Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Nguy cơ động đất ở Việt Nam ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (596.66 KB, 31 trang )

Luận văn
Nguy cơ động đất ở Việt
Nam
1
Mục lục
Hoàng Thị Trang 532468 3
I. Đặt vấn đề 4
1.Khái niệm: 5
2. Nguyên nhân gây ra động đất 6
2
Động đất ở Việt Nam
Nhóm 10
Nguyễn Thị Hường 532427
Trần Duy Khánh 532431
Chử Bảo Long 532437
Đỗ Thị Miền 532440
Trương Thị Thúy 532463
Hoàng Thị Trang
532468
3
I. Đặt vấn đề.
Trong lịch sử tồn tại và phát triển, nhân loại luôn luôn phải đương
đầu với các tai họa thiên nhiên, như lũ lụt, hạn hán, bão tố, động đất, sóng
thần, núi lửa… Trong các tai họa thiên nhiên đó, có lẽ động đất là tai họa
khủng khiếp nhất, đáng sợ nhất mà con người luôn phải hứng chịu từ bà
mẹ thiên nhiên. bởi vì chỉ trong vài giây đồng hồ cả một thành phố có thể
bị sụp đổ hoàn toàn, cả một khu vực có thể bị sụt lún và đôi khi những
dòng sông cũng bị đổi dòng do hậu quả của những trận động đất cực
mạnh. Điều đáng sợ hơn là cho đến nay khoa học và kỹ thuật đương đại
vẫn chưa dự báo chính xác thời điểm và địa điểm động đất sẽ xảy ra. Do
đó, con người chưa có biện pháp phòng chống chủ động đối với từng trận


động đất, như phòng chống bão hay lũ lụt. Tại hội thảo khoa học quốc tế
“Nguy cơ động đất tại Việt Nam” diễn ra 12/3/2009 tại Hà Nội, các nhà
khoa học Việt Nam và quốc tế đều khẳng định, Việt Nam nằm ở khu vực
ít có nguy cơ động đất lớn và tần suất diễn ra động đất cũng thấp. Tuy
nhiên điều đó không có nghĩa là Việt Nam sẽ tránh được những thảm họa
khi động đất diễn ra Đảng và nhà nước rất quan tâm tới công tác dự báo
động đất, các phương pháp phòng tránh cũng như cách ứng cứu khi xảy ra
động đất nhắm giảm thiểu thiệt hại về người và của do động đất và các tai
biến gây ra.
4
II. Nội dung
1.Khái niệm:
Động đất là kết quả của hiện tượng đứt gãy thình lình sâu bên dưới mặt
đất, do sự di chuyển trái chiều của hai khối địa chất dọc theo một hệ thống
đường đứt gãy thẳng đứng hoặc trượt ngang. Động đất tại Việt Nam có kiểu
mẫu đứt gãy ngang. Nói một cách đơn giản, động đất là những rung động
của mặt đất, mạnh yếu khác nhau và cảm nhận đựơc trên một vùng rộng.
Chúng ta có thể so sánh động đất với vụ nổ bên trong lòng đất. Nhưng nói
theo ngôn ngữ khoa học, thì động đất là sự giải thoát đột ngột một lượng
năng lượng lớn tích tụ trong một thể tích nào đó bên trong Trái đất. Thể tích
tích tụ năng lượng đó gọi là vùng chấn tiêu hay lò động đất và tâm của vùng
gọi là chấn tiêu. Vị trí hình chiếu trên bề mặt của Trái đất, nằm ngay trên
chấn tiêu gọi là chấn tâm. Khoảng cách giữa chấn tiêu và chấn tâm gọi là độ
sâu chấn tiêu (hình 1 ).
5
Thời gian để năng lượng giải thoát tại vùng chấn tiêu rất ngắn, tính
bằng giây, nên ta coi động đất gần như là một sự bùng nổ tức thời. Bên
ngoài vùng chấn tiêu các biến dạng của môi trường đất đá được truyền đi
dưới dạng sóng đàn hồi và được gọi là sóng động đất. Chịu tác động của
sóng động đất đến bề mặt, mặt đất sẽ rung động. Biên độ của các rung động

nói chung nhỏ cỡ phần mười milimet và chu kỳ rung động nằm trong
khoảng 1/100 đến 100 giây. Do đó để ghi các rung động này các máy ghi
động đất phải có bộ phận khuếch đại. Sóng động đất truyền năng lượng động
đất đến các vị trí trên mặt đất (tất nhiên năng lượng sẽ giảm dần !). Đường
nối các điểm có năng lượng động đất như nhau biểu thị qua cấp động đất gọi
là đường đẳng chấn.
2. Nguyên nhân gây ra động đất
2.1. Nguyên nhân nội sinh
6
Động đất mạnh chỉ xảy ra trong những đới nhất định. Đó là những đới
đứt gãy địa chất sâu hoạt động, phân cách các địa khối đang vận động đối
với nhau. Đứt gãy càng lớn, chuyển động của các địa khối theo đứt gãy càng
nhanh thì động đất xảy ra trong đới càng lớn, càng thường xuyên hơn. Ở
nước ta cũng vậy, động đất mạnh hơn 4,0 độ Richter chỉ xảy ra trong những
đới đứt gãy sâu đang hoạt động. Nước ta có kiến tạo địa chất tiềm ẩn nhiều
nguy cơ động đất cao, tuy không xảy ra thường xuyên, vẫn có những trận
mạnh gây phá huỷ lớn. Việt Nam có 4 loại đứt gãy gây ra động đất
Loại 1: Gồm các đứt gãy sông Mã, Pu Mây Tun - Sốp Cộp, gắn liền
với các hệ đứt gãy cùng tên (thuộc các tỉnh: Thanh Hóa, Ninh Bình, Sơn La,
Lai Châu) có thể phát sinh động đất cấp 8 - cấp 9 theo thang MSK; những
trận động đất mạnh nhất trên lãnh thổ VN từng xảy ra tại đây.
Loại 2: Gồm các đứt gãy sâu Lai Châu - Điện Biên, sông Hồng, sông
Chảy, sông Cả - Rào Nậy và đứt gãy Tây biển Đông (từ vĩ tuyến 13 đến vĩ
tuyến 19), biểu hiện phát sinh động đất ở đây yếu hơn trong các đứt gãy loại
1 (loại cấp 8) nhưng trong quá khứ đã xuất hiện nhiều trận động đất mạnh.
Loại 3 (cấp 7 ): Gồm hệ đứt gãy sâu Đông Triều, dọc theo sông Lô,
Hòa Bình, Yên Bái và tại nhiều nơi thuộc khu vực từ vĩ tuyến 17 trở vào
Nam.
Loại 4 (cấp 6 ): Gồm các đứt gãy Cao Bằng - Tiên Sơn, Sông Đà,
Mường Tè, Mường Nhé, hệ đứt gãy Đăkrông - Huế, Trà Bồng, Ba Tơ -

Củng Sơn, sông Ba.
(Nguồn: Viện Vật lý Địa cầu)
7
8
Bản đồ phân bố động đất taị Việt Nam của Nhật:
Bản đồ này được làm theo mô hình, mỗi điểm là 1 tâm động đất. Gồm
các lớp 0-10km (có 323 tâm động đất), 10-30km (có 374 tâm động đất), 30-
50km (có 507 tâm động đất), 50-100km (có 417 tâm động đất), 100-200km
(có 119 tâm động đất):
2.2. Động lực nhân sinh
Theo các chuyên gia địa chất. Ở Việt Nam việc xảy ra động đất kích
thích ở những vùng hồ chứa lớn sau khi tích nước là hoàn toàn có khả năng.
Nguy cơ này cũng đã được nghiên cứu đánh giá cho nhiều vùng hồ như: Hòa
Bình, Sơn La, Lai Châu, Yaly…Các tính toán cho thấy các hồ chứa nói trên
khi tích đầy nước sẽ gây ứng suất gia tăng 3 - 5 bar, xấp xỉ một phần trăm
ứng suất phá hủy đá núi, ở độ sâu 3 km. Ứng suất gia tăng rất nhỏ nhưng có
thể kích thích xảy ra dịch trượt (động đất) ở những nơi ứng suất kiến tạo đã
được tích lũy đến mức tới hạn
3. Các trận động đất lớn xảy ra ở Việt Nam trong những năm gần
đây:
Trong lịch sử đã ghi nhận những trận động đất mạnh 6,7 - 6,8 độ
Richter tại khu vực Tây Bắc, trong khi ở ngoài khơi, trên thềm lục địa đông
nam đất nước cũng đã xuất hiện động đất mạnh 6,1 độ Richter. Vùng phía
Nam cũng không nằm ngoài vùng ảnh hưởng của động đất. Tính đến năm
2003, nước ta có hơn 1.600 trận động đất mạnh từ 3 độ richter trở lên
Trận động đất lớn nhất ở Việt Nam trong vòng 100 năm qua là trận
động đất 6,8 độ Richter ở Tây Nam Điện Biên Phủ xảy ra lúc 23 giờ 22 phút
9
ngày 1 tháng 11 năm 1935 với cấp động đất bề mặt là 8-9. Tại Lai Châu,
chấn động xảy ra ở cấp 7. Bản đồ đẳng chấn của trận động đất Điện Biên

năm 1935 do Robert vẽ lần đầu vào năm 1935, theo đó thì chấn động cực đại
tại vùng chấn tâm là cấp 9. Sau đó, qua công tác điều tra động đất trong nhân
dân, Nguyễn Hữu Thái đã vẽ lại vào năm 1966. Theo kết quả này thì chấn
động cực đại tại vùng chấn tâm chỉ đạt cấp 8-9 thang MSK-64. Và như vậy,
chấn cấp động đất khoảng 6,8 độ Richter, độ sâu chấn tiêu là 25 km.
1953 và 1954, tại vùng Lục Yên, Yên Bái đã xảy ra hai trận động đất
có cường độ chấn động cực đại tại vùng chấn tâm là cấp 7 (thang MSK).
Vùng chấn động cấp 7 này kéo dài tới 30 km theo hướng Tây Bắc-Đông
Nam, hẹp và trùng với đứt gãy Sông Hồng. Dựa trên cơ sở đường đẳng chấn,
các nhà địa chấn của Viện Vật lý địa chấn xác định được thông số của động
đất như sau: chấn cấp là 5,4 độ Richter, độ sâu chấn tiêu là 16 km. Hai trận
động đất này không được ghi nhận bởi mạng lưới trạm địa chấn quốc tế. Nó
được phát hiện hoàn toàn bằng công tác điều tra động đất trong nhân dân.
Đây cũng là một trong số những trận động đất mạnh nhất đã xảy ra dọc đứt
gãy Sông Hồng trong phạm vi lãnh thổ nước ta.
Ngày 12/6/1961 tại Tân Yên, cách thị xã Bắc Giang 11 km về phía
Đông Bắc. Cường độ chấn động ở vùng chấn tâm đạt cấp 7, làm hư hại vừa
một số nhà cấp 4. Vùng chấn động cấp 7 rất hẹp, trong khi vùng chấn động
cấp 6 và cấp nhỏ hơn lại rất rộng. Điều này có thể lý giải là do hiệu ứng cục
bộ của chấn tiêu nằm gần sát mặt đất. Độ sâu chấn tiêu của động đất này
được xác định là 28 km. Chấn cấp của động đất theo các nhà địa chấn Việt
Nam là 5,3 - 5,9 độ Richter, trong khi theo tài liệu của Cục Địa chấn Trung
Quốc và USGS thì chỉ nằm ở mức 4,3 - 5,0 độ Richter.
10
Năm 1968, trận động đất 5,5 độ richter xảy ra ở Nhã Nam, Yên Thế
(Bắc Giang).
Hai trận động đất xảy ra ngày 12-4-1970 và 24-5-1972 ở phía Tây thị
xã sông Cầu (Phú Yên). Đều có cường độ chấn động cấp 7 tại vùng chấn
tâm, được phát hiện bằng quan trắc động đất và cả bằng điều tra động đất
trong nhân dân. Hai chấn tâm này cách nhau 20 km theo phương kinh

tuyến, vì vậy khi điều tra khó tách biệt được đường đẳng chấn nên bị gộp lại
thành một đường đại diện chung. Độ sâu chấn tiêu 13 km và chấn cấp M =
5,3 độ Richter là đặc trưng chung cho cả hai động đất này.
11
14h18 ngày 24/6/1983 Trận động đất 6,7 độ Richter trong vùng núi
cách thị trấn Tuần Giáo ( Điện Biên ) về phía bắc khoảng 11 km. Chấn cấp
của động đất được xác định là Ms = 6,7±0,2 độ Richter. Cường độ chấn
động trong vùng cực động I
0
= 8-9 (thang MSK). Động đất gây chấn động
mạnh trên những vùng rộng lớn ở Tây Bắc Bộ, Đông Bắc Bộ, Lào và Trung
Quốc. Chấn động cấp 8 và mạnh hơn xảy ra trên diện tích 1.500 km2, cấp 7
và mạnh hơn là 13.000 km
2
. Sau chấn động chính là hàng loạt dư chấn đã
xảy ra. Dư chấn mạnh nhất xảy ra vào ngày 15/7/1983 ngay trong vùng cực
12
động và có chấn cấp bằng 5,4 độ Richter, độ sâu chấn tiêu là 8 km và gây
chấn động trên bề mặt tại vùng chấn tâm với I
0
= 7-8.
Bản đồ đường đẳng chấn của trận động đất Tuần Giáo
(*) Nơi đứt đoạn của mội trường đất đá dẫn tới sự dịch chuyển tương đối ở
hai bên.
Ngày 23/5/1989 Ở vùng hồ Hòa Bình ( tỉnh Hòa Bình) chỉ bốn tháng
sau khi tích nước hồ chứa đến cao trình 86m xảy ra trận động đất mạnh 4,9
độ richter
13
Ngày 23/6/1996 tại xã Mường Luân thuộc huyện Điện Biên Đông
(tỉnh Điện Biên) đã xảy ra động đất với chấn cấp xấp xỉ 5,0 độ Richter.

22 giờ 52 phút Ngày 19/1/2001, động đất 5,3 độ richter xảy ra giáp
ranh biên giới Việt – Lào( cách thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên
khoảng 12km).
21h25 ngày 7/1/2005 tại toạ độ 19,02 độ vĩ bắc và 105,3 độ kinh
đông, cách Đô Lương (Nghệ An) 10 cây số về phía bắc. Trận động đất có độ
mạnh 4,7 độ Richter, gây chấn động cấp 6-7 trên mặt đất ở vùng chấn tâm
12h45 ngày 17/7/2005, một trận động đất mạnh 4,5 độ Richter đã xuất
hiện tại cao nguyên Đồng Văn (tỉnh Hà Giang).
0h15 sáng, ngày 8/11/2005 trận động đất cường độ là 5,1 độ richter
xảy ra tại khu vực Nam Bộ, tọa độ trận động đất ở 10 độ vĩ Bắc, 108 độ kinh
Đông, ngoài khơi Biển Đông cách bờ biển Vũng Tàu 100 km, nằm trong
vùng giao nhau của các đới đứt gãy Nam Côn Sơn, Thuận Hải - Minh Hải -
Cà Mau và đứt gãy kinh tuyến 110 ngoài khơi Biển Đông.
14h55 chiều 8/11/2005 trận động đất với cường độ 5,5 độ richter là ở
tọa độ 9,72 độ vĩ Bắc, 108,22 độ kinh Đông
22h Đêm 28/11/2007, một trận động đất cường độ 4,5 đến 5 độ
richter tại tâm chấn xảy ra trên đới đứt gãy Bình Thuận - Vũng Tàu
13h27 giờ ngày 3/3/2008, một trận động đất có cường độ 4,5 độ
Richter đã xảy ra tại vị trí có tọa độ 22,62 vĩ độ Bắc, 102,36 kinh độ Đông
(thuộc địa phận huyện Mường Tè, Lai Châu) với độ sâu chấn tiêu là 4,4 km.
14

11h50 phút trưa Ngày 26/11/2009 trận động đất mạnh 4,2 độ richter ở
huyện Bắc Yên, thuộc đới đứt gãy Mường La - Bắc Yên-Sơn La. Tâm chấn
nằm ở độ sâu 10-15 km, cách thành phố Sơn La 38 km về phía Đông Đông
Nam và cách công trình thủy điện Sơn La 37 km về phía Đông Nam".
8h57 sáng 23/6/2010 xảy ra trận động đất 4,7 độ richterở đoạn đứt
gãy trũng Cửu Long, Nam Côn Sơn, Tỉnh Vũng Tàu đã gây ra dư chấn từ
cấp 2 đến cấp 4 ở Sài Gòn
16h chiều 19/9/2010, một trận động đất đã xảy ra tại huyện Quan

Sơn, Thanh Hóa Trận động đất mạnh 3,6 độ richter, tâm chấn nằm ở độ sâu
10 km dưới lòng đất. Nguyên nhân gây ra trận động đất là do đới đứt gẫy
sông Mã.
Tần suất sảy ra động đất trên toàn lãnh thổ trung bình
6 năm có 5 lần động đất cấp 6 với M 4,5 độ Richter
7 năm có 2 lần xảy ra động đất cấp 7 – 8 với M 5,5 độ Richter
>29 năm xảy ra 1 lần động đất cấp 8 với M 6 độ Richter.
Vùng Tây Bắc là nơi động đất xảy ra thường xuyên nhất.
2 năm xảy ra một lần động đất cấp 6 với M 4,5 độ Richter
5 năm xảy ra 1 lần động đất cấp 7 với M 5 độ Richter
13 năm xảy ra 1 lần động đất cấp 7 – 8 với M 5,5 độ Richter.
>30 năm xảy ra 1 lần động đất cấp 8 với M 6 độ Richter.
4. Thiệt hại của động đất tại Việt Nam.
4.1 Đối với con người và xã hội.
15
Động đất đã gây ra những thiệt hại không nhỏ về người làm chết và bị
thương. Ảnh hưởng đến kinh tế: phá hủy các công trình vật chất, nhà cửa,
đường giao thông…
Động đất xảy ra lúc ngày 1/11/1935 Điện Biên Phủ có độ lớn M =
6,75 độ Richter. Động đất này đã gây hư hại nặng nhà xây ở thị trấn Điện
Biên, còn ở Sơn La các tường nhà bị nứt nẻ.
Trận động đất năm 1983 đã gây thiệt hại nặng nề nhất cho thị trấn
Tuần giáo: 30% nhà gạch cấp 4 bị hư hại nặng, tường nứt rộng từ vài
xentimet đến gần 10 cm. Chỉ nhà gỗ, nhà tre mới ít bị hư hại. Động đất
cũng gây hư hại nhẹ và vừa đối với nhà xây gạch ở các thị xã Lai Châu,
Điện Biên và một số nơi khác. Động đất này đã làm sụt lở lớn ở các dãy
núi trong vùng chấn tâm, vùi lấp 200 ha ruộng lúa trong thung lũng và
nhiều đoạn đường giao thông đất nứt rộng đến 10 – 15 cm, kéo dài từng
đoạn từ vài chục mét đến vài trăm mét trên chiều dài gần 20 km nhiều
mạch nước bị mất đồng thời xuất hiện nhiều mạch nước mới. Đá lở đã làm

hàng chục người chết và bị thương, nhiều ruộng lúa bị vùi lấp phải 8 tháng
sau vùng Tuần giáo mới trở lại yên tĩnh. Đây là sự kiện nổi bật trong hoạt
động địa chấn hiện đại ở nước ta.
16
Thiệt hại nhà cửa do động đất Tuần Giáo năm 1983 gây ra.
Chỉ tính riêng trận động đất ngày 19/2/2001 với chấn cấp đạt 5,3 độ
Richter ở khu vực thị xã Điện Biên Phủ, tỉnh Lai Châu đã làm thiệt hại gần
200 tỷ đồng, nhiều người bị thương và đã gây ra sự hoang mang cao độ cho
nhân dân.
17
4.2 Đối với môi trường
Theo đánh giá của các nhà khoa học, động đất là một trong những tác
nhân gây ra thảm hoạ sóng thần, sạt lở đất.
Sóng thần xảy ra tại vùng biển Nha Trang vào năm 1923. Dự cố này
liên quan đến động đất 6,1 độ Richter ở đảo Hòn Tro.
Động đất ở Điện Biên năm 1935 làm cho vùng chấn tâm đất nứt rộng
đến 20 cm, có đoạn dài đến 50 m.
Động đất 1983 tại Tuần Giáo gây ra sụt lở các núi ở vùng chấn tâm,
lở đá.
5. Phương pháp nghiên cứu và dự báo động đất ở Việt Nam:
5.1 Phương pháp nghiên cứu khoa học địa chất.
18
Nghiên cứu địa chất ( Ghi sóng địa chấn, theo dõi sự dao động mực
nước giếng, nước ngầm, theo dõi sự bốc khí radon, thay đổi bề mặt địa hình,
ứng dụng công nghệ GIS trong nghiên cứu địa chất )
Phương pháp nghiên cứu khoa học địa chất là sử dụng các trạm
quan trắc.
Từ năm 1976 trên phạm vi miền Bắc Việt Nam đã có 5 trạm quan trắc
động đất hoạt động liên tục và đồng bộ (Phù Liễn, 1924; Sa Pa, 1961; Bắc
Giang, 1962; Tuyên Quang và Hoà Bình, 1972). Các trạm địa chấn này đã

ghi nhận được khá đầy đủ số liệu về các trận động đất trên lãnh thổ Bắc Việt
Nam và vùng lân cận. Ở miền Nam Việt Nam, trạm địa chấn Nha Trang đã
được khôi phục lại vào năm 1978 (xây dựng năm 1957) và xây dựng thêm
trạm Đà Lạt vào năm 1980. Các trạm địa chấn Điện Biên, Lai Châu, Vinh và
Hà Nội được xây dựng năm 1990. Sau đó, trong 1994-1995 xây dựng thêm
các trạm Sơn La và Huế. Sau năm 1996, nhờ sự quan tâm đầu tư của Nhà
19
Trạm quan trắc động đất
ở Từ Liêm-Hà Nội
nước, Viện Vật lý Địa cầu lại mở rộng thêm mạng lưới trạm và đến hết năm
2007, tổng số trạm thuộc mạng lưới quốc gia đã tăng lên thành 24. Với hệ
thống trạm như vậy, có khả năng ghi đầy đủ động đất có chấn cấp Ms ≥ 3,0
trên phạm vi miền Bắc và Ms ≥ 4,0 trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Ở miền Tây
Bắc Bộ, mật độ trạm dày hơn, nên có thể ghi nhận được động đất có chấn
cấp lớn hơn 1,0 độ Richter. Ngoài ra, tại các vùng hồ chứa lớn như Hoà
Bình, Ya Ly, Sơn La, dọc theo đới đứt gãy Sông Hồng còn có những trạm
địa chấn tạm thời nhằm nghiên cứu sự thay đổi môi trường địa chấn trong
quá trình xây dựng và vận hành nhà máy thuỷ điện
Động đất mạnh chủ yếu xảy ra ở Miền Bắc nên 23 trong tổng số 26
trạm quan trắc động đất (đo địa chấn) ở Việt Nam được đặt ở miền Bắc,
trong đó có một trạm ở Vinh. Ba trạm còn lại được đặt ở Huế, Nha Trang và
Đà Lạt. chỉ cần thêm 24 trạm nữa là đủ khả năng theo dõi toàn bộ chấn động
trong lòng đất tại Việt Nam. Ðể tăng cường năng lực cho hoạt động quan
trọng này, năm 2009 Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã triển khai
dự án với tổng kinh phí khoảng 90 tỷ đồng, tuy vậy trong tương lai còn phải
tiếp tục đầu tư. Phấn đấu đến năm 2012, xây dựng được một hệ thống gồm
30 trạm địa chấn và trung tâm xử lý số liệu động đất, có khả năng ghi nhận
đầy đủ, nhanh chóng và xác định kịp thời thông số của các trận động đất với
các quy mô khác nhau, góp phần ứng phó, giảm nhẹ thiên tai và phát triển
kinh tế - xã hội đất nước.

Tại Việt Nam hệ thống máy móc của Trung tâm Động đất và Cảnh
báo Sóng thần (Viện Vật lý Địa cầu) đã được kết nối với thế giới. Khi một
trận động đất ở bất cứ nơi đâu diễn ra Trung tâm sẽ nhận được thông tin sau
3-5 phút về độ mạnh, thời gian, khu vực Trên cơ sở các kết quả xử lý dữ
20
liệu địa chấn nhận được trực tiếp từ mạng lưới đài trạm quan trắc quốc gia
và một phần từ mạng lưới đài trạm địa chấn thế giới, tất cả các trận động đất
xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam với độ lớn từ 3,5 độ Richter trở lên sẽ được
Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng thần thông báo cho các cơ
quan quốc gia có chức năng truyền bá thông tin và ứng phó nhanh nhất,
trong đó các cơ quan được cấp báo đầu tiên là Đài Truyền hình và Đài Tiếng
nói Việt Nam, Ban chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương và Ủy ban
Quốc gia Tìm Kiếm và Cứu nạn.
Xử lý số liệu động đất tại Trung tâm Báo tin động đất và Cảnh báo sóng
thần
Từ năm 2007, Trung tâm báo tin động đất và cảnh báo sóng thần đã
được thành lập tại Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Với cơ sở vật
chất và trang thiết bị hiện có, các trận động đất xảy ra trên lãnh thổ nước ta
(như năm 2009 ở Sơn La) và các quốc gia khu vực Ðông - Nam Á sẽ được
xác định một cách kịp thời. Dĩ nhiên hiện tượng sóng thần (xảy ra khi có
21
động đất từ 6,5 độ rích-te trở lên) xảy ra ở vùng Biển Ðông sẽ được ghi nhận
một cách dễ dàng và cảnh báo tức thì. Tuy nhân lực còn ít nhưng do tính
chất công việc nên phải tuân thủ chế độ trực 24/24 giờ mỗi ngày theo Quy
chế báo tin động đất và cảnh báo sóng thần của Chính phủ.
Sau khi đánh giá nguy cơ động đất, việc cảnh báo là vô cùng quan
trọng và hiện vẫn là vấn đề lớn của cả thế giới. Theo tiến sĩ Cao Đình Triều,
tại Việt Nam , các nhà khoa học đã có thể cảnh báo ở trung hạn (trong vòng
5-10 năm). Theo đó thì vùng có nguy cơ cao nhất về động đất ở nước ta là
Điện Biên. địa bàn này nằm trong vùng hoạt động địa chấn mạnh nhất nước

ta, chiếm 90% trận động đất cả nước.
5.2 Nghiên cứu hành vi của động vật:
Loài vật có thể cảm nhận được những kích thích của phản ứng lý - hóa
phát ra từ trong lòng đất trước khi động đất xảy ra. Do trước động đất,
những khối đá lớn dưới lòng đất phát ra sóng điện từ mà động vật có thể tiếp
nhận. Một giả thuyết khác là các con vật có khả năng cảm nhận các chấn
động yếu xuất hiện trước động đất, điều mà con người không có được.
Nghiên cứu phản ứng của loài vật sẽ giúp tạo ra những chiếc máy cảm biến
linh hoạt, điều này sẽ giúp ích rất nhiều trong công tác dự đoán không chỉ
đối với thảm họa động đất mà còn đối với các loại thiên tai khác như sóng
thần, mưa bão trong thời gian ngắn nhất.
6. Các biện pháp phòng tránh, giảm thiểu động đất.
6.1 Các địa phương và các Bộ, ngành liên quan phải xây dựng phương
án phòng tránh, đảm bảo thông tin liên lạc: tổ chức sơ tán dân, phương án
22
tìm kiếm cứu nạn và khắc phục hậu quả và vệ sinh môi trường và tổ chức
diễn tập. Đồng thời, Ban Chỉ đạo các địa phương tổ chức tuyên truyền, phổ
biến, nâng cao kiếm thức của cộng đồng về động đất, sóng thần và các giải
pháp phòng, tránh, đưa kiến thức cơ bản về phòng, tránh động đất và sóng
thần vào chương trình dạy
Tuyên truyền giáo dục về động đất, sóng thần và những quy định về
tổ chức ứng phó khi xảy ra động đất, sóng thần.
Cần chú trọng đến việc phổ
biến các kiến thức cơ bản về động đất cũng như các biện pháp giúp bảo đảm
an toàn khi động đất xảy ra là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu và phát triển các phương án, các phương tiện, hệ thống
tích trữ thực phẩm, phương tiện giao thông, thông tin, bệnh viện để sẵn
sàng đối phó kịp thời khi động đất xảy ra.
Giáo dục quần chúng hiểu biết về
động đất và phản ứng thích hợp khi động đất xảy ra.

6.2 Đối với việc xây dựng các hồ đập :
a) Hạn chế xây dựng các hồ đập nhân tạo khi chưa thực sự cần thiết. Lợi ích
của các hồ đập nhân tạo là không thể phủ nhận bên cạnh đó thì những tác hại
mà nó mang lại cũng không phải là nhỏ. Vậy làm gì để giảm thiểu những tác
hại đó là chỉ sử dụng đến biện pháp xây dựng các hồ đập này như là biên
pháp cuối cùng, khi các biện pháp khác không khả thi để giải quyết vấn đề
thiếu nước và thiếu điện. Để giải quyết vấn đề thiếu điện ta có thể tìn các
nguồn năng lượng khác như: năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng
lượng từ sinh khối,… là những nguồn năng lượng sạch và hầu như không
ảnh hưởng nhiều tới môi trường như đối với thuỷ điện. Các hồ chứa nước thì
ta có thể thay thế bằng các bể nhỏ tích trữ nước mưa, các hồ chứa với dung
23
tích bé hơn…
b) Giảm mức chứa các đập. Các hồ đập lớn được thay thế bằng các hồ đập
nhỏ hơn sẽ làm giảm thể tích và khối lượng khối đất đá tác động lên lên môi
trường địa chất. Chưa khẳng định nhưng, qua những trường hợp đã biết,
người ta nghiệm thấy rằng, các đặc trưng của hồ chứa như độ sâu, diện tích
hồ, dung tích hồ,… cũng là những yếu tố có ảnh hưởng lớn làm xuất hiện
các tai biến địa chất đặc biệt là động đất. Trong điều kiện địa chất thỏa mãn
điều kiện cần là có các đứt gãy kiến tạo về thủy văn với hồ chứa và ứng suất
kiến tạo ở đó, động đất kích thích mạnh nguy hiểm có thể xảy ra nếu thể tích
nước trong hồ lớn hơn 1 tỷ mét khối, độ sâu lớn hơn 90 m, diện tích mặt
thoáng lớn hơn 10 km
2
6.3 Các biện pháp khoa học kỹ thuật
Thiết kế kháng chấn cho các công trình xây dựng. Triển khai các
khảo sát và nghiên cứu địa chấn công trình phục vụ thiết kế kháng chấn cho
các công trình chịu động đất.Các công trình quan trọng ở Việt Nam chẳng
hạn như đập thuỷ điện được xây dựng bền vững để kháng chấn. Trong xây
dựng, để “chống lại động đất và sóng thần” cũng như chống lại gió, bão, lũ

lụt, trong điều kiện của nước ta, ứng dụng công nghệ EVG-3D panel là hữu
hiệu hơn cả, do các ưu điểm thi công nhanh, giá thành hạ, chất lượng cao.
Đây là công nghệ xuất phát từ nước Cộng hòa Áo và đã được chuyển giao
công nghệ vào Việt Nam. Với công nghệ EVG-3D panel, công trình có thể
chịu được bão có cường độ 300 Km/h; chịu được động đất đến 7,5 độ
richter. Sản xuất sỏi nhẹ Keramzit và bê tông Keramzit là loại vật liệu nhẹ
có khả năng chịu lực, cách âm, cách nhiệt tốt. Nhà xây bằng bê tông
Keramzit có khả năng giảm 50% trọng lượng so với xây dựng truyền thống.
24
Tường làm bê tông keramzit sẽ mỏng 1/2, nhẹ hơn 1,5 lần, công lao động sẽ
giảm 10 lần so với xây tường gạch.
Ứng dụng công nghệ GIS đánh giá độ nguy hiểm của động đất.
Công nghệ GIS là công nghệ cao chung được áp dụng trên hầu hết các nước
trên Thế giới và được áp dụng để xây dựng các công cụ phần mềm cho phép
đánh giá độ nguy hiểm động đất ở cả phạm vi khu vực lẫn phạm vi đô thị.
Tuy nhiên, hiện nay Trung tâm Động đất và Cảnh báo Sóng thần mới chỉ
mua được một phần của phần mềm đó. Một phần của Công nghệ GIS này đã
được ứng dụng để nghiên cứu, đánh giá độ rủi ro của động đất có thể gây ra
thiệt hại về người và của ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh vì Hà Nội nằm trên
vùng chấn động cấp 8, còn TP Hồ Chí Minh có thể bị ảnh hưởng lan truyền
do chấn động từ xa, đặc biệt là từ vùng thềm lục địa như Vũng Tàu gây ra
thiệt hại về nhà cửa cho TP Hồ Chí Minh. Đây là 2 đô thị lơn nhất nước ta
nếu xảy ra động đất sẽ gây ra hậu quả rất lớn về người và kinh tế.
Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong vùng có nguy cơ động
đất. Các vùng có nguy cơ về động đất, sóng thần phải được rà soát, bổ sung,
điều chỉnh quy hoạch phát triển kinh tế xã hội trên cơ sở tính toán đến yếu tố
tác động của động đất, sóng thần để hạn chế thiệt hại và bảo đảm phát triển
bền vững. Việc xây dựng công trình trong vùng có nguy cơ động đất phải có
giải pháp phù hợp để đảm bảo an toàn, đặc biệt đối với hồ chứa nước lớn,
nhà máy hóa chất độc hại, nhà cao tầng và các công trình cơ sở hạ tầng khác

Quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật xây dựng trong vùng có nguy cơ
động đất. Việt Nam cũng đã có Tiêu chuẩn TCXDVN 375:2006 “Thiết kế
công trình chịu động đất” Còn đối với các công trình xây dựng dân dụng
25

×