Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Quan hệ phát sinh của các ngành động vật ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (238.96 KB, 11 trang )



Quan hệ phát sinh của
các ngành động vật



Hiện nay đã biết khoảng 40 ngành
động vật, mỗi ngành được đặc
trưng bằng một sơ đồ cấu trúc cơ
thể riêng, ở một mức độ tổ chức
nhất định.
Từ kỷ Cambri đến nay động vật
tiến hoá theo hướng làm phong phú
thêm các đơn vị phân loại trong
từng ngành động vật chứ không
xuất hiện thêm ngành mới nào.
Với phát hiện hoá thạch ở giai
đoạn phôi giống với phôi của
động vật chân khớp trong trầm
tích ở Nam Trung Quốc có 570
triệu năm tuổi cho thấy động vật
Đa bào đã xuất hiện trước bùng nổ
Cambri nhiều, nhưng vì một lý do
nào đó vết tích của động vật đã
không được giữ lại dưới dạng hoá
thạch (ví dụ điều kiện môi trường
Quả đất không thích hợp). Dẫn liệu
này phù hợp với dẫn liệu của các
nhà phân loại học dựa trên sinh
học phân tử cho rằng động vật


Đa bào ít nhất xuất hiện trước
Cambri bùng nổ 100 triệu năm.
Tuy nhiên có thể thấy rằng,
đến bùng nổ Cambri (cách nay
530 triệu năm) đại diện của các
ngành động vật đa bào đã xuất
hiện. Tuy còn nhiều ý kiến tranh
luận nhưng nhiều nhà sinh vật học
đã chấp nhận quan điểm đơn phát
sinh (monophyletic) của giới động
vật, tức là tất cả các động vật có
chung một nguồn gốc. Trong quá
trình phân ly, tiến hoá chọn lọc đã
hình thành nên các loài động vật
hiện sống, ở trên các nhánh
(ngành), cành (lớp) Vì vậy người
ta đã thể hiện mối quan hệ phát
sinh chủng loại trên sơ đồ một cây,
một gốc, trên đó toả ra nhiều
nhánh, rồi các nhánh lại toả ra
nhiều cành (hình 12.1). Hình 12.1
là một trong các cây phát sinh động
vật được xây dựng trên quan điểm
đơn phát sinh nhằm giới thiệu quan
hệ phát sinh giữa các ngành động
vật.
Trên hình này có ghi chú 2 môi
trường sống lớn, phản ánh quá trình
chuyển từ đời sống dưới nước lên
trên cạn và ghi chú các giai đoạn

phát triển cá thể của động vật Đa
bào, tương ứng với mức độ tổ chức
của các ngành động vật. Trên hàng
ngang giới thiệu các mức độ tổ
chức của các ngành và của các lớp
(ở các ngành động vật lớn), các số
1, 2, 3 giới thiệu nơi toả ra các
hướng phân ly để hình thành các
ngành mới hay các nhóm mới trong
tiến hoá. Ngoài ra đặc điểm của các
nhóm lớn trong ngành cũng được
giới thiệu.


Sơ đồ quan hệ phát sinh của các
ngành động vật (theo Thái Trần
Bái)

Cuối thế kỷ, nhiều dẫn liệu mới về
cấu trúc hiển vi và siêu hiển vi, về
phát triển cá thể và đặc biệt là về
cấu trúc phân tử của gen của một số
loài động vật đã cho thấy có nhiều
vấn đề mới có liên quan đến phát
sinh chủng loại của các ngành động
vật. Có thể nêu các vấn đề sau:
Ngày càng có nhiều dẫn liệu để
chứng minh sự hình thành hai
nhóm động vật Có miệng nguyên
sinh (Protostomia) và động vật Có

miệng thứ sinh (Deuterostomia).
Ngoài các đặc điểm sai khác về sự
phân cắt trứng (xoắn ốc hay phóng
xạ, xác định hay không xác định),
về sự hình thành lá phôi thứ 3 (từ
phôi bào 4d hay một phần của ruột
nguyên thuỷ), về cách hình thành
thể xoang (phân tách hay lõm ruột),
về số lượng của đôi túi thể xoang
(nhiều hơn 3 đôi hay ít hơn 3 đôi)
và về quan hệ giữa miệng phôi với
miệng con trưởng thành (miệng con
trưởng thành được hình thành từ
miệng phôi hay hình thành mới)
vẫn được dùng để phân biệt 2
hướng tiến hoá.
Ngoài ra còn được bổ sung một số
đặc điểm phân biệt khác như so
sánh ấu trùng vận chuyển bằng
lông bơi của động vật Có miệng
nguyên sinh (ĐVCMNS) và động
vật Có miệng thứ sinh (ĐVCMTS)
thì nhóm ĐVCMTS mỗi tế bào chỉ
có một lông bơi, còn ở nhóm
ĐVCMNS thì mỗi tế bào có nhiều
lông bơi. Hoạt động đưa thức ăn
vào miệng ngược dòng nước hay
xuôi dòng nước cũng khác nhau ở 2
nhóm. Các dẫn liệu so sánh về cấu
trúc phân tử của các đoạn gen 18S

rARN cũng cho thấy rõ sự sai khác
nhau này. Ngày nay càng có nhiều
nghi vấn khi sử dụng các loại
xoang cơ thể (không có xoang, có
xoang giả và có xoang chính thức)
như là một tiêu chuẩn để xác định
quan hệ phát sinh chủng loại. Rõ
ràng động vật Có thể xoang có ưu
thế chọn lọc.
Ví dụ khoảng trống giữa thành cơ
thể và thành ruột giúp nội quan có
thể thay đổi vị trí hay độ lớn mà
không ảnh hưởng đến toàn bộ cơ
thể, dịch thể xoang có nhiều chức
phận quan trọng, hoạt động của thể
xoang như là một bộ xương nước
giúp cho nhiều loài động vật di
chuyển
Tuy nhiên nếu xét về quá trình hình
thành xoang cơ thể thì ít nhất có 3
lần hình thành xoang cơ thể độc lập
trong tiến hoá của động vật. Một
lần từ xoang phôi (hình thành nên
xoang giả của động vật Có xoang
giả), một lần từ phần lõm của ruột
(để hình thành thể xoang của động
vật Có miệng thứ sinh) và một lần
tách ra từ khối tế bào lá phôi giữa
(để hình thành thể xoang của động
vật Có miệng nguyên sinh). Mặt

khác một số nhóm động vật lại hình
thành và tiêu giảm thể xoang rất dễ
dàng. Ví dụ như ở giun đốt thì thể
xoang rất phát triển, trong khi đó
lại tiêu giảm rất nhiều ở đỉa, hay
một số giun tròn không có “xoang
giả”. Có thể nghĩ rằng, ở mức độ
thấp việc xuất hiện khoảng trống
giữa thành cơ thể và thành ruột
được xem như là một đặc điểm
thích nghi hơn là đặc điểm tiến hoá.
Nếu vậy thì giun dẹp, giun tròn có
đủ tiêu chuẩn để được xếp vào
nhóm động vật Có miệng nguyên
sinh.
Về vị trí của giun tròn và một số
ngành động vật có xoang giả khác
trên cây phát sinh vẫn đang có
nhiều ý kiến. Kết quả phân tích so
sánh cấu trúc phân tử của mã di
truyền và lớp cuticula bao bọc cơ
thể của động vật thuộc giun tròn,
giun cước và động vật chân khớp
cho thấy giun tròn và giun cước
gần chân khớp hơn là gần với giun
dẹp
và giun đốt. Do vậy một số tác giả
đề nghị xếp giun tròn và chân khớp
vào một một nhóm chung là nhóm
động vật lột xác (Ecdysozoa).

Thảo Dương

×