Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG NÔNG THÔN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.07 KB, 24 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VÀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG NÔNG THÔN
1. Quan niệm và tiêu chí xác đinh đói nghèo
1.1 Quan niệm về đói nghèo
Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ
sản xuất quy đinh. Bằng lao động sản xuât con người khai thác thiên nhiên để
tạo ra của cải vật chất để đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở, và những nhu cầu khác.
Năng suất lao động ngày càng tăng thì của cải ngày càng nhiều, các nhu cầu
sống được đáp ứng đầy đủ hơn; trái lại năng s1uất lao động thấp, của cải vât
chất thu được ít, con người rơi vào cảnh đói nghèo. Đói nghèo không chỉ xuất
hiện và tồn tại dưới chế độ công xã nguyên thuỷ, chế độ chiếm hữu nô lệ,chế độ
phong kiến với trình độ lực lượng sản xuất kém phát triển mà ngay trong thời
đại ngày nay với công cuộc cách mang khoa học hiện đại, với lực lượng sản
xuất cao trưa từng thấy, trong từng quốc gia kể cả các quốc gia đã phát triển
nhất trên thế giới, đói nghèo vẫn tồn tại một cách hiển nhiên. Do đó loài người
đã phải luôn tìm mọi cách để nâng cao trình độ sản xuất của mình, nâng cao đời
sống của nhân dân ..... Đối với nước ta Bác Hồ đã từng nói: "Đảng và Nhà
nước vừa lo những việc lớn như đổi nền kinh tế văn hoá tiên tiến, vừa đồng thời
quan tâm đến những việc nhỏ như, tương, cà, mắm muối cấn thiết cho đời sống
hàng ngày của nhân dân".
Đói nghèo là một vấn đề nóng bỏng và nhức nhối, nó được các giới
nghiên cứu, cơ quan hoạch định chính sách của nhiều quốc gia quan tâm nghiên
để tìm ra những nguyên nhân của đói nghèo và xác định các biện pháp xoá đói
giảm nghèo.
Tại các hội nghị bàn về giảm đói nghèo khu vực Châu á thái Bình Dương
do ESCAP tổ chức ở Băng Kôk Thái Lan tháng 9 năm 1993 đã đưa ra khái niệm
và định nghiã đói nghèo như sau:
"Nghèo là một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn các nhu
cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ
theo trình độ phát triển kinh tế xã hội và phong tục tập quán của địa phương".
Theo PGS - PTS Đỗ Nguyên Phương thì đói nghèo được nghiên cứu như


sau: "Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư có điều kiện thoả mãn một
phần các nhu cầu tối thiều, cơ bản của cuộc sống và có mức thu nhập thấp hơn
mức trung bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện".
Trên cơ sở nhất trí với quan điểm xem xét vấn đề nghèo đói của tổ chức
Liên Hợp Quốc, Ngân hàng châu á đã đánh giá về thực trạng nghèo đói và đã
đưa ra 2 khái niệm nghèo đói là: Nghèo tương đối và nghèo tuyệt đối. Nghèo
tương đối là tình trạng thu nhập không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối
thiểu, chỉ duy trì cuộc sống cơ thể con người. Nghèo tuyệt đối là tình trạng thu
nhập thấp không có khả năng đạt tới mưc sống tối thiểu tại một thời điểm nào
đó.
Theo uỷ ban kinh tế xã hội khu vưc châu Á thái bình Dương (ESCAP)
thì "sự thiếu thốn của cải trong mỗi quan hệ với nhu cầu thiết yếu của con người
được xem là nghèo khổ tuyệt đối. Còn khi xem xét thực trạng mức sống và vị
trí ( về kinh tế - xã hội ) các nhóm hoặc cá nhân khác ở phương diện mức độ
tiêu thụ và thu nhập của họ sẽ cho ta hình dung được về khèo khổ tương đối "
Ở nước ta, Bộ lao động thương Binh - xã hội đã đưa ra định nghĩa về hai
loại đói nghèo như sau: Nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập thấp
không đủ khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì cuộc sống .
- Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập
thấp không đủ khả năng đáp ứng những nhu cầu sinh hoạt xã hội ở một thời
điểm nào đó.
Nhưng hiện nay ở Việt Nam, bên cạnh khái niệm "nghèo " còn sử dụng
khái niệm "đói "để phân biệt mức độ rất nghèo của một bộ phận dân cư ."nghèo
là một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu không thoả mãn các nhu
cầu ăn, mặc, ở, ytế, giáo dục, đi lại giao tiếp; và "đói" là một tình trạng một bộ
phận có mức sống dưới mức tối thiểu cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thu
nhập không đảm bảo duy trì cuộc sống.
Tuỳ thuộc vào khả năng đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm để duy
trì cuộc sống trong năm, Việt nam còn phân hộ đói ra thành hai nhóm là: hộ

thiếu đói và hộ đói gay gắt để có biện pháp hỗ trợ kịp thời.
Ngoài khái niệm hộ nghèo, hộ đói, việt Nam còn sử dụng khái niệm
"vùng nghèo, xã nghèo" là nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn nhiều và mức sống
dân cư thấp hơn nhiều so với mức sống chung của cả nước.
Tình trạng phổ biên của vùng nghèo là các điểu kiện tự nhiên không
thuận lợi (đất xấu, thiên tai thường xuyên), kết cấu hạ tầng kém phát triển.
1.2 Tiêu chí xác định ranh giới đói nghèo.
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta và hiện trạng đời
sống trung bình phổ biến của dân cư hiện nay, có thể xác lập các chỉ tiêu đánh
giá về đói nghèo theo mấy chỉ tiêu sau đây: thu nhập, nhà ở và tiện nghi sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, vốn.
Chuẩn mức nghèo đói do bộ lao động thương binh xã hội đề ra năm 1993
như bảng sau:
- Theo tiêu chí cũ
Mức đói nghèo Chuẩn mực
Năng lượng bình
quân
Nghèo tuỵêt đối < 15 kg gạo / người / tháng < 1765 kcalo/ ngày
Nghèo tương đối < mức TB của địa phương
Thiếu đói kinh niên < 12 kg gạo / người / tháng < 1412 kcalo /ngày
Đói gay gắt kinh niên < 8 kg gạo / người / tháng < 943 kcalo/ ngày
Nghèo khổ được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Xét điều kiện sống
của người giầu và người nghèo ta thấy: ngưòi giàu thường được ở trong những
ngôi nhà sang trọng, tiện nghi sinh hoạt đầy đủ, công cụ lao động hoàn thiện,
hiện đại hơn, thể lực cường tráng, tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát, con cái được
học hành tử tế... ngược lại những người nghèo khổ phải chịu điều kiện ăn, ở, tồi
tàn, nhà cửa dột nát, xiêu vẹo phương tiện sinh hoạt thiếu thốn, cũ kỹ, công cụ
lao động thô sơ, lạc hậu, thể trọng gầy yếu, tác phong châm chạp, tâm tư buồn
bã, con cái thường nghỉ học sớm hoặc không có điều kiện để theo học.
- Theo tiêu chí mới

Sự phân hoá giàu nghèo được xem xét trên nhiều lĩnh vực đời sống kinh tế
- xã hội. Cụ thể hơn, có thể xem xét sự phân hoá giàu nghèo ở các khu vực khác
nhau giữa các tầng lớp dân cư và các vùng theo các lĩnh vực cụ thể như:
+ Sự khác nhau về sở hữu / chiếm hữu tư liệu sản xuất
+ Sự chêng lệch về thu nhập / mức sống và việc làm
+ Sự khác nhau về sở hữu / sử dụng các tài sản như nhà ở, các phương tiện
trong cuộc sống và sinh hoạt.
+ Sự khác nhau về khả năng và hưởng thụ các thành quả phát triển kinh tế,
văn hoá, xã hội ( như y tế, giáo dục, giải trí...).
+ Sự phân biệt về chính tri, tức là khả năng và điều kiện tham gia vào hệ
thống chính trị và các quyền chính trị cơ bản.
Sau đây là tiêu chí đánh giá sự nghèo đói của một số cơ quan khác nhau:
* Theo tiêu chí của liên hợp quốc: theo chuẩn mực đánh của liên hợp quốc,
ở các nức đang phát triển nói chung, những người có mức thu nhập dưới 1
USD / ngày là thuộc mức nghèo khổ tuyệt đối.
* Theo tiêu chí của ngân hàng thế giới: các nhà kinh tế ngân hàng thế
giới đã đề xuất một mức chuẩn quốc tế dựa trên cơ sở tiêu chuẩn Ấn Độ.
Theo đó ranh giới đói nghèo là mức thu nhập cần thiết để có mức cung cấp
hàng ngày 2250 kcalo / người vào năm 1995.
* Theo tiêu chí của tổng cục thống kê: năm 1994 các chỉ tiêu đựơc áp dụng
cụ thể như sau:
Các hộ gia đình TNBQ
Nghèo ở nông thôn < 50.000 đồng / người / tháng
Cực nghèo ở nông thôn < 25.210 đồng/ người / tháng
Nghèo ở thành thị < 70.000 đồng / người / tháng
Cực nghèo ở thành thị < 42.140 đồng / ngưòi / tháng
Theo cách tính này, năm 1993 ở nước ta có 20% hộ nghèo và 4,4% hộ cực
nghèo.
* Theo tiêu chí của Bộ lao động thương binh xã hội : theo thông báo số
1751/ LĐ- XH của Bộ lao động - thương binh xã hội ngày 20/5/1997,

chuẩn mực đối với hộ nghèo đói ở nước ta như sau:
+ Hộ đói: là hộ có TNBQ < 13 kg gạo ( 45.000 đồng) / người/ tháng.
+ Hộ nghèo có TNBQ < 15 kg gạo ( 55.000 đồng ) / người / tháng.
Đối với khu vực nông thôn, vùng núi và hải đảo.
+ Hộ nghèo đối với khu vực nông thôn vùng đồng bằng, trung du có mức
TNBQ < 20 kg gạo (90.000 đồng) / người / tháng .
+ Hộ nghèo đối với khu vực thành thị có mức
TNBQ < 25 kg gạo (90.000 đồng) / người / tháng.
* Theo tiêu chí mới của tỏng cục thống kê năm 2000 chuẩn mực đói
nghèo của nước ta như sau:
Các hộ gia đình TNBQ
Nghèo ở các vùng hải đảo và vùng núi
nông thôn
<= 80.000 đồng / ngưòi /tháng
Nghèo ở vùng đồng bằng nông thôn <= 100.000 đồng / người / tháng
Nghèo ở khu vực thành thị <= 150.000 đồng / người / tháng
Nghiên cứu các chỉ tiêu và chuẩn mực đánh giá sự phân hoá giàu nghèo ở
nước ta cũng cần đề cập sự khác biệt giữa các nhóm dân cư về sở hữu / chiếm
hữu tư liệu sản xuất, về sở hữu các tài sản, phương tiện phục vụ đời sống vật
chất và tinh thần, về khả năng và điều kiện hưởng thụ của các thành quả phát
triển trên các lĩnh vực văn hoá xã hội ( y tế, giáo dục, vui chơi giải trí) khả nằng
hội nhập với cộng đồng trong quá trình phát triển.
2. Nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng tác động đến đói nghèo trong
nông thôn.
2.1 Một trong những nguyên nhân đầu tiên dẫn đến tình trạng nghèo khó
đó là trình độ học vấn thấp, việc làm chủ yếu trong khu vực nông nghiệp với
việc làm không ổn định.
Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội
kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu
cầu tối thiểu và do vậy không có điều kiện dể nâng cao trình độ của mình trong

tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó trình độ học vấn thấp ảnh
hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con
cái,... ảnh hưởng không nhỏ đến thế hệ hiện tại và cả thế hệ trong tương lai.
Người nghèo có trình độ học vấn thấp khoảng 90% những người nghèo là
những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra
mức sống cho thấy trong số người nghèo, tỷ lệ số người chưa bao giờ được đi
học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiế 39%, phổ thông có sở chiếm 37%.Tỷ lệ
nghèo giảm xuống khi trình độ giáo dục tăng lên, 80%số người nghèo làm các
công việc trong nông nghiệp có mức độ thu nhập rất thấp.Trình độ học vấn
thấp, hạn chế nên khả năng kiếm việc làm trong khu vực, trong các nghành phi
nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
2.2 Các nguyên nhân về dân số .
Quy mô hộ gia đình là "mẫu số" quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu
nhập bình quân của các thành viên trong hộ đông con vừa là hệ quả của đói
nghèo. Tỷ lệ sinh trong các hộ gia đình nghèo còn rất cao, đông con là một
trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Năm 1998, số con bình
quân /phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của
nhóm 20% giàu nhất. Quy mô hộ gia đình lớn làm cho tỷ lệ phụ thuộc cao. Tỷ
lệ phụ thuộc của nhóm nghèo nhất là 0,95 so với 0,37 của nhóm giàu nhất .
Một trong những nguyên nhân tỷ lệ sinh cao trong các hộ nghèo là do hộ
không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khoẻ sinh
sản, tỷ lệ phụ nữ nghèo đặt vòng chánh thai thấp độ hiểu biết của phụ nữ nghèo
về an toàn tình dục, cũng như mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói và sức khoẻ
sinh sản và tăng nhân khẩu còn hạn chế .
Tỷ lệ phụ nữ cao trong các hộ nghèo còn có nghĩa là nguồn lực về lao động
rất thiếu, và đây cũng chính là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng nghèo đói
của hộ.
2.3 Nguồn lực hạn chế và nghèo nàn .
Người nghèo thường thiếu nhiều nguồn lực, họ bị rơi vào vòng luẩn quẩn
của nghèo đói và thiếu nguồn nhân lực, người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo

vì họ không thể đầu tư vào nguồn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân
lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai, và tình trạng không có đất của họ có xu
hướng tăng lên. Đặc biệt là ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, thiếu đất đai ảnh
hưởng đến việc đảm bảo an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả
năng đa dạng hoá sản xuất, để hướng tới sản xuất các loại cây trồng có giá trị
cao hơn. Đa số người nghèo lựa chọn phương án tự cung, tự cấp, họ vẫn dữ các
phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp, thiếu cơ hội thực hiện các
phương án mang lại lợi nhuận cao hơn. Do vẫn theo phương pháp sản xuất
truyền thống nên giá trị sản phẩm và năng suất thấp, thiếu tính cạnh tranh trên
thị trường và vì vậy đã đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó.
Bên cạnh đó, đại đa số người nghèo không có cơ hội tiếp cận với các dịch
vụ sản xuất như khuyến nông, phòng dịch bệnh, tiếp cận các nguồn nước, hệ
thống thuỷ lợi, giống mới, phân bón, thị trường….. các yếu tố này góp phần làm
tăng nguồn lực đầu vào cũng như của cải đầu ra của họ.
Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cân các nguồn tín dụng là một
trong những yếu tố rất quan trọng đối với sản xuất. Sự hạn chế của nguồn vốn là
một trong những nguyên nhân trì hoãn khả năng đổi mới sản xuất, đưa công
nghệ mới, thay đổi giống, chất lượng cao…Mặc dù trong khuôn khổ dự án tín
dụng cho người nghèo thuộc chương trình xóa đói giảm nghèo quốc gia, khả
năng tiếp cận tín dụng đã tăng lên rất nhiều, song vẫn còn khá nhiều người
nghèo, đặc biệt là người rất nghèo, không có khả năng tiếp cận với các nguồn
tín dụng. Một mặt những người nghèo do không có tài sản thế chấp, họ phải dựa
vào tín chấp với các món vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả
vốn. Mặt khác, đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử
dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ không có điều kiện
tiếp cận các nguồn vốn, và cuối cùng cũng làm cho họ nghèo hơn.
2.4 Nguy cơ dễ bị tổn thương và sự cô lập .
Các hộ gia đình nghèo dễ bị tổn thương bởi những khó khăn hàng ngày
và những biến động bất thường xảy ra đối với cá nhân, gia đình hay cộng đồng.

Do nguồn thu nhập của họ rất thấp, bấp bênh, khả năng tích luỹ kém nên họ khó
có khả năng chống trọi với những biến cố xảy ra trong cuộc sống (mất mùa, mất
việc làm, thiên tai, mất nguồn lao động, mất sức khoẻ…). Đối với khả năng
kinh tê mong manh của các hộ gia đình nghèo trong khu vực nông thôn, những
đột biến này sẽ tạo ra những bất ổn lớn trong cuộc sống của họ.
Các rủi ro trong sản xuất kinh doanh đối với người nghèo cũng rất cao, do
họ không có trình độ tay nghề và thiếu kinh nghiệm làm ăn. Khả năng đối phó
và khắc phục các rủi ro của người nghèo cũng rất kẽm do nguồn thu nhập hạn
hẹp làm cho hộ gia đình mất khả năng khắc phục rủi ro và có thể còn gặp rủi ro
hơn nữa.
Hàng năm số người phải cứu trợ đột xuất do thiên tai khoảng từ 1- 1,5
triệu người. Bình quân hàng năm, số hộ tái đói nghèo trong tổng số hộ vừa thoát
khỏi đói nghèo vẫn còn lớn, do ít số hộ đang sống ở bên ngưỡng đói nghèo và
rất dễ bị tác động bởi các yếu tố rủi ro như thiên tai, ốm đau, mất việc làm ….
Các phân tích từ cuộc điều tra hộ gia đình 1992- 1993 và 1997- 1998 cho
thấy các hộ gia đình phải chịu nhiều thiên tai nguy cơ dễ lún sâu vào đói nghèo.
Điều này chỉ ra vai trò quan trọng của việc giảm nhẹ hậu quả thiên tai như là
một thước đo chủ yếu để đánh giá xóa đói giảm nghèo .
2.5 Sức khoẻ yếu kém cũng là nhân tố chính đẩy con người vào tình
trạng nghèo đói trầm trọng.
Vấn đề sức khoẻ kém ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và chỉ tiêu của
người nghèo do mất đi nguồn lao động và tăng chi phí cho chữa chạy các đột
biến về chi phí y tế, là một trong những nguyên nhân khiến người nghèo rơi vào
tình trạng khốn quẫn.
Gánh nặng chi phí bảo vệ sức khoẻ đối với người nghèo cũng là một cái
bẫy đẩy người nghèo luẩn quẩn trong vòng đói nghèo. Họ phải chịu đựng hai
gánh nặng: thứ nhất là mất thu nhập do người lao động đem lại và thứ hai là chi
phí thuốc thang chữa bệnh cho người ốm (liên quan đến thu nhập và tài sản gia
đình). Không giống như cong nhân và công chức nhà nước, những người có thu
nhập cố định, người nghèo phần lớn là tự lao động và do vậy họ mất thu nhập

mà hộ không lao động do ốm đau, bệnh tật hay sức khoẻ yếu. Chi phí chữa bệnh
là gánh nặng đối với người nghèo và đẩy họ đến chỗ vay mựơn, cầm cố tài sản
làm cho họ khó có thể thoát ra khỏi đói nghèo.
Tuy có sự cải thiện đáng kể về tình trạng sức khoẻ ở Việt Nam trong thập
kỷ qua, song sự bất bình đẳng lại tăng lên. Tỷ lệ người nghèo mắc các bệnh
thông thường khác cao. Theo số liệu điều tra mức sống năm 1998, số người ốm
bình quân của nhóm người nghèo là 3,07 ngày/ năm so với khoảng 2,4
ngày/năm của nhóm giàu nhất.

×