Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Chính sách đối ngoại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.84 KB, 23 trang )

Hihi 10/2010……
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
.
Việc Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) tháng 1 năm 2007 đã đánh dấu một
bước phát triển có ý nghĩa trọng đại trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước
ta. Là một nền kinh tế đang trong quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, việc
gia nhập WTO luôn song hành cơ hội và
thách thức, quyền lợi và nghĩa vụ, đặc biệt
là các cơ hội và thách thức của Việt Nam
trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương.
Quy tắc điều chỉnh thương mại quốc tế
Trước đây, thương mại quốc tế thường
được điều chỉnh bằng các hiệp định thương
mại song phương giữa hai nước. Trước thế
kỷ 19, khi chủ nghĩa trọng thương còn
chiếm ưu thế, đa số các nước áp đặt những
mức thuế cao cùng nhiều hạn chế thương
mại khác đối với hàng nhập khẩu. Kể từ thế
kỷ 19, tư tưởng về thương mại tự do dần
dần nổi lên giữ vai trò chủ đạo ở các nước
phương Tây, đặc biệt là ở Anh. Trong
những năm kể từ sau Chiến tranh Thế giới
lần thứ hai, các hiệp định thương mại đa
phương như GATT và WTO đã cố gắng
xây dựng một cơ chế thương mại quốc tế có
sự thống nhất điều chỉnh trên phạm vi toàn


cầu.
Hướng tới thương mại tự do, các hiệp định
thương mại không chỉ đàm phán việc giảm
thuế mà còn đàm phán cả các biện pháp phi
thuế như hạn chế số lượng nhập khẩu, cấp
phép nhập khẩu, vệ sinh kiểm dịch, đầu tư
nước ngoài, mua sắm chính phủ và tạo
thuận lợi cho thương mại bằng cách đơn
giản hóa các thủ tục hải quan.
Trong quá khứ, thương mại tự do thường
tập trung vào các mặt hàng nông sản, trong
khi các mặt hàng chế tạo thường mong
muốn được bảo hộ. Tình hình trong hiện tại
lại ngược lại, đặc biệt là ở các nước phát
triển. Ở Hoa Kỳ, châu Âu và Nhật Bản,
những cuộc vận động hành lang đối với các
lĩnh vực nông nghiệp là nguyên nhân chính
khiến cho trong đa số các hiệp định thương
mại quốc tế, lĩnh vực nông nghiệp có nhiều
quy định mang tính chất bảo hộ hơn là
những lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ khác.
Thương mại quốc tế thường được điều
chỉnh bởi các quy tắc có tính toàn cầu
thông qua các hiệp định của Tổ chức
Thương mại Thế giới, mặc dù cũng có mộ
số thoả thuận thương mại khu vực như
AFTA giữa các nước ASEAN;
MERCOSUR giữa một số nước ở Nam Mỹ;
NAFTA giữa Hoa Kỳ, Canada và Mexico;
Liên minh Châu Âu giữa 25 quốc gia ở

châu Âu. Có thể kể thêm một số thỏa thuận
thương mại quốc tế thất bại như Khu vực
Mậu dịch Tự do Châu Mỹ (FTAA) hay
Hiệp định Đa phương về Đầu tư (MAI).
[sửa] Chức năng của hoạt động ngoại
thương
Là một khâu của quá trình tái sản xuất xã
hội, ngoại thương có các chức năng sau:
- Tạo vốn cho quá trình mở rộng vốn đầu
tư trong nước
- Chuyển hóa giá trị sử dụng làm thay đổi
cơ cấu vật chất của tổng sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân được sản xuất trong
nước và thích ứng chúng với nhu cầu của
tiêu dùng và tích lũy
- Góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh
tế bằng việc tạo môi trường thuận lợi cho
sản xuất, kinh doanh
Là một lĩnh vực kinh tế đảm nhận khâu lưu
thông hàng hóa giữa trong nước với nước
ngoài, chức năng cơ bản của ngoại thương
là: Tổ chức chủ yếu quá trình lưu thông
hàng hóa với bên ngoài, thông qua mua bán
để nối liền một cách hữu cơ theo kế hoạch
giữa thị trường trong nước với thị trường
nước ngoài, thỏa mãn nhu cầu của sản xuất
và của nhân dân về hàng hóa theo số lượng,
chất lượng, mặt hàng, địa điểm và thời gian
phù hợp với chi phí ít nhất.
[sửa] Nhiệm vụ của ngoại thương

- Nâng cao hiệu quả kinh doanh, thúc đẩy
quá trình công nghiệp hóa đất nước Đây là
nhiêm vụ quan trọng và bao quát của ngoại
thương. Thông qua hoạt động xuất, nhập
khẩu góp phần vào việc nâng cao hiệu quả
kinh doanh, thúc đẩy quá trình công nghiệp
hóa
- Góp phần giải quyết những vấn đề kinh tế
- xã hội quan trọng của đất nước: Vốn, việc
làm, công nghệ, sử dụng tài nguyên có hiệu
quả
- Đảm bảo sự thống nhất giữa kinh tế và
chính trị trong hoạt động ngoại thương
[sửa] Các rào cản của hoạt động ngoại
thương
Hiện nay, các nước đang sử dụng rất nhiều
công cụ làm rào cản hoạt động ngoại
thương
[1]
, nhưng tựu trung lại có hai nhóm
công cụ chính là: Thuế quan và phi thuế
quan
[sửa] Hàng rào Thuế quan
Đây là một loại thuế đánh vào hàng mậu
dịch, phi mậu dịch khi hàng hóa đi qua khu
vực hải quan của một nước Hiện nay, khi
hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu
rộng thì các quốc gia tìm cách giảm dần và
tiến tới xóa bỏ hàng rào thuế quan
[sửa] Hàng rào phi thuế quan

Hàng rào phi thuế quan là những biện pháp
phi thuế quan mang tính cản trở đối với
thương mại mà không dựa trên cơ sở pháp
lí, khoa học hoặc bình đẳng Hàng rào phi
thuế quan thường được áp dụng đối với
hàng nhập khẩu Hình thức của hàng rào
phi thuế quan rất phong phú, gồm: Các
biện pháp hạn chế định lượng, các biện
pháp tương đương thuế quan, các rào cản
kỹ thuật, các biện pháp liên quan đến đầu
tư nước ngoài, các biện pháp quản lý hành
chính, các biện pháp bảo vệ thương mại
tạm thời
Ngày nay, ngoại thương thế giới có những
đặc điểm mới: tốc độ tăng trưởng của ngoại
thương thế giới tăng nhanh so với tốc độ
tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân.
Tốc độ tăng trưởng của hàng hóa vô hình
tăng nhanh so với tốc độ tăng trưởng hàng
hóa hữu hình. Nhu cầu về đời sống vật chất
giảm trong khi đó, nhu cầu văn hóa tinh
thần ngày càng tăng. Tỷ trọng xuất khẩu
hàng nguyên liệu thô giảm, trong khi đó
dầu mỏ, khí đốt và các sản phẩm công nghệ
chế biến tăng nhanh. Phạm vi, phương thức
và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc
tế diễn ra ngày càng phong phú và đa dạng:
chất lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, bao
bì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch
vụ sau bán hàng. Chu kỳ sống của sản

phẩm ngày càng rút ngắn lại, hàng hóa có
hàm lượng khoa học và công nghệ tăng cao.
Quá trình thương mại quốc tế đòi hỏi, một
mặt phải tự do hóa thương mại, mặt khác
phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách
hợp lý. Ngoại thương Việt Nam cũng ngày
càng phát triển và đóng vai trò quan trọng
trong việc thúc đẩy sự tăng trưởng của nền
kinh tế, cải thiện cán cân thanh toán, tạo
công ăn việc làm và giúp nền kinh tế Việt
Nam từng bước hội nhập với các nền kinh
tế các nước trong khu vực và trên thế giới.
[sửa] Rủi ro trong thương mại quốc tế
Rủi ro trong thương mại quốc tế có thể
được chia thành hai nhóm chính:
[sửa] Rủi ro kinh tế
• Rủi ro liên quan đến việc không có khả
năng thanh toán của người mua
• Rủi ro liên quan đến việc nợ quá hạn -
người mua không thể thanh toán tiền
hàng 6 tháng kể từ ngày tới hạn.
• Rủi ro không chấp nhận hàng.
• Rủi ro từ bỏ chủ quyền kinh tế
[sửa] Rủi ro chính trị
• Rủi ro liên quan đến việc hủy bỏ hoặc
không gia hạn giấy phép xuất khẩu,
nhập khẩu.
• Rủi ro chiến tranh.
• Rủi ro liên quan đến tài sản của người
nhập khẩu bị quốc hữu hóa hoặc sung

công.
• Rủi ro liên quan đến việc áp đặt lệnh
cấm nhập khẩu sau khi hàng đang trên
đường vận chuyển.
• Rủi ro thanh toán - liên quan đến việc
nước nhập khẩu áp đặt chính sách kiểm
soát ngoại hối do thiếu ngoại tệ.
• Rủi ro từ bỏ chủ quyền chính trị.
[sửa] Chú thích
1. ^

v/rel_vntradebarriers.html Rào cản
Ngoại thương
[sửa] Liên kết ngoài
• Diplomacy Monitor - International
Trade
• globaltrade.net : website for
international trade services (knowledge
resource/database)
[sửa] Số liệu
• Cơ sở dữ liệu Sản xuất và Thương mại
của Ngân hàng Thế giới
• Các nguồn số liệu thương mại, bao gồm
cả số liệu cho mô hình lực hấp dẫn
• Trong 20 năm qua Việt Nam nền kinh tế
Việt Nam đã tăng trưởng với tốc độ
nhanh và ngày càng hội nhập với nền
kinh tế thế giới. Do đó chính sách phát
triển thương mại của Việt Nam cũng có
nhiều sự thay đổi nhằm hội nhập ngày

càng sâu hơn vào nền kinh tế thế giới
tạo nền tảng để kinh tế Việt Nam phát
triển bền vững trong tương lai. Trong
bối cảnh toàn cầu hóa và Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới WTO chính
sách thương mại của Việt Nam đóng
một vai trò quan trọng trong chiến lược
phát triển lâu dài.
• Phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường và
cam kết quốc tế.
• Việt Nam cam kết sẽ miễn giảm thuế
xuất, nhập khẩu trên cơ sở không phân
biệt đối xử và sẽ không gắn việc miễn
giảm thuế với yêu cầu về xuất khẩu hay
nội địa hóa.
• Việt Nam cam kết giảm mức thuế nhập
khẩu bình quân từ 17,4% xuống còn
13,4 % trong 5 đến 7 năm tới.Trong đó
mức thuế nhập khẩu nông sản giảm từ
23,4% xuống còn 20,9%, mức thuế nhập
khẩu hàng công nghiệp giảm từ 16,8%
xuống còn 12,6%.
• Bên cạnh đó Việt Nam cũng cam kết
tham gia một số hiệp định tự do hóa
theo ngành như công nghệ thông tin, dệt
may, thiết bị y tế với thời gian giảm thuế
là từ 3 đến 5 năm.
• Tuy nhiên Việt Nam vẫn bảo lưu hạn
ngạch thuế quan với đường, trứng, gia

cầm, thuốc lá và muối. Đối với 4 mặt
hàng này mức thuế hiện hành là ( trứng
40%, đường thô 25%, đường tinh 40%,
lá thuốc lá 30%, muối 30%).
• Các hàng rào phi thuế quan
• Theo định hướng của chính sách thương
mại của Việt Nam thì các hàng rào phi
thuế quan sẽ dần được loại bỏ như
quota hạn ngạch, giấy phép. Tuy nhiên
Việt Nam vẫn duy trì danh mục một số
mặt hàng cấm xuất nhập khẩu và một
số mặt hàng hạn chế xuất nhập khẩu.
• Ví dụ: Việt Nam cấm nhập khẩu thiết bị
và phần mềm mã hóa thuộc diện bí mật
nhà nước không liên quan tới các sản
phẩm thương mại thông thường phục
vụ nhu cầu đại chúng.
• Các hàng rào kĩ thuật
• Việt Nam sẽ tiếp tục áp dụng các hàng
rào kĩ thuật phù hợp với quy định của
WTO nhằm bảo vệ cuộc sống của con
người, động thực vật, sức khỏe cộng
đồng và môi trường. Trong đó Việt Nam
nhấn mạnh vào các quy định về chất
lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo
vệ sinh thái, bảo vệ môi trường và đa
dạng sinh học. Ngoài ra Việt Nam còn
tiếp tục áp dụng cac quy định nhằm bảo
vệ an ninh quốc gia cũng như chống
gian lận thương mại phù hợp với quy

định WTO và các Công ước quốc tế.
• Mặc dù vậy các hàng rào kĩ thuật của Việt
Nam không ảnh hưởng hay bóp méo
thương mại và được áp dụng phù hợp
với phù hợp với các quy định quốc tế về
môi trường và Việt Nam tham gia. Các
quy định của Việt Nam không nhằm mục
đích hạn chế nhập khẩu trái với quy định
của WTO.
Nguồn đọc thêm:
h<p://www.xaluan.com/modules.php?
name=News&Fle=arGcle&sid=108776#ixz
z14D3ZKLBH
h<p://www.xaluan.com/raovat
olala10 2009
Tổng quan
Việt Nam chính thức khởi xướng công cuộc
đổi mới nền kinh tế từ năm 1986. Kể từ đó,
Việt Nam đã có nhiều thay đổi to lớn, trước
hết là sự đổi mới về tư duy kinh tế, chuyển
đổi từ cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập
trung, bao cấp, sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đa dạng
hóa và đa phương hóa các quan hệ kinh tế
đối ngoại, thực hiện mở cửa, hội nhập quốc
tế.
Ngoại thương và hội nhập kinh tế quốc tế
Chính sách đổi mới, mở cửa và công nghiệp
hóa đã mở ra cho Việt Nam những cơ hội

mới để phát huy những lợi thế so sánh vốn
có về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lao
động dồi dào, giá rẻ, sử dụng những lợi thế
đó vào việc phát triển các nguồn hàng xuất
khẩu ngày càng lớn, tiêu thụ tại thị trường
các nước, mang lại một nguồn thu ngoại tệ
ngày càng cao phục vụ cho tăng trưởng
kinh tế và công nghiệp hóa.
Trong thời kì đổi mới, kim ngạch xuất nhập
khẩu của Việt Nam mỗi năm tăng khoảng
20%, nhờ đó đã đưa tổng giá trị xuất khẩu
của Việt Nam từ mức khoảng nửa tỷ
USD/năm trong những năm trước đổi mới
lên 26 tỷ USD năm 2004 và 32,23 tỷ USD
năm 2005.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu có sự chuyển
dịch tiến bộ. Trong giai đoạn 1991-1995,
hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam gồm
dầu thô, thủy sản, gạo, dệt may, cà phê, lâm
sản, cao su, lạc, hạt điều. Đến năm 2005,
các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là dầu thô,
dệt may, giày dép, thủy sản, sản phẩm gỗ,
điện tử và gạo. Cơ cấu này phản ánh xu
hướng gia tăng các chủng loại mặt hàng chế
biến, chế tạo, và sự giảm đi về tỷ trọng của
các mặt hàng xuất khẩu thô, chủ yếu là các
mặt hàng nông, lâm, hải sản và khoáng sản.
Dù có sự tiến bộ như vậy, nhưng các mặt
hàng xuất khẩu thô của Việt Nam đến nay
vẫn còn chiếm tỷ trọng cao, đòi hỏi một sự

nỗ lực lớn hơn nữa để tăng nhanh các mặt
hàng công nghiệp xuất khẩu.
Chính sách “chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế” đã giúp Việt Nam hội nhập
ngày càng sâu rộng hơn với nền kinh tế thế
giới và khu vực. Nếu như trước năm 1990,
Việt Nam mới có quan hệ thương mại với
40 nước, thì ngày nay nhờ thực hiện chính
sách đối ngoại rộng mở, làm bạn, hợp tác
với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở
bình đẳng, cùng có lợi, Việt Nam đã có
quan hệ ngoại giao với 170 nước trên thế
giới, ký kết các hiệp định thương mại đa
phương và song phương với trên 80 quốc
gia, thực hiện chế độ tối huệ quốc với trên
70 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó có
những nước và khu vực có nguồn vốn lớn,
công nghệ cao và thị trường lớn như Mỹ,
Nhật Bản, EU và các nền kinh tế mới công
nghiệp hóa ở Đông Á.
Kể từ khi thực hiện đường lối mở cửa, Việt
Nam đã ký các hiệp định hợp tác kinh tế -
thương mại với EU (năm 1995), tham gia
ASEAN (1995) và khu vực mậu dịch tự do
AFTA của ASEAN (2001), tham gia APEC
(1998), hiệp định thương mại song phương
Việt–Mỹ có hiệu lực (2001).

2009
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

được ban hành tháng 12/1987 đã tạo ra
khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các
hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp
tại Việt Nam. Trước đòi hỏi của thực tế
và sự góp ý của các nhà đầu tư nước
ngoài, Luật đã có một số lần được sửa
đổi, bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi
vào những năm 1996 và năm 2002
nhằm tạo ra một môi trường đầu tư
thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến
khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu
tư vào những mục tiêu trọng điểm và
những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh
tế trọng điểm của đất nước.
Bằng việc cho ra đời Luật đầu tư 2005 và
Luật Doanh nghiệp 2005 (cùng có hiệu lực
từ 1/7/2006) Chính phủ Việt Nam đã tạo ra
bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến
để tạo thêm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài như được quyền đầu tư kinh
doanh tất cả những gì pháp luật không
cấm, thay vì chỉ được làm những việc cơ
quan Nhà nước cho phép. Nguyên tắc này
được áp dụng cho khu vực kinh tế tư nhân
trong nước từ năm 2000, nay được áp dụng
chung cho cả khu vực nước ngoài.
Ngoài ra việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó
khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước

ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân
theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh
việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá
dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng mức
giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ
sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực đầu tư, cho
phép các doanh nghiệp nước ngoài được
đầu tư vào một số lĩnh vực trước đây chưa
cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh
doanh siêu thị… do vậy đã tạo nên một môi
trường đầu tư hấp dẫn hơn.
Những biện pháp cải cách trên đã trở thành
một trong những yếu tố quan trọng góp
phần khôi phục và tăng nhanh nguồn vốn
FDI đầu tư vào Việt Nam trong năm 2005.
FDI tăng nhanh trở lại còn do các nguyên
nhân quan trọng khác như sự ổn định về
chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng;
nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng
cao; công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế
thị trường tiếp tục được duy trì và đẩy
mạnh; mức sống của người dân được nâng
cao góp phần làm tăng mức cầu nội địa;
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy
mạnh, uy tín và thương hiệu của các loại
hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trên các thị
trường thế giới ngày càng được nâng cao.
Kết quả, Việt Nam đã thu hút được một
lượng FDI ngày càng lớn: hầu như từ con
số không vào năm 1986, đã tăng lên tới 3,2

tỷ USD năm 1997, sau đó do bị ảnh hưởng
tiêu cực bởi cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á năm 1997 đã giảm xuống trong các
năm 1998-2000 (có năm chỉ thu hút được
1,58 tỷ USD như năm 1999). Những năm
gần đây, FDI vàoViệt Nam đã được phục
hồi và có xu hướng tăng trở lại, từ 2,6 tỷ
USD năm 2001 đã tăng lên 5,8 tỷ USD năm
2005. FDI tăng lên không chỉ hứa hẹn mang
lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước
ngoài, mà còn đóng vai trò quan trọng
trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao
công nghệ và phương thức kinh doanh hiện
đại, khai thác các tiềm năng của đất nước,
đào tạo tay nghề và giải quyết việc làm cho
hàng chục vạn lao động Việt Nam.
Chủ nhật, 20:58, 18/10/2009
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
được ban hành tháng 12/1987 đã tạo ra
khuôn khổ pháp lý cơ bản cho các
hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp
tại Việt Nam. Trước đòi hỏi của thực tế
và sự góp ý của các nhà đầu tư nước
ngoài, Luật đã có một số lần được sửa
đổi, bổ sung, nổi bật là các lần sửa đổi
vào những năm 1996 và năm 2002
nhằm tạo ra một môi trường đầu tư
thông thoáng, hấp dẫn hơn để khuyến
khích các nhà đầu tư nuớc ngoài đầu

tư vào những mục tiêu trọng điểm và
những lĩnh vực ưu tiên, nhất là trong
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
hướng vào xuất khẩu và các vùng kinh
tế trọng điểm của đất nước.
Bằng việc cho ra đời Luật đầu tư 2005 và
Luật Doanh nghiệp 2005 (cùng có hiệu lực
từ 1/7/2006) Chính phủ Việt Nam đã tạo ra
bước tiến dài trong việc điều chỉnh, cải tiến
để tạo thêm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài như được quyền đầu tư kinh
doanh tất cả những gì pháp luật không
cấm, thay vì chỉ được làm những việc cơ
quan Nhà nước cho phép. Nguyên tắc này
được áp dụng cho khu vực kinh tế tư nhân
trong nước từ năm 2000, nay được áp dụng
chung cho cả khu vực nước ngoài.
Ngoài ra việc đẩy mạnh tháo gỡ những khó
khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước
ngoài, chỉnh sửa thuế thu nhập cá nhân
theo hướng hạ thấp mức thuế, đẩy mạnh
việc thực hiện cơ chế một cửa, giảm giá
dịch vụ viễn thông xuống ngang bằng mức
giá tại các nước trong khu vực, nâng cấp cơ
sở hạ tầng, mở rộng lĩnh vực đầu tư, cho
phép các doanh nghiệp nước ngoài được
đầu tư vào một số lĩnh vực trước đây chưa
cho phép như viễn thông, bảo hiểm, kinh
doanh siêu thị… do vậy đã tạo nên một môi
trường đầu tư hấp dẫn hơn.

Những biện pháp cải cách trên đã trở thành
một trong những yếu tố quan trọng góp
phần khôi phục và tăng nhanh nguồn vốn
FDI đầu tư vào Việt Nam trong năm 2005.
FDI tăng nhanh trở lại còn do các nguyên
nhân quan trọng khác như sự ổn định về
chính trị, kinh tế, an ninh và quốc phòng;
nền kinh tế tiếp tục đạt mức tăng trưởng
cao; công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế
thị trường tiếp tục được duy trì và đẩy
mạnh; mức sống của người dân được nâng
cao góp phần làm tăng mức cầu nội địa;
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy
mạnh, uy tín và thương hiệu của các loại
hàng hóa sản xuất tại Việt Nam trên các thị
trường thế giới ngày càng được nâng cao.
Kết quả, Việt Nam đã thu hút được một
lượng FDI ngày càng lớn: hầu như từ con
số không vào năm 1986, đã tăng lên tới 3,2
tỷ USD năm 1997, sau đó do bị ảnh hưởng
tiêu cực bởi cuộc khủng hoảng tài chính
châu Á năm 1997 đã giảm xuống trong các
năm 1998-2000 (có năm chỉ thu hút được
1,58 tỷ USD như năm 1999). Những năm
gần đây, FDI vàoViệt Nam đã được phục
hồi và có xu hướng tăng trở lại, từ 2,6 tỷ
USD năm 2001 đã tăng lên 5,8 tỷ USD năm
2005. FDI tăng lên không chỉ hứa hẹn mang
lại lợi nhuận cao cho các nhà đầu tư nước
ngoài, mà còn đóng vai trò quan trọng

trong việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao
công nghệ và phương thức kinh doanh hiện
đại, khai thác các tiềm năng của đất nước,
đào tạo tay nghề và giải quyết việc làm cho
hàng chục vạn lao động Việt Nam.

×