Kinh Tế Học Cổ Điển và Chủ Nghĩa
Tư Bản
Malthus với vấn đề "tình trạng thừa thải quá mức" hay "cơn
khủng hoảng"
Tuy những lý lẽ của Malthus phần lớn có biện hộ cho chế độ tư
bản trong xã hội, nhưng ông vẫn không mù quáng đến nỗi không
thấy được mô hình này đang phát triển không đều và ông chính
là người đầu tiên nhận thấy được nó đang đối mặt với một vấn đề
tái diễn là thị trường đã quá tải và vấn đề những cơn khủng
hoảng thừa, tức là xãy ra tình trạng thất nghiệp, sự suy sụp về tài
chính, v.v.… Đối với những nhà kinh tế cổ điển cùng thời thì quan
điểm này của ông bị xem như một quan điểm lập dị.
Như chúng ta đã biết qua với Adam Smith, tầm nhìn của các nhà
kinh tế cổ điển chỉ trong phạm vi là thị trường và cơ cấu định giá
của nó hoạt động nhằm mang đến sự phân bổ những nguồn tài
nguyên và hàng hoá cho xã hội một cách trơn tru dễ dàng. Có thể
đây là tình trạng sụp đổ tạm thời hoặc giả chỉ đối với ngành mậu
dịch, ví dụ như các nhà sản xuất các sản phẩm may mặc có thể
ước lượng nhu cầu về mặt hàng của họ quá mức và do đó tạm
thời "cung cấp quá mức" cho thị trường, nhưng trong trường hợp
như vậy người ta sẽ tin rằng mức cung gia tăng liên quan đến
mức cầu sẽ làm mức giá giảm xuống và cũng sớm làm cho cung
liên kết trở lại với cầu. Hoặc giả, giai đoạn tích luỹ quá nhanh có
thể gia tăng mức lương trên mức bình thường, nhưng theo như
Smith và Malthus, mức lương gia tăng như thế sớm muộn cũng
dẫn đến tình trạng gia tăng nguồn cung lao động, và từ đó lại đẩy
mức lương giảm lại.
Jean-Baptiste Say (1767-1832) là người thể hiện rõ tầm nhìn cổ
điển này, ông cho rằng thị trường có thể loại bỏ tình trạng khủng
hoảng, ông là một nhà kinh tế học người Pháp và rất ngưỡng mộ
Adam Smith. Say đưa ra nhiều lập luận về vấn đề này trong
chương XV, quyển I của tác phẩm Trait d'economie politique của
ông:
"Chú ý rằng một sản phẩm sau khi làm ra sớm muộn cũng được
tung ra thị trường mà trong đó đã đầy các sản phẩm khác. Khi
nhà sản xuất đó hoàn tất sản phẩm của mình, ông ta chỉ quan
tâm đến việc làm sao để bán sản phẩm ra ngoài ngay lập tức để
cho nó không bị mất giá nếu bị tồn kho. Ông ta cũng không ít
quan tâm đến việc dùng số tiền mà ông ta có để sản xuất ra nó;
bởi vì giá trị của đồng tiền cũng sẽ bị giảm. Nhưng cách duy nhất
để tiêu thụ số tiền đó là mua món hàng khác. Do vậy chỉ trong
trường hợp tạo ra một sản phẩm sẽ lập tức mở ra một lối thoát
cho những sản phẩm khác."
Những phát biểu như thế đã phổ biến đến tầm nhìn của thị
trường và dẫn đến mọi người thườg xuyên tham khảo cái gọi là
"Quy luật Say", nghĩa là "mức cung sẽ tự tạo ra mức cầu cho
riêng nó" (supply creates its own demand) điều này như một chân
lý hiển nhiên về hành vi của nền kinh tế thị trường nói chung
nếu không phải nằm trong trường đặt biệt. Mặt khác, Malthus
xem xét đến thực tiễn vấn đề tư bản chủ nghĩa trong thời của ông
ta và thấy được những vấn đề đang nổi cộm lên mà sau này
những nhà kinh tế gọi là "chu kỳ kinh doanh" hay bằng một cái
tên ít lạc quan hơn "những cơn khủng hoảng". Ông thấy rằng
những chu kỳ hay cơn khủng hoảng như thế không có giới hạn
trong một thị trường đặc biệt nào cả, cũng như Smith, ông tin
rằng nếu chúng xãy ra thường xuyên thì chính những người như
công nhân, thương buôn, ngân hàng, v.v sẽ phải gánh hậu
quả. Ông lập luận rằng dù có phải như vậy hay không thì con
người phải nhận thức được sự tồn tại về những gì đang tái diễn
trở lại, những gì mà ông gọi là "khủng hoảng thừa phổ biến" và
định nghĩa của nó như sau:
"Khủng hoảng thừa được xem là phổ biến bắt nguồn từ nguồn
cung thừa thải quá mức hay do mức cầu giảm đi, một lượng hàng
hoá đáng kể bị giảm giá trị xuống thấp hơn cả chi phí cơ bản
được bỏ ra để sản xuất ra nó"
Quan điểm của Malthus về "khủng hoảng thừa" gây nên một cuộc
tranh luận giữa ông và những người bạn của ông cũng như với
nhà kinh tế David Ricardo - đồng nghiệp của ông. Như chúng ta
thấy rằng đây không chỉ là vấn đề duy nhất mà ông và Ricardo
không có cùng một quan điểm.
David Ricardo
Trong khi Thomas Malthus giảng dạy tại tại một ngôi trường do
một công ty lớn nhất thời đó lập ra, thì David Ricardo (1772-1823)
là con của một doanh nhân và chính ông cũng là một doanh nhân
giàu có và chơi cổ phiếu. Trong số những nhà kinh tế ít quan tâm
đến lịch sử tư duy kinh tế, Ricardo được xem như một nhà kinh tế
"cổ điển" quan trọng xếp thứ hai sau Adam Smith. Sở dĩ ông có
danh tiếng như thế một phần bắt nguồn từ những quan điểm có
giá trị của ông về những vấn đề quan trọng, nhưng nguyên nhân
chính là bắt nguồn từ cách mà ông đưa ra những lý lẽ của mình
dưới hình thức những mô hình kinh tế về mặt lý thuyết. Không
giống như những bài viết của Smith hay thậnm chí của Malthus,
những bài viết của Ricardo được thể hiện tương đối xúc tích
ngắn gọn mà không có nhiều minh hoạ bằng những chi tiết lịch
sử hay nói lạc hướng sang những vấn đề thứ yếu khác. Trong
cuốn Tài sản quốc gia của mình, Smith có nói lướt qua khía cạnh
lịch sử con người, thì trong cuốn Những Quy Luật Về Kinh Tế
Chính Trị Và Hệ Thống Thuế, Ricardo chỉ tập trung vào vấn đề
của mình. Căn cứ vào sự yêu chuộng các mô hình mang tính
chính xác của các nhà kinh tế cùng thời, ta dễ dàng thấy được
nguồn gốc những gì mà ông ta thường bị ảnh hưởng.
Tuy nhiên ngoài những vấn đề về phương pháp luận, thì những
điểm nổi bật các tác phẩm của Ricardo chính là nó đã chuyển từ
quan điểm của Smith tập trung vào việc làm ra tài sản bằng
phương pháp đầu tư và tích luỹ nay chuyển sang một hướng
khác là tập trung vào việc phân phối những gì được sản xuất ra.
Ricardo đã nêu rõ điều này ngay trong phần mở đầu của quyển
Những Quy Luật:
Để xác định những quy tắc nào sẽ chi phối đến việc phân phối
này phải dựa vào vấn đề chính trong kinh tế chính trị: khi khoa
học ngày càng phát triển cùng với những bài viết của Turgot,
Stuart, Smith, Say, Sismondi, và những người khác, thì họ chỉ
cung cấp được một lượng thông tin ít ỏi liên quan đến những vấn
đề tự nhiên thường ngày như tô thuế, lợi nhuận, và tiền lương."
Nói cách khác, vấn đề mà Ricardo quan tâm đến là làm sao xác
định được sự tiến triển tương đối của tô thuế, lợi nhuận, và tiền
lương qua nhiều năm. Như chúng ta thấy, Smith đã nói rằng tiền
lương có khuynh hướng thay đổi bất thường theo mức sống và
lợi nhuận có khuynh hướng giảm và tăng chậm vì nền kinh tế đã
phát triển hoàn chỉnh, nhưng ông đã không đưa ra một lý thuyết
hợp lý nào về những khuynh hướng như thế. Mặc khác, đối với
vấn đề những giới hạn khả năng sản xuất nông nghiệp theo sự
phát triển của dân số mà ông đang quan tâm, Malthus đã đưa ra
một lý thuyết về khuynh hướng chuyển biến của tô thuế - Ricardo
cũng chấp nhận thuyết này, ông cho rằng do ngành trồng trọt
chuyển từ những mảnh đất màu mở sang những mảnh đất ít màu
mở hơn cho nên tỉ số sinh lời giữa chúng sẽ trở nên chênh lệch
nhau và do đó tô thuế giữa chúng cũng sẽ khác nhau.
Trong chương 2 quyển Những Quy Luật, Ricardo có nói:
"Sở dĩ như vậy là do số lượng đất đai bị hạn chế, độ màu mở thì
không đồng đều và cũng do trong quá trình phát triển của dân số,
những loại đất xấu hay nằm ở những vị trí bất lợi đều được sử
dụng cho mục đích trồng trọt, mà khi sử dụng những loại đất như
thế thì bao giờ cũng phải trả thuế cả. Trong quá trình phát triển
của xã hội, khi loại đất thứ cấp được đưa vào sử dụng cho mục
đích trồng trọt, thì tô thuế lập tức bắt đầu tính với loại đất có độ
phì nhiêu nhất, và số lượng tô thuế bao nhiêu sẽ tuỳ thuộc vào sự
khác biệt ở độ màu mở giữa hai loại đất này."
Cũng tương tự vậy, Ricardo cho rằng nếu vẫn đầu tư thêm vốn
và nhân công cho những mảnh đất đang sử dụng, dù cho lợi
nhuận có giảm thì tô thuế vẫn phát sinh nhiều:
"Trước khi đất loại 2, 3, 4, hay 5 hay đất xấu bạc màu được sử
dụng trong nông nghiệp thì vốn có thể đầu tư một cách hữu hiệu
vào những loại đất như thế những loại đất đã được sử dụng vào
mục đích trồng trọt, điều này vẫn thường xãy ra và thực chất nó
rất phổ biến. Có lẽ người ta sẽ nhận thấy rằng bằng cách tăng
gấp đôi số vốn vào đất loại 1, mặc dù sản lượng không tăng gấp
đôi, thì nó cũng không tăng đến 100 góc tạ (ở Anh; bằng 12,70
kg), nhưng cũng tăng khoảng 85 góc tạ, và sản lượng này vượt
xa sản lượng mà đất loại 3 mang lại khi được đầu tư cùng một số
vốn như vậy. Trong trường hợp như thế, số vốn tốt hơn nên đầu
tư vào những loại đất mà mình đã sử dụng và số tô thuế phát
sinh sẽ bằng nhau; bởi vì số tô thuế chính là hiệu số giữa sản
lượng đạt được với số lượng tương ứng về vốn và nguồn lao
động."