Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

BÀI GIẢNG TAI BIẾN MẠCH MÁU NÃO (Kỳ 2) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.66 KB, 5 trang )

BÀI GIẢNG TAI BIẾN
MẠCH MÁU NÃO
(Kỳ 2)

A- XUẤT HUYẾT NÃO: (Hémorragie cerébrate cerebral hemorrohage).
Não xuất huyết là do thành động mạch não bị bể và máu chảy vào tổ
chức não sinh bệnh. Bệnh thường gặp ở tuổi trên 50 có huyết áp cao hoặc xơ cứng
động mạch. Nam nhiều hơn nữ. Bệnh khởi phát đột ngột, triệu chứng lâm sàng chủ
yếu là hôn mê, liệt tay chân, méo mồm.
1- Triệu chứng lâm sàng:
Xuất huyết não thường xảy ra trong lúc bệnh nhân đang tỉnh táo, thường
có liên quan đến trạng thái tinh thần bị kích động đột ngột (trạng thái quá tức giận,
quá lo lắng, quá vui, quá buồn đau hoặc dùng lực quá mạnh làm cho huyết áp tăng
đột ngột gây nên).
a- Giai đoạn cấp diễn:
- Bệnh nhân đau đầu đột ngột, chóng mặt, buồn nôn, nôn, một bên người
yếu hoặc liệt, ý thức lú lẫn dần dần đến hôn mê, sắc mặt nóng đỏ, cổ gáy cứng,
mồm méo, liệt mặt, chảy nước dãi, thở nặng sâu, cổ khò khè, bụng đầy táo bón.
Phần lớn bệnh nhân sốt, huyết áp cao, mặt lưỡi nhiều ứ huyết, dưới lưỡi nổi gân
xanh, chất lưỡi đỏ hoặc đỏ thẫm, rêu lưỡi vàng nhớt hoặc vàng khô, mạch huyền
sắc đại.
- Bệnh nhẹ thì lúc tỉnh lúc mê, thân lưỡi cứng nói không rõ tiếng, bán thân
bất toại, tay chân run giật.
- Bệnh nặng thì hôn mê sâu, sắc mặt tái nhợt, chân tay liệt mềm, mình mẩy
lạnh ướt, hơi thở ngắn nhanh hoặc ngắt quãng, huyết áp hạ, đồng tử giãn, phản xạ
ánh sáng chậm hoặc mất hẳn, tiêu tiểu không tự chủ, mạch hư đại vô căn.
- Đối với những người có bệnh huyết áp cao, tiểu đường, bệnh tim, xơ cứng
động mạch não, béo phì thường có những triệu chứng báo trước như đau cổ đầu,
chóng mặt, tay chân tê dại, chảy máu cam, xuất huyết võng mạc mắt.
b- Giai đoạn hồi phục:
Sau một thời gian hôn mê từ mấy ngày đến mấy tuần thì bệnh nhân trở lại


tỉnh táo, có thể nuốt và uống nước được, hơi thở ổn định, sức khỏe chung tốt dần,
chân tay liệt có cử động hồi phục dần.
c- Giai đoạn di chứng:
Thường sau trên 6 tháng mắc bệnh, tình hình hồi phục chậm lại và để lại
những di chứng mức độ khác nhau như liệt chi, chân tay cơ bắp teo gầy, run giật
và đau nhức, trí lực giảm sút hoặc đần độn.
2- Chẩn đoán bệnh: Dựa vào các tiêu chuẩn sau:
a- Tuổi trên 40, bệnh phát đột ngột.
b- Có những triệu chứng: hôn mê, liệt nửa người, méo mồm.
c- Có tiền sử huyết áp cao.
d- Áp lực nước não tủy tăng, xét nghiệm nước não tủy có máu đỏ (nếu lâm
sàng đủ để xác định chẩn đoán, không cần chọc nước não tủy).
e- Nếu có điều kiện làm siêu âm sọ não, làm điện não đồ, chụp mạch não,
chụp cắt lớp não (CT) để xác định chẩn đoán.
3- Phân tích về nguyên nhân và cơ thể bệnh theo YHCT:
Bệnh xuất huyết não phát bệnh đột ngột nhưng hình thành bệnh là một
quá trình. Theo YHCT, sự hình thành bệnh có liên quan đến các yếu tố bệnh lý
sau:
a- Phong: tức “Can phong”, lâm sàng có triệu chứng hoa mắt váng đầu,
chân tay run giật do can thận âm hư, thủy không dưỡng mộc, can dương thịnh hóa
phong => sinh bệnh. Ngoài ra, tình chí u uất hóa hỏa, đặc biệt lao tâm suy nghĩ
nhiều, tâm hỏa thịnh, hoặc giận dữ kích động can hỏa, hoặc ăn uống nhiều chất
béo, mỡ tích trệ hóa đều dẫn đến Can phong nội động.
b- Hỏa: Can dương thịnh, trường vị nhiệt kết thường biểu hiện mặt đỏ, bứt
rứt dễ cáu gắt, đại tiện táo kết.
c- Đàm: Thường do thích ăn nhiều chất béo mỡ hoặc nghiện rượu, tỳ vị tích
trệ, tân dịch tích tụ sinh đàm, hoặc uất giận ưu tư nhiều quá khí trệ sinh đờm cũng
là nguyên nhân thường gặp. Trên lâm sàng biểu hiện ngực tức buồn nôn, khạc ra
đờm dãi, thân mình hoặc tay chân tê dại hoặc có những cơn hoa mắt váng đầu.
d- Ứ huyết: Nguyên nhân huyết ứ thường là do khí trệ, ngoài ra âm hư

huyết ít, khí hư vận hóa suy giảm cũng gây nên huyết ứ.
Thực ra 4 yếu tố gây nguy cơ tai biến xuất huyết não trên đây đều có liên
quan ảnh hưởng lẫn nhau và là nguyên nhân của nhau.
Bệnh xuất huyết não là một bệnh mang tính chất khí hư tà khí thực mà
trong giai đoạn cấp biểu hiện chủ yếu là tà thực, nhưng do chính khí vốn hư nên tà
khí dễ làm hao tổn nguyên khí → dễ dẫn đến tử vong trong trạng thái hư thoát
(dương hư, âm hư hoặc khí âm hư, âm dương đều hư). Đến thời kỳ hồi phục và
giai đoạn di chứng thì tà khí đã bị đẩy lùi (nhờ các biện pháp cấp cứu và chính khí
thắng tà khí) nhưng chính khí hư tổn là chính chủ yếu là khí âm hư mà huyết ứ vẫn
còn tồn đọng tại kinh mạch, cho nên trong điều trị biện chứng cần lưu ý:

×