Pay ~ WTP) là giá trị của lợi ích dự án. Giả định
ngầm ở đây là người hưởng lợi không có quyền gì với lợi ích
trước dự án nên giá trị phải dựa trên các điều kiện trước dự án.
Hay có thể giả định rằng người hưởng lợi có quyền được hưởng
lợi ích trước dự án. Nếu dự án không được thực hiện, họ sẽ có
quyền được đền bù. Trong giả định này, giá trị của lợi ích là mức
đền bù cần thiết để độ thoả dụng tương đương với độ thoả dụng
mà dự án đem lại nếu nó được triển khai. Đó là độ sẵn sàng chấp
nhận (Willing To Accept ~ WTA), giá trị của lợi ích do dự án mang
lại. Giá trị này phải dựa trên các điều kiện có được sau dự án.
Nhìn chung, giá trị WTP của lợi ích sẽ ít hơn giá trị WTA. Tuy
nhiên, trong những tình huống mà các mức giá không đổi, giá trị

WTP của lợi ích sẽ giống và ngang với mức giá thị trường.
Ví dụ: Chung cư
Hãy tưởng tượng rằng một dự án chung cư sẽ cung cấp 100 căn
hộ cho một người. Để mọi thứ tương đối đơn giản, giả định rằng
một căn hộ được xác định là có mức giá thị trường là US $1. Tất
cả các hàng hoá khác (một tổ hợp của tất cả những thứ khác mà
một cá nhân tiêu dùng) đều được định giá ở mức tương tự US
$1/căn hộ.
Phải xác định giá trị của 100 căn hộ chung cư như thế nào?
Chỉ đơn thuần định giá một căn hộ ở mức $1/căn hộ (tức là tổng
giá trị cho tất cả các căn hộ là $100) có thể sai. Xét biểu đồ dưới
đây mô tả tác động của dự án nhà ở lên ngân sách của một
người. Việc cung cấp cho một người 100 đơn vị nhà khiến cho
đường ngân sách di chuyển ra bên ngoài, tăng lượng nhà tối đa
mà một cá nhân có thể tiêu dùng song lại không mấy ảnh hưởng
đến số lượng tối đa của các loại hàng hoá khác.
Nếu đường bàng quan (indifference curve) không tiếp tuyến với
phần dốc xuống của đường ngân sách (budget) tại một điểm thì
kết cục là người đó sẽ chọn tiêu dùng tại điểm góc (corner point)
của đường hạn chế ngân sách của họ.
Vấn đề là ở chỗ người đó sẽ nằm trên một đường bàng quan mà
với một lượng tiền mặt tài trợ ít hơn, người đó vẫn có thể giữ
được đường bàng quan như vậy.

Như được minh hoạ dưới đây, người đó có thể đạt được mức
thoả dụng tương tự với một khoản tiền tài trợ ít hơn, ví dụ như
$80 chẳng hạn. Lúc đó, giá trị chính xác gắn cho các đơn vị nhà
ở là $80.

Ví dụ: Chương trình Phân phát Muối

Một ví dụ cực đoan hơn. Hình dung rằng một tổ chức các nhà
sản xuất muối thuyết phục được các quan chức triển khai một
chương trình mua và phát cho mỗi công dân trong đất nước 1000
pao muối. Nếu muối có giá trị là $1/pao, thì một nhà phân tích
ngây thơ sẽ có xu hướng định giá lợi ích mà chương trình này
mang lại ở mức $1000/người. Tuy nhiên, phần lớn mọi người đều
sẽ gắn một giá trị thấp hơn mức $1000 rất nhiều cho lợi ích này.
(TQ hiệu đính: vì không có ai rồ đến nổi phải ăn 1000 pao hay
500 kilo muối cả. Số lượng muối 1 người cần dùng tất nhiên là ít
hơn 1000 pao rất nhiều. Phần dư thừa không có làm lợi cho
người không tiêu dùng.)

Việc chỉ ra điều kiện cần thiết cho phân tích này là một việc đáng
làm. Điều kiện đó là người tiếp nhận lợi ích không thể bán lại lợi
ích cho người khác (vì bất kỳ lý do gì). Nếu có thể bán được tất
cả các loại hàng hoá này với mức giá thị trường thì chương trình
sẽ có tác động tương tự như một chuyển nhượng tiền mặt vì bất
kỳ người nào nhận được một số lượng dư thừa có thể dễ dàng
chuyển đổi nó sang tiền mặt. Việc không thể chuyển đổi hàng hoá
sang tiền (và tiếp đó là sang các loại hàng hoá khác) giảm giá trị
của mặt hàng đó đến một độ nào đó.

Hình vẽ này mô tả quá trình định giá cho chương trình muối. Cho
một người 1000 đơn vị muối chỉ có giá trị thực là $500 nếu không
thể bán lại được số muối này. Tuy nhiên, nếu có thể bán lại muối
với mức giá thị trường là $1/pao thì chương trình đồng nghĩa với
việc cho người hưởng lợi $1000 tiền mặt. Kết cục là người
hưởng lợi dừng lại ở đường bàng quan cao hơn.
Phân tích các chi phí dự án cũng giống như phân tích các lợi ích
của dự án. Nếu các mức giá không bị ảnh hưởng bởi một dự án

thì các đầu vào phải được định giá theo mức giá thị trường. Chi
phí của đầu vào dự án là giá trị mà người tiêu dùng có thể gắn
cho đầu vào. Với tổng lượng đầu vào không đổi thì việc dự án
tiêu dùng bất kỳ một lượng đầu vào nào cũng nhất thiết khiến
người tiêu dùng cá thể giảm lượng tiêu dùng đầu vào đó. Giả
định rằng người tiêu dùng có xu hướng tối đa hoá độ thoả dụng,
giá trị cận biên trong điều kiện cân bằng phải ngang với mức giá
thị trường của đầu vào.
Ví dụ, nếu có một lượng lao động cố định được cung cấp trong
thị trường và dự án dùng 1000 giờ lao động thì các nhà tuyển
dụng tư trong vùng sẽ thấy mất đi một lượng lao động mà họ có
thể thuê là 1000 giờ lao động. Giá trị mà nhà tuyển dụng gắn cho
lượng lao động này là chi phí sử dụng lượng lao động đó trong
dự án.
Xét một ví dụ khác. Hãy hình dung rằng lượng điện có sẵn trong
một khu vực là một lượng cố định. Nếu dự án lấy đi một lượng
điện trong tổng số điện đó (có thể là sử dụng điện hay giảm khả
năng cung cấp điện) thì giá trị mà người tiêu dùng cá thể gắn cho
lượng điện này sẽ là chi phí của việc dùng điện trong dự án.
Nếu các thị trường vận hành tốt[4], các mức giá của đầu vào phải
là thước đo giá trị của đầu vào. Nếu quy mô của dự án là tương
đối nhỏ so với thị trường thì mức giá đầu vào có thể sẽ không
thay đổi khi có dự án.
Cũng như với lợi ích, giá cả là cách đo giá trị của đầu vào chuẩn
xác nhất song cũng phải xét dưới hai góc độ. Nếu như đầu vào
chỉ đơn giản chuyển từ tay một cá nhân sang dự án thì giả định
rằng sẽ là dự án có quyền sở hữu với đầu vào. Lúc đó, những
người vận hành dự án phải đưa ra một mức chào giá mà người
đó sẵn sàng chấp nhận đánh đổi để cho đầu vào của mình được
sử dụng trong dự án. Với những giả định này, giá trị gán cho đầu

vào là độ sẵn sàng chấp nhận của mỗi cá thể tư (WTA). Tầm
quan trọng của giả định là người hưởng lợi có quyền đối với đầu
vào trước khi tiến hành dự án. Bởi vậy, giá trị được dựa trên các
điều kiện tiền dự án.
Một tình huống khác, có thể giả định là cá thể tư không có quyền
định trước đối với các đơn vị đầu vào. Với giả định này, cá thể tư
có thể sẽ phải chi tiền để mua loại đầu vào đó. Sẽ có một khối
lượng tối đa nào đó mà cá thể này sẵn sàng trả tiền mua để có
được mức thoả dụng tương tự như khi không có cơ hội để mua.
Giá trị này là độ sẵn sàng chi trả của cá thể tư (WTP). Giả định
ngầm ẩn ở đây là người hưởng lợi không có quyền sở hữu đối
với đầu vào trước khi tiến hành dự án. Bởi vậy, giá trị được dựa
trên các điều kiện sau dự án.[5]
Như trước đây, trong khi thường thì đúng là giá trị WTP của một
đầu vào sẽ ít hơn giá trị WTA của đầu vào đó thì trong những
trường hợp mà giá cả không thay đổi, những giá trị này thường
sẽ giống nhau và ngang với mức giá thị trường.
Có thể đưa ra một quy tắc riêng cho những loại hàng hoá độc
đáo ở một đặc điểm nào đó. Hai ví dụ quan trọng là mặt hàng bất
động sản và mặt hàng liên quan đến một giá trị tình cảm nào đó.
Một ngôi nhà trưng dụng để phục vụ một dự án có thể có giá trị
thị trường hợp lý trong khả năng dự đoán của nhà thẩm định.
Song nếu như mảnh đất vì một lý do nào đó là độc đáo và cư dân
của căn nhà đó gắn bó một cách vô cùng chặt chẽ với căn nhà thì
giá trị WTP hay WTA của cư dân có thể vượt xa hơn mức thẩm
định rất nhiều. Trong những trường hợp như vậy, giá trị thị
trường hợp lý phải được coi là ở mức thấp hơn so với giá trị của
mặt hàng.
Việc đánh giá các tác động của một dự án trở nên phức tạp hơn
khi có khả năng là các mức giá sẽ thay đổi do triển khai dự án.


×