Luận văn
Đề tài: "Tác động của việc Việt Nam gia
nhập WTO tới ngành xuất khẩu gạo"
1
Mục lục
Luận văn 1
Đề tài: "Tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO tới ngành xuất khẩu gạo" 1
Mục lục 2
PHẦN MỘT: LỜI MỞ ĐẦU 3
PHẦN HAI: NỘI DUNG 4
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XUẤT KHẨU “GẠO” VIỆT NAM: 4
1.1. Vai trò của ngành xuất khẩu “gạo”: 4
1.2. Tình hình xuất khẩu “gạo” của Việt Nam từ khi gia nhập WTO: 6
CHƯƠNG II: MA TRẬN KẾT HỢP “SWOT” CỦA XUẤT KHẨU “GẠO”: 10
2.1. Điểm mạnh bên trong: (S – Strength) 13
2.2. Điểm yếu bên trong: ( W- Weakness) 16
2.3. Cơ hội bên ngoài: ( O – Opportunities ) 19
2.4. Thách thức bên ngoài: ( T – Theats ) 22
2.5. Phối hợp SO: 24
2.6. Phối hợp SW: 25
2.7. Phối hợp WO: 26
2.8. Phối hợp WT 27
CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP 28
PHẦN BA : KẾT LUẬN 30
2
PHẦN MỘT: LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam, ngành sản xuất lúa gạo thường chiếm 50% tổng diện tích gieo
trồng nông nghiệp và đang là nguồn kế sinh chính của hơn 60% dân số cả nước,
ảnh hưởng trực tiếp đến 2/3 hộ gia đình làm nông nghiệp trong đó có 44% số hộ
thuộc diện khó khăn và có nguy cơ tiềm ẩn tái nghèo. Với vị trí quan trọng như
vậy, ngành xuất khẩu “gạo” chính là chìa khóa của sự ổn định và phát triển nền
kinh tế của đất nước cũng như cải thiện mức sống đối với người dân. Đặc biệt, sau
khi gia nhập WTO, ngành xuất khẩu “gạo” có thêm những cơ hội phát triển cũng
như những lợi ích tiềm năng mà WTO mang lại như mở rộng thị trường xuất khẩu,
thu hút được đầu tư của nước ngoài về cơ sở hạ tầng như hệ thống máy móc tại
cảng biển Đồng thời Việt Nam cũng có tiếng nói chung với 149 nước khác khi
khi gia nhập WTO, từ đó chúng ta đã tạo dựng lên các mối quan hệ tốt đẹp và có
thể học hỏi được kinh nghiệm cũng như chuyển giao máy móc công nghệ phục vụ
cho việc sản xuất gạo với các nước phát triển như Mỹ, Nhật để đảm bảo có được
năng suất cao, nguồn cung dồi dào, chất lượng tốt, giá thành rẻ, nâng cao vị thế
cạnh tranh, khẳng định thương hiệu Việt trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó,
nông nghiệp nói chung và ngành ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng được coi là
ngành chịu nhiều tác động nhất trong quá trình gia nhập WTO của Việt Nam.
Nhiều lo ngại, thách thức cũng như những yếu điểm về sức cạnh tranh của “gạo”
Việt Nam trên sân chơi lớn này xuất phát từ những hạn chế trong năng lực sản
xuất, chế biến, tạo dựng thương hiệu và uy tín của từng mặt hàng nông sản. Để
ngành xuất khẩu “gạo” thực sự vững vàng với WTO, thì cùng với việc quy hoạch,
định hướng sản xuất và tăng cường ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, việc
tăng cường nâng cao trình độ, năng lực sản xuất, ứng dụng khoa hoạ kỹ thuật và
nắm bắt xu thế thị trường của các doanh nghiệp xuất khẩu vẫn là nhiệm vụ quan
trọng. Để hiểu rõ hơn về tác động của việc Việt Nam gia nhập WTO tới ngành
xuất khẩu “gạo” như thế nào, chúng ta nên có cái nhìn tổng quát hơn về ma trân
3
SWOT của ngành này từ đó sẽ đề ra những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu “gạo”
phát triển hơn.
PHẦN HAI: NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGÀNH XUẤT KHẨU “GẠO”
VIỆT NAM:
1.1. Vai trò của ngành xuất khẩu “gạo”:
Xuất khẩu được thừa nhận là ngành rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối
ngoại là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển.Việc mở rộng xuất khẩu
không những góp phần tăng thu nhập ngoại tệ cho đất nước và tác động gián tiếp
vào nhu cầu nhập khẩu cũng như tạo cơ sở cho phát triển hạ tầng là một mục tiêu
quan trọng nhất của chính sách thương mại. Nhà nước đã và đang thực hiện các
biện pháp thúc đẩy các ngành kinh tế theo hướng xuất khẩu, khuyến khích khu vực
tư nhân mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm tăng thu nhập, ngoại tệ
cho đất nước.
1.1.1.Tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá đất
nước:
Quá trình công nghiệp hoá cần một lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc,
thiết bị kĩ thuật công nghệ cao để có thể theo kịp nền công nghiệp hiện đại của các
nước đã phát triển. Nguồn vốn cho nhập khẩu được hình thành từ rất nhiều nguồn
vốn khác nhau:
o Đầu tư nước ngoài
o Vay nợ, viện trợ
o Thu từ hoạt động du lịch
o Xuất khẩu…
Các nguồn vốn khác quan trọng nhưng rồi cũng phải trả bằng cách này hay
cách khác ở thời kỳ sau. Nguồn vốn quan trọng nhất vẫn là xuất khẩu, xuất khẩu
quyết định quy mô và tốc độ tăng của nhập khẩu.
4
Hiện nay các nước xuất khẩu “gạo” với khối lượng lớn chủ yếu là các nước
đang phát triển: Thái Lan, Việt Nam, Trung Quốc, Pakistan…Chính vì thế nguồn
ngoại tệ thu về từ xuất khẩu gạo đối các nước này là rất quan trọng.
1.1.2. Xuất khẩu đóng vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế thúc đẩy sản xuất
phát triển:
Ngày nay với xu thế hội nhập, cơ hội và thách thức rất nhiều, các nước đều
phải phát triển kinh tế theo hướng xuất khẩu những sản phẩm mà mình có lợi thế
và nhập khẩu những sản phẩm không có lợi thế hoặc lợi thế so với các sản phẩm
khác nhỏ hơn. Khi gạo đã trở thành một lợi thế trong xuất khẩu của một nước thì
các nước đó sẽ tập trung vào sản xuất lúa gạo với quy mô lớn, trình độ thâm canh
cao, khoa học kỹ thuật tiến bộ nhằm tăng năng xuất, sản lượng và chất lượng gạo.
Từ sự tập trung sản xuất đó sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành có liên quan và
dẫn tới sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế.
Xuất khẩu tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành khác có cơ hội phát triển.
Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp yếu tố đầu vào cho sản
xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Tạo tiền đề kinh tế, kỹ thuật nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Thông qua xuất khẩu nước ta có thể tham gia vào công cuộc cạnh tranh trên
thị trường thế giới về giá cả, chất lượng từ đó hình thành cơ cấu sản xuất luôn
thích ghi với thị trường.
Đòi hỏi các doanh nghiệp luôn phải đổi mới hoàn thiện công việc sản xuất
kinh doanh.
1.1.3. Xuất khẩu có tác động tích cực tới giải quyết công ăn việc làm, cải thiện
đời sống nhân dân:
Xuất khẩu gạo trước hết làm tăng thu nhập của người nông dân đặc biệt ở
các vùng chuyên canh lúa nước, đời sống người dân phụ thuộc chủ yếu vào cây
lúa. Không những thế, xuất khẩu giúp giải quyết một lượng lớn lao động dư thừa
5
trong nước. Khi thực hiện tăng cường xuất khẩu thì kéo theo nó là vấn đề xay xát,
chế biến phát triển, vấn đề vận chuyển hàng hoá …những công tác trên thu hút
khá nhiều lao động từ không có trình độ kỹ thuật, quản lý đến có trình độ cao.
Việc tạo việc làm ổn định cũng chính là một biện pháp hữu hiệu để tăng thu nhập,
ổn định xã hội.
Đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì xuất khẩu gạo là
một lợi thế lớn. Bởi sản xuất và xuất khẩu gạo có những lợi thế căn bản như: đất
đai, khí hậu, nguồn nước, nguồn nhân lực … Và đặc biệt yêu cầu về vốn kỹ thuật
trung bình, với các lợi thế như vậy tăng cường xuất khẩu gạo là hướng đi đúng đắn
nhất.
Xuất khẩu gạo hay xuất khẩu hàng hoá nông sản nói chung có tác động to lớn đến
nền kinh tế nước ta, giúp khai thác được tất cả các lợi thế tương đối cũng như
tuyệt đối của Việt Nam trong quá trình hội nhập. Trong quá trình sản xuất lúa gạo,
Việt Nam đã thu được những kết quả to lớn từ một nước nhập khẩu trở thành một
nước xuất khẩu thứ hai thế giới. Tuy nhiên xuất khẩu gạo Việt Nam còn chưa
tương xứng với tiềm năng sẵn có. Cần có giải pháp cụ thể cho vấn đề này.
1.2. Tình hình xuất khẩu “gạo” của Việt Nam từ khi gia nhập
WTO:
1.2.1. Kim ngạch xuất khẩu:
Công tác xuất khẩu “gạo” trong những năm qua đã đạt được nhiều thành
tích đáng khích lệ. Qui mô xuất khẩu gạo ngày càng mở rộng với khối lượng và
kim ngạch tăng với tốc độ khá cao. Xét về cơ cấu ngành hàng xuất khẩu từ khi
Việt Nam gia nhập tổ chức WTO, bên cạnh một số sản phẩm nông sản mang tính
truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, cà phê, đỗ tương, gạo đã trở thành một mặt
hàng nông sản mang về cho đất nước một nguồn ngoại tệ xuất khẩu rất lớn. Tốc độ
tăng trưởng về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu “gạo” tăng lên một cách đáng
kinh ngạc.
Năm 2007,
6
Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết, lượng gạo cả nước xuất khẩu đến
nay đã đạt mức 4,5 triệu tấn với kim ngạch trị giá 1,5 tỷ USD. Đặc biệt trong năm
này, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam đã tăng đáng kể và lần đầu tiên ngang giá với
gạo Thái Lan. Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn Online, trong bài Xuất khẩu nông
sản: "Bay qua vùng thời tiết xấu”, năm 2008 xuất khẩu gạo đạt 4,7 triệu tấn, kim
ngạch đạt 2,9 tỉ đô la Mỹ (tính ra, giá bán bình quân 617,02 đô la Mỹ/tấn).
Năm 2009, thị trường hàng hoá thế giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính và suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều hành
xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm qua, cả nước đã xuất khẩu được 6,052
triệu tấn gạo, kim ngạch XK gần 2,7 tỉ USD, đây là năm có số lượng xuất khẩu
nhiều nhất từ trước đến nay; trong đó chủng loại gạo cao cấp chiếm đến 40, 25%.
Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá FOB); về số lượng tăng 29,35% so
năm 2008. Đặc biệt, tỷ lệ gạo cao cấp XK đã đạt 50% (những năm trước chỉ
khoảng 34%). Như vậy, mặc dù năm 2009 xuất khẩu nhiều hơn năm 2008 đến
1,352 triệu tấn gạo, nhưng kim ngạch xuất khẩu giảm 200.000 đô la Mỹ, giá bán
giảm 183,69 đô la Mỹ/tấn.
Tháng 4/2010 cả nước xuất khẩu 725.620 tấn gạo các loại, đạt 361,4 triệu
USD, giảm 49,71% về lượng và giảm 54,41% về trị giá so với tháng 3/2010. Tính
chung cả 4 tháng đầu năm lượng xuất khẩu đạt 2,2 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,15 tỷ
USD, giảm 12,81% về lượng và giảm nhẹ 0,33% về kim ngạch so với cùng kỳ
năm 2009. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam gần như thấp nhất so với những nước
xuất khẩu gạo khác, giá bình quân 4 tháng đạt 532USD/tấn, tăng hơn 14% so với
cùng kỳ năm 2009 nhưng vẫn thấp hơn giá bình quân 3 tháng đầu năm là
549USD/tấn. Theo thống kê của Tổng cục Hải quan cho biết, dù vẫn giảm 7,3% về
lượng, xuất khẩu gạo 5 tháng đầu năm đã tăng 0,6% về kim ngạch so với cùng kỳ
năm trước. Cụ thể, xuất khẩu gạo từ đầu năm đến nay đã đạt trên 2,9 triệu tấn với
kim ngạch xấp xỉ 1,5 tỷ USD, bằng 58,4% kế hoạch cả năm, đồng thời đứng thứ 5
trong các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu dẫn đầu cả nước, xếp sau dệt may, dầu
7
thô, da giày và thủy sản. Có được kết quả này là do giá gạo xuất khẩu đã tăng khá
hơn trong năm nay. Cụ thể, giá gạo xuất khẩu bình quân 5 tháng đầu năm đạt
513,43 USD/tấn, tăng khoảng 8,5% so với cùng kỳ năm trước (giá gạo xuất khẩu
bình quân 5 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 473,37 USD/tấn).
Đơn vị : tấn
1.2.2. Cơ cấu thị trường:
Có thể nói rằng công tác thị trường của ngành xuất khẩu gạo đã có những tiến
bộ vượt bậc. Cho đến nay, gạo Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường của trên 70
nước và vùng lãnh thổ, trong đó có các thị trường khó tính như EU, Hoa Kỳ nhưng
chủ yếu là sang Philippines; Malaysia; Cu Ba; Singapore. Theo một chuyên gia
trong lĩnh vực ngành hàng xuất khẩu, trong vài năm gần đây, sau khi đạt tới sự bão
hòa về khối lượng tại các thị trường truyền thống, các hoạt động khai phá để tạo
sự tăng trưởng ở các thị trường mới của các doanh nghiệp (DN) xuất khẩu gạo là
không đáng kể.
Philippines vẫn dẫn đầu cả về lượng và kim ngạch, riêng tháng 4/2010 xuất
sang Philippines 229.030 tấn gạo, trị giá 153,5 triệu USD (chiếm 31,56% về lượng
và 42,48% về kim ngạch). Tính cả 4 tháng xuất sang Philippines hơn 1 triệu tấn
gạo, trị giá 640,7 triệu USD (chiếm 46,64% về lượng và 55,5% về kim ngạch).
8
Trong tháng 4/2010 cũng có thêm 4 thị trường xuất khẩu gạo đạt trên 10
triệu USD là: Singapore 43,4 triệu USD; Đài Loan 28,4 triệu USD; Malaysia 21,6
triệu USD; Hồng Kông 11,3 triệu USD.
Xuất khẩu gạo sang các thị trường trong tháng 4/2010 đa số đều giảm về
lượng và trị giá so với tháng 3/2010; trong đó dẫn đầu về sự sụt giảm là thị trường
Cu Ba chỉ đạt 1.275 tấn, trị giá 0,51 triệu USD, giảm 98,7% về lượng và 98,84%
về kim ngạch; đứng thứ 2 về mức sụt giảm là thị trường Tiểu vương Quốc Ả Rập
thống nhất (-94,59% về lượng và -95,56% về kim ngạch); tiếp đến Italia (-86,06%
về lượng và -87,33% về kim ngạch); Indonesia (-73,97% về lượng và -78,44% về
kim ngạch); Philippines (-70,73% về lượng và 68,49% về kim ngạch); Malaysia (-
58,01% về lượng và -59,66% về kim ngạch); Nga (-52,47% về lượng và -55,8%
về kim ngạch)…
Chỉ có 5 thị trường tăng cả lượng và kim ngạch so với tháng 3/2010, dẫn
đầu về mức tăng trưởng dương là thị trường Pháp (+118,15% về lượng và
+78,84% về kim ngạch); thứ 2 là thị trường Hồng Kông (+113,61% về lượng và
+70,95% về kim ngạch); tiếp theo là Australia (+73,37% về lượng và +25,74% về
kim ngạch); Nam Phi (+61,26% về lượng và +49,66% về kim ngạch); Singapore
(+34,75% về lượng và +17,57% về kim ngạch). Riêng lượng gạo xuất sang
Ucraina trong tháng 4/2010 tăng 17,45% về lượng nhưng giảm 0,78% về kim
ngạch so với tháng 3/2010.
Trong tháng 4/2010 có 2 thị trường không tham gia xuất khẩu gạo là Tây Ban Nha
và Hà Lan.
Thị trường xuất khẩu gạo tháng 4/2010
Thị trường
Tháng 4/2010 4 tháng 2010 Tăng
giảm về
lượng T4
so T3(%)
Tăng
giảm
kim
ngạch
Lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
Lượng
(tấn)
Trị giá
(USD)
9
T4 so
T3(%)
Tổng cộng 725.620 361.359.655 2.168.597 1.153.924.498 -49,71 -54,41
Philippines 229.030 153.495.045 1.011.478 640.694.155 -70,73 -68,49
Singapore 106.578 43.352.674 185.671 80.225.154 +34,75 +17,57
Đài Loan 75.456 28.393.028 171.416 68.990.028 -21,37 -30,06
Malaysia 49.134 21.569.645 166.136 75.040.265 -58,01 -59,66
Hồng
Kông
26.723 11.284.638 39.233 17.885.934 +113,61 +70,95
Nga 6.700 2.916.730 20.796 9.514.927 -52,47 -55,80
Nam Phi 4.875 2.150.000 7.898 3.586.587 +61,26 +49,66
Ucraina 4.375 1.864.538 8.099 3.743.668 +17,45 -0,78
Indonesia 3.385 1.773.925 16.390 10.000.920 -73,97 -78,44
Australia 1.543 696.333 2.433 1.250.125 +73,37 +25,74
Cu Ba 1.275 510.000 99.325 44.356.958 -98,70 -98,84
Pháp 613 230.314 894 359.093 +118,15 +78,84
Ba Lan 275 126.100 750 345.336 -42,11 -42,47
Italia 46 23.000 376 204.521 -86,06 -87,33
Tiểu vương
Quốc Ả
Rập thống
nhất
50 20.521 974 482.976 -94,59 -95,56
Hà Lan 0 0 327 191.000 * *
Tây Ban
Nha
0 0 119 80.290 *
CHƯƠNG II: MA TRẬN KẾT HỢP “SWOT” CỦA XUẤT
KHẨU “GẠO”:
Từ khi Việt Nam chính thức là thành viên của Tổ chức Thương Mại Thế
Giới – WTO, nền kinh tế nói chung cũng như ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng đã
có những bước phát triển không ngừng nhờ vào những điểm mạnh cũng như cơ
hội mà WTO mang lại cho Việt Nam. Nhưng bên cạnh đó, chúng ta cũng không
10
thể không nhắc đến những khó khăn, thách thức mà WTO đã tác động tới. Chính
vì vậy chúng ta cùng nhau tìm hiểu: Ma trận kết hợp “SWOT” của ngành xuất
khẩu “gạo” trong thời gian Việt Nam đã gia nhập vào WTO:
Ma trận kết hợp SWOT
của ngành xuất khẩu
“gạo” Việt Nam sau khi
gia nhập WTO
Cơ hội
1.Thị trường nước
ngoài chưa bão hòa.
2.Các rào cản thuế
quan và phi thuế quan
được phá vỡ nên cơ hội
phát triển là rất lớn.
3.Cơ hội tiếp xúc, làm
việc, học hỏi kinh nghiệm
và chuyển giao công nghệ
với các nước phát triển
như Mỹ, Nhật
4. Thu hút được sự
đầu tư và quan tâm của
các tổ chức ngân hàng lớn
như WB.
Thách thức:
1. Khủng hoảng tài
chính toàn cầu.
2. Do đồng Euro mất
giá nên thách thức lớn đặt
ra cho việc xuất khẩu qua
các nước châu Phi.
3. Xuất hiện đối thủ
cạnh tranh mới như
myanmar, pakistan
4. Xu hướng bảo hộ
mậu dịch có chiều hướng
gia tăng.
Điểm mạnh
1.Gia nhập WTO, Việt
Nam có nhiều cam kết tạo
nên thế mạnh cho ngành
xuất khẩu “gạo” như cam
kết IRN, cam kết trợ cấp
nông nghiệp…
2. Được hưởng những
Phối hợp SO
1. Chiến lược thâm nhập
thị trường:
(S1, S3, O1, O2).
2. Chiến lược phát triển
thị trường
( S1, S2, S4, O1, O2).
3. Chiến lược phát triển
Phối hợp ST
Phát triển sản phẩm
với chất lượng cao (S1,
S3,S4, W1, W4).
11
ưu đãi, đối xử công bằng
như các quốc gia trohg
WTO.
3. Thị trường tiềm
năng lớn.
4.Thị trường trong
nước tiếp tục ổn định.
sản phẩm theo hướng
nâng cao chất lượng sản
phẩm (S1, S2, S4, O3,
O4)
Điểm yếu
1. Trợ cấp xuất khẩu
trong nông nghiệp bị phá
bỏ trừ trường hợp được
hưởng ưu đãi dành cho
nước đang phát triển.
2. Cơ sở hạ tầng, máy
móc trang thiết bị đầu tư
cho nông nghiệp cũng
như hệ thống vận chuyển
còn thấp…
3. Năng lực tài chính
còn hạn hẹp, nguồn thông
tin và nhân lực như các
chuyên gia trình độ dự
báo cung cầu còn nhiều
hạn chế.
4. Chính sách của
chính phủ chưa hợp lý…
Phối hợp WO
1. Đổi mới công nghệ
(W2, W3, O3,O4)
2. Mở rộng thị trường sản
phẩm (W1, W4, O1, O2)
Phối hợp WT
1. Chiến lược cạnh tranh
về giá
(W1, W2, W3, T1, T2)
2. Chiến lược hội nhập
phía sau
(W1, W2, T1, T4)
12
2.1. Điểm mạnh bên trong: (S – Strength)
Thứ nhất, khi gia nhập WTO, Việt Nam có nhiều cam kết tạo nên thế mạnh
cho ngành xuất khẩu “gạo” như cam kết IRN, cam kết trợ cấp nông nghiệp: Khi
gia nhập WTO, trong cam kết mở cửa thị trường nông sản trong đó có xuất khẩu
“gạo” có cam kết “quyền đàm phán ban đầu (INR) nghĩa là trong quá trình thực
hiện cam kết, một số trường hợp nhất định không lường trước được, Việt Nam có
thể tăng thuế nhập khẩu “gạo” cao hơn mức cam kết. Trường hợp đó, Việt Nam
phải đàm phán trước với những nước dành được Quyền đàm phán ban đầu (tên
những nước đó được ghi bên cạnh mỗi dòng sản phẩm trong Biểu cam kết).
Những nước đề nghị INR đối với nông sản của Việt nam chủ yếu là Mỹ, Úc, New
Zealand, Braxin. Điều này cho thấy thuận lợi cho việc bảo hộ ngành xuất khẩu
“gạo” cũng như nâng cao lợi thế cạnh tranh, khẳng định thương hiệu gạo của Việt
Nam với các quốc gia cùng ngành.
Trong cam kết về trợ cấp nông nghiệp: Việt Nam có quyền được trợ cấp nội
địa thuộc “hộp xanh lá cây”, không phải cắt giảm, cũng không bị các nước khác
khiếu kiện, các doanh nghiệp xuất khẩu “gạo” có thể đề xuất nhà nước áp dụng mà
không vi phạm cam kết trong WTO như:
Nhóm trợ cấp các dịch vụ chung: như trợ cấp nghiên cứu khoa học về
phân bón, đất đai, giống, kiểm soát dịch bệnh, kết cấu hạ tầng gồm điện,
đường, thủy lợi Điều này giúp cho năng suất lúa cao hơn, chất lượng
tốt, giá thành rẻ hơn, tạo được lòng tin từ nông dân giúp ngành xuất khẩu
“gạo” tốt hơn tạo được lợi thế về giá và có nguồn cung dồi dào so với các
nước khác.
Nhóm hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai: như hỗ trợ các khoản chi phí nhằm
phục hồi sản xuất nông nghiệp cho những vùng bị thiên tai về giống,
thuốc bảo vệ thực vật, san ủi đồng ruộng. Với nhóm hỗ trợ này giúp cho
bà con nông dân an tâm hơn trong việc canh tác dẫn đến chất lượng tốt
hơn, diện tích đất trồng lúa không những không bị thu hẹp mà có thể còn
mở rộng hơn do đất đai màu mỡ, và tỉ lệ dân cư được phân bố tại vùng
13
nông thôn rất lớn và có trình độ học vấn thấp, giúp giải quyết vấn đề việc
làm cho họ, nâng cao đời sống, phục vụ cho việc xuất khẩu “gạo” phát
triển hơn.
Theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp, thành viên WTO vẫn có
thể thực hiện các trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” là các chương trình thu
mua gạo của chính phủ để can thiệp với mức 10% tổng trị giá sản lượng
ngành nông nghiệp đối với nước đang phát triển như Việt Nam.
Là nước đang phát triển trong WTO, Việt Nam cũng được hưởng các trợ cấp
nhằm giảm chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài (cước phí vận chuyển, nâng
phẩm cấp để xuất khẩu…) và trợ cấp vận tải nội địa và quốc tế cho hàng xuất khẩu
sẽ không bị xếp vào các hình thức trợ cấp xuất khẩu bị cấm. Đây là điểm có lợi
cho Việt Nam khi gia nhập WTO để tăng lợi thế cạnh tranh về giá cho ngành xuất
khẩu “gạo” phát triển.
Thứ hai, được hưởng những ưu đãi, đối xử công bằng như các quốc gia trong
WTO. Thị trường xuất khẩu được mở rộng với mức thuế quan MFN (có nghĩa là
nếu một nước dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước
này cũng sẽ phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác) thấp và
ổn định. Như chúng ta đã biết trước khi trở thành thành viên của WTO, xuất khẩu
“gạo” nói riêng phải chịu mức thuế phổ thông (thường là mức thuế cao hơn) của
nước nhập khẩu. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO, các nước thành viên WTO
(149 nước vào thời điểm 11/1/2007) có nghĩa vụ phải cho hàng hóa Việt Nam
hưởng thuế suất MFN theo cam kết của họ trong WTO. Đây là một lợi ích rất lớn
của việc gia nhập WTO mà các doanh nghiệp nông nghiệp cần tận dụng bởi vì khi
đó doanh thu sẽ gia tăng, đồng nghĩa với việc lợi nhuận sẽ tăng. Và khi gia nhập
WTO, đối với ngành lúa gạo là ngành mà Việt Nam có tiềm lực xuất khẩu mạnh,
vì vậy cần tận dụng cơ hội thuế nhập khẩu MFN vào các nước thành viên WTO
thấp và ổn định để đẩy mạnh xuất khẩu (chủ yếu thông qua việc nâng cao chất
lượng sản phẩm, uy tín thương mại, quảng bá sản phẩm).
14
Thứ ba, thị trường tiềm năng lớn: Hiện nay các Bộ, ngành đã dành sự quan
tâm thích đáng cho việc ban hành các văn bản pháp lý để thực hiện cam kết mở
cửa thị trường nông sản điển hình là việc nhập khẩu “gạo”. Một trong số những
cam kết đó là cam kết về thuế quan: mức thuế nhập khẩu của sản phẩm “gạo” thì
giảm rất ít hoặc không giảm và việc cắt giảm này cam kết được thực hiện trong
vòng từ 3-5 năm kể từ khi gia nhập WTO, mức giảm thuế sẽ được chia đều cho
mỗi năm trong lộ trình cắt giảm. Điều này giúp củng cố niềm tin của cộng đồng
quốc tế vào quyết tâm của Chính phủ Việt Nam thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ
thành viên bên cạnh đó hiện nay Việt Nam đang áp dụng mức thuế nhập khẩu thấp
hơn so với cam kết đây là một vấn đề không đáng lo ngại bởi vì chúng ta có thể
tăng thuế trở lại trong tương lai khi có nhu cầu bảo hộ đối với ngành xuất khẩu
gạo trong nước, thiết lập được mối quan hệ ngoại giao để có cơ hội xâm nhập vào
những thị trường tiềm năng mới và hội nhập với thị trường gạo thế giới.
Thứ tư, thị trường trong nước tiếp tục ổn định: Việt Nam đã thành công trong
đàm phán gia nhập WTO về nông nghiệp và được giữ nguyên mức bảo hộ thuế
nhập khẩu nông sản nói chung và thuế nhập khẩu “gạo” nói chung ở mức như
trước khi gia nhập. Điển hình như cam kết thuế quan của Việt Nam đối với mặt
hàng gạo bình quân trong WTO là 40% (trừ giống lúa), đây là mức thuế bằng với
mức MFN hiện nay và mức thuế suất cam kết tại thời điểm gia nhập này sẽ vẫn
được giữ ở mức 40% mà không phải giảm nữa. Như vậy, sau 11/1/2007 (thời điểm
gia nhập WTO), thuế và các điều kiện nhập khẩu khác là hầu như không có sự
thay đổi so với trước khi gia nhập WTO. Thị trường trong nước vì thế ổn định,
không phải chịu sự cạnh tranh gay gắt đến từ phía “gạo” nước ngoài (từ góc độ
thuế quan).
Từ đó chúng ta có thể thấy rằng, từ khi trở thành thành viên chính thức của
tổ chức thương mại thế giới WTO, đã tạo cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi như
các chính sách hỗ trợ…Những hoạt động này giúp cho ngành xuất khẩu “gạo”
15
tăng thêm lợi thế cạnh tranh và tạo dựng được thương hiệu của mình trên thị
trường thế giới.
2.2. Điểm yếu bên trong: ( W- Weakness)
Thứ nhất, trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp bị phá bỏ trừ trường hợp được
hưởng ưu đãi dành cho nước đang phát triển:
Là nước gia nhập sau, Việt Nam phải bãi bỏ tất cả các trợ cấp xuất khẩu trong
nông nghiệp nói chung và ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng (trừ trường hợp được
hưởng đối xử ưu đãi dành cho nước đang phát triển). Bởi vì đây là biện pháp bị
cấm hoàn toàn đối với tất cả các quốc gia gia nhập WTO sau 1/1/1995. Như vậy,
về cơ bản, doanh nghiệp Việt Nam không hy vọng được hưởng các hình thức trợ
cấp xuất khẩu này. Đây chính là một điểm bất lợi hay là điểm yếu cho ngành xuất
khẩu “gạo” ở Việt Nam bởi vì nó sẽ làm tăng thêm chi phí và giảm sức cạnh tranh
của doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị đầu tư cho nông nghiệp cũng
như hệ thống vận chuyển còn thấp:
Cơ sở hạ tầng còn yếu kém như hệ thống giao thông vận tải, máy móc đầu tư
cho sản xuất nông nghiệp còn thấp dẫn đến năng suất chưa cao, chất lượng chưa
đảm bảo, và tất nhiên là nguồn nguyên liệu đầu vào cho xuất khẩu “gạo” còn
nhiều hạn chế.
Không chỉ dừng lại ở đó, do đầu tư cho nông nghiệp thấp nên hiện nay nước
mặn đã xâm nhập sâu vào đất liền nhiều tỉnh ven biển. Đây là khó khăn rất lớn đối
với vụ đông xuân của bà con hơn thế nữa tình trạng hạn hán kéo dài cũng ảnh
hưởng rất lớn đến chất lượng, sản lượng lúa và khi đó giá thành sẽ tăng lên.
Đồng thời, bệnh dày nâu và bệnh đạo ôn đang đe dọa nguồn cung cho xuất
khẩu “gạo” ở nước ta. Theo thống kê, hiện có khoảng 80.000 ha lúa bị bệnh đạo
ôn. Điều đáng lo ngại là có tới 80% giống lúa mà nông dân dùng để gieo sạ đã
nhiễm bệnh này. Do trình độ và sự hiểu biết của họ chưa cao nên trong quá trình
sản xuất nông dân lại gieo sạ dày, bón phân đạm quá nhiều, gặp thời tiết bất lợi
16
nên bệnh dễ bùng phát và rất khó phòng trị. Trong khi đó, sau khi gia nhập WTO
đối thủ của chúng ta như Thái Lan đã áp dụng các máy móc công nghệ hiện đại
vào sản xuất cũng như gieo trồng lúa. Đây chính là điểm yếu mà chúng ta cần
khắc phục để đẩy mạnh việc xuất khẩu “gạo” bằng hình thức tạo ra một nguồn
cung ứng dồi dào.
Bên cạnh đó, từ khi gia nhập WTO, thị trường xuất khẩu “gạo” của chúng ta
có thêm thị trường mới đó là những nước phát triển như Mỹ, những thị trường này
có giá cao hơn và tất nhiên là chất lượng sản phẩm cũng phải tương xứng và gạo
xuất khẩu của Việt Nam luôn có giá thấp nhất nếu so với gạo cùng loại của các
nước khác do chất lượng gạo của chúng ta không đồng đều, quy trình sản xuất,
bảo quản còn yếu.
Thứ ba, năng lực tài chính còn hạn hẹp, nguồn thông tin và nhân lực như các
chuyên gia trình độ dự báo cung cầu còn nhiều hạn chế:
Sau khi gia nhập WTO thị trường xuất khẩu “gạo” của chúng ta ngày càng
mở rộng đòi hỏi phải có hệ thống thông tin cũng như các chuyên gia giỏi để cung
cấp các thông tin về dự báo lượng cung - cầu trong và ngoài nước giúp cho các
doanh nghiệp xuất khẩu có những chiến lược phù hợp với năng lực của mình.
Nhưng khó khăn lớn nhất mà chúng ta cần giải quyết đó là nguồn nhân lực vừa
thiếu vừa yếu "những người làm công tác dự báo hiện nay đang trong cảnh lực bất
tòng tâm". Lực lượng phân tích, dự báo nhu cầu gạo trên thế giới để giúp cho nhà
xuất khẩu định hướng xem thị trường nào là tiềm năng, cơ hội thành công là bao
nhiêu, “nên xuất hay chờ” đang thiếu những chuyên gia đầu ngành ở trình độ cao.
Đội ngũ hiện có không đủ cán bộ chuyên môn và nghiệp vụ để trải rộng, để dự báo
thường xuyên các chỉ tiêu vi mô về cung - cầu, về thị trường, về giá cả… ở trong
nước và nước ngoài. Trình độ ngoại ngữ của các cán bộ nghiên cứu cũng còn hạn
chế nên khó khăn khi tiếp cận các nguồn thông tin nước ngoài. Bên cạnh đó, sự
thành bại của các dự báo kinh tế phụ thuộc vào chất lượng của hệ thống thông tin,
số liệu. Nhưng cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống thông tin kinh tế hoàn
17
chỉnh. Nguồn thông tin, tư liệu của nước ngoài đã rất thiếu lại còn bị phân tán,
chia cắt, rời rạc, thiếu thống nhất giữa các nguồn và đơn vị quản lý. Đặc biệt, hệ
thống các thông tin và dữ liệu chuyên ngành phục vụ trực tiếp công tác dự báo và
cảnh báo kinh tế, việc xử lý số liệu còn chưa thống nhất, mỗi nơi theo một kiểu.
Do đó, những gì có được cũng rất khó làm chất liệu cho công tác dự báo và cảnh
báo kinh tế. Đây chính là một khó khăn lớn nhất đòi hỏi chúng ta cần phải có biện
pháp khắc phục để đẩy mạnh ngành xuất khẩu “gạo” phát triển hơn.
Không những thế, ngành xuất khẩu “gạo” của chúng ta phải đối đầu với các
quốc gia có tiềm lực lớn về tài chính. Trong khi đó, Việt Nam là một nước đang
phát triển, nguồn lực về tài chính còn hạn hẹp và một số quyết định của Chính
phủ không những không mang lại lợi mà còn gây bất lợi, khó khăn ích cho việc
xuất khẩu “gạo” như hiện nay, Bộ tài Chính đang có dự định lập quỹ bình ổn thị
trường lúa gạo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) cho biết là các doanh
nghiệp xuất khẩu “gạo” đồng tình với việc thành lập này nhưng Bộ Tài chính đưa
ra phương thức trích lập nguồn tài chính cho quỹ bình ổn là thu 30% lợi nhuận
trước thuế của xuất khẩu gạo như vậy là quá cao do xuất khẩu gạo có lúc lời, hòa
vốn thậm chí có lúc lỗ, nếu trích lập như vậy thì nhà xuất khẩu sẽ không có đủ vốn
để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được diễn ra liên tục, giảm năng lực cạnh
tranh và có thể nói đây là một chiến lược không hợp lý gây bất lợi cho các doanh
nghiệp xuất khẩu Chính vì vậy, nhà nước cần có chính sách để khuyến khích tạo
điều kiện tối đa cho doanh nghiệp để đẩy mạnh việc xuất khẩu “gạo” phát triển.
Thứ tư, chính sách của chính phủ chưa hợp lý: Những chính sách, giải pháp
và quyết định của chính phủ cũng như Hiệp hội lương thực Việt Nam không được
các nhà xuất khẩu đồng tình và tích cực hưởng ứng do không theo sát các hoạt
động của doanh nghiệp cũng như không chịu lắng nghe ý kiến của các doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, về phía doanh nghiệp thì các doanh nghiệp trong nước đặc
biệt là các công ty quốc doanh chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu lúa gạo nên có
tính bảo thủ cực kỳ cao, không chịu cải tiến phương thức xuất khẩu cũng như
phương thức sản xuất về giống, nhân lực, máy móc, đầu tư quá ít vào nông nghiệp
18
nói chung và ngành trồng lúa nói riêng dẫn đến năng xuất thấp, chất lượng không
đủ để tạo lợi thế cạnh tranh so với các nước khác.
Mặt khác, khâu tổ chức thu mua chưa hiệu quả như các doanh nghiệp kinh
doanh lương thực mua gạo không thể tổ chức được việc mua tới tận nông dân.
Toàn bộ việc thu mua, phơi sấy, xay xát để chuyển lúa thành gạo bán cho các
doanh nghiệp đều do các thương lái nhiều cấp thực hiện. Nông dân không có điều
kiện để dự trữ, nhìn chung thu hoạch xong phải bán ngay. Nhiều nông dân bán đầu
vụ thì được trên 3.000 đồng/kg, còn đến giữa vụ thu hoạch rộ chỉ khoảng 2.600-
2.700 đồng/kg trong khi thủ tướng chỉ đạo ra lệnh mua với giá sàn là 3.800
đồng/kg. Nguyên nhân của sự việc này la do khâu trung gian hưởng quá nhiều,
nông dân làm trên 50% khối lượng công việc. Những người mua bán gạo chỉ làm
10% công việc nhưng lại chiếm tới 67% giá trị tăng thêm. Khâu trung gian như
vậy hưởng nhiều quá. Nông dân vất vả, chịu nhiều rủi ro thì lại được hưởng phần
quá ít còn lại. Điều này có ảnh hưởng rất lớn đến nguồn cung đầu vào của xuất
khẩu “gạo” do nó tác động tiêu cực đến tâm lý của bà con nông dân như thu hẹp
diện tích canh tác. Bởi vậy, chính phủ và các bộ phận chức năng cần xem xét mọi
vấn đề để đưa ra quyết định đúng đắn nhất tạo điều kiện thuận lợi cho nhà xuất
khẩu cũng như bà con nông dân.
2.3. Cơ hội bên ngoài: ( O – Opportunities )
Thứ nhất, thị trường nước ngoài chưa bão hòa: sau khi trở thành thành viên
của tổ chức thương mại thế giới WTO, chúng ta có cơ hội thâm nhập vào những
thị trường tiềm năng mới, hơn thế nữa chúng ta còn được hưởng những ưu đãi đặc
biệt. Trong khi đó, thị trường nước ngoài chưa bão hòa như vậy sẽ xuất hiện được
những cơ hội mới để chúng ta có thể tiến hành đàm phán và có thêm những hợp
đồng xuất khẩu “gạo” mới.
Thứ hai, các rào cản thuế quan và phi thuế quan được phá vỡ nên cơ hội phát
triển là rất lớn:
19
Bộ Công thương đang tập trung tăng cường các cơ hội tiếp cận thị trường cho
hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Theo hướng này, Bộ Công Thương đang chủ trì
tiến hành đàm phán về các khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Australia, New Zealand, Ấn Độ nhằm dỡ bỏ các rào cản thuế, phi
thuế quan giúp cho xuất khẩu “gạo” của Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển và
khả năng thâm nhập vào các thị trường này là rất lớn do giá thành sản xuất gạo của
chúng ta thấp có thể tạo ra được lợi thế cạnh tranh cũng như thu hút được sự quan
tâm của thị trường các nước này.
Thứ ba, cơ hội tiếp xúc, làm việc, học hỏi kinh nghiệm và chuyển giao công
nghệ với các nước phát triển như Mỹ, Nhật:
Khi gia nhập WTO, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ có cơ hội tiếp cận,
chuyển giao các công nghệ tiên tiến trong việc chế biến gạo từ các nước phát triển
như Mỹ, Nhật Bản. Những công nghệ xử lý độ ẩm, xay xát, lau bóng xuất khẩu sẽ
giúp giảm chi phí trung gian, giảm giá thành gạo xuất khẩu, giúp cho các nhà xuất
khẩu Việt Nam có cơ hội làm gia tăng giá trị của gạo trước khi xuất khẩu, nâng
cao giá bán và sức cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thế giới.
Không những thế, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam có cơ hội ký thêm nhiều
hợp đồng giao thương với những nước phát triển về hệ thống logistics. Điều này
giúp cho việc vận chuyển và giao hàng phục vụ cho xuất khẩu “gạo” được diễn ra
thuận tiện hơn, đúng thời hạn và giúp tiết kiện được chi phí vận chuyển tăng thêm
lợi nhuận cho doanh nghiệp xuất khẩu.
Thứ tư, thu hút được sự đầu tư và quan tâm của các tổ chức ngân hàng lớn như
WB: Việc gia nhập WTO cũng tạo ra cơ hội tiếp cận các nguồn vốn vay ưu đãi,
các hình thức tín dụng, tài trợ của các tổ chức tài chính quốc tế như WB, IMF,
Những nguồn vốn này giúp cho các nhà xuất khẩu Việt Nam có thể đầu tư những
cơ sở chế biến gạo, thực hiện khép kín từ khâu thu mua lúa đến các công đoạn sau,
nâng cao chất lượng, giảm chi phí, tăng lợi thế cạnh tranh.
Sau 2 năm gia nhập WTO, hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực ngân hàng của
Việt Nam đã góp phần tăng cường vị thế và uy tín của Việt Nam nói chung và hệ
20
thống ngân hàng Việt Nam nói riêng trong khu vực và trên thế giới. Đến nay, ngân
hàng Nhà nước-NHNN đã sửa đổi, bổ sung và ban hành mới nhiều văn bản pháp
luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng theo hướng minh bạch hoá chính sách, tuân
thủ các nguyên tắc thị trường và cam kết quốc tế nhằm tạo môi trường hoạt động
kinh doanh ngày càng thông thoáng, thuận lợi cho các TCTD hoạt động tại Việt
Nam. Thực hiện các cam kết gia nhập WTO liên quan đến tiếp cận thị trường và
đối xử quốc gia trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, NHNN đã triển khai các hành
động cụ thể:
o Về việc thiết lập hiện diện thương mại của các tổ chức tín dụng nước
ngoài tại Việt Nam: Quyết định sửa đổi nội dung Giấy phép mở chi nhánh
ngân hàng nước ngoài và Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng
liên doanh, quy chế quy định về việc mở và quản lý hoạt động của văn
phòng đại diện, chi nhánh của các tổ chức nước ngoài không phải là tổ
chức tín dụng có hoạt động ngân hàng và NHNN cũng đang dự thảo mẫu
giấy phép cấp cho ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tính đến nay, đã có
các TCTD của 22 quốc gia và vùng lãnh thổ được NHNN cấp giấy phép
hiện diện thương mại hoặc đặt Văn phòng đại diện tại Việt Nam. Điều
này giúp cho việc mở L/C, cũng như việc thanh toán tiền hàng cho vấn đề
xuất khẩu “gạo” giữa Việt Nam và các quốc gia khác thuận tiện hơn,
tránh được các rủi ro trong hợp đồng xuất khẩu như khi nhà nhập khẩu
không có khả năng trả nợ
o Về việc tham gia cổ phần, góp vốn dưới hình thức mua cổ phần và
phát hành thẻ tín dụng của các tổ chức tín dụng nước ngoài: Tính đến nay
đã có 9 NHTMCP của Việt Nam bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài
và một số NHTMCP khác đang xem xét để gọi nhà đầu tư nước ngoài
tham gia góp vốn, mua cổ phần. Ngoài ra, kể từ khi Việt Nam gia nhập
WTO, các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép phát hành thẻ tín dụng
trên cơ sở đối xử quốc gia. Hành động này giúp cho các ngân hàng trong
21
nước có thêm vốn đầu tư cho ngành xuất khẩu “gạo” phát triển về cơ sở
vật chất cũng như công nghệ, tăng sức cạnh tranh về tài chính…
2.4. Thách thức bên ngoài: ( T – Theats )
Thứ nhất, khủng hoảng tài chính toàn cầu: trong một số năm khó khăn cho sản
xuất lương thực, do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu, hầu hết các
quốc gia trong tổ chức WTO đều phải gánh chịu hậu quả. Khi đó các quốc gia có
số lượng nhập khẩu lớn nhu cầu của họ cũng giảm dần (ví dụ những năm 1999-
2002 và hiện nay), thêm vào đó các đại gia xuất khẩu gạo như Thái Lan, Ấn Độ vì
muồn giữ thị phần, thương hiệu nên họ tiếp tục xuất khẩu với giá rẻ hơn từ đó dẫn
đến giá gạo xuống thấp, làm cho các doanh nghiệp xuất khẩu gặp khó khăn, thua
lỗ, giảm năng lực cạnh tranh và hoạt động xuất khẩu bị trì trệ. Và một câu hỏi lớn
cần đặt ra với chính phủ cũng như những nhà xuất khẩu?
Thứ hai, do đồng Euro mất giá nên thách thức lớn đặt ra cho việc xuất khẩu
qua các nước châu Phi: Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã có thêm nhiều thị trường
xuất khẩu “gạo” mới như Châu Phi. Nhưng theo Hiệp hội lương thực Việt Nam
(VFA), khó khăn nhất là việc xuất khẩu gạo sang châu Phi, vì hầu hết doanh
nghiệp (DN) thành viên của VFA xuất sang thị trường này thông qua các công ty
đa quốc gia có trụ sở đặt tại châu Âu. Trong khi đó, đồng Euro liên tục giảm so
với USD khiến đối tác nhập khẩu dè chừng, chờ giá xuống thấp mới giao dịch.
Thật vậy, theo thông tin ngày 25/05/2010 cho biết lượng gạo bán sang Nam Phi,
Ucraina và các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống Nhất đều giảm 60% - 80%. “Do
khoảng cách gần, tiết kiệm được phí vận chuyển, nguồn gạo của Pakistan và
Myanmar bán vào châu Phi rẻ hơn từ 15 đến 20 USD so với gạo từ Việt Nam nên
DN xuất khẩu gạo càng khó khăn hơn”. Và hậu quả của vấn đề này đó là hiện nay
lượng gạo còn trong kho của DN ước khoảng hơn 1,8 triệu tấn nên áp lực giải
phóng kho để chuẩn bị thu mua lúa vụ hè thu là rất lớn. VFA cũng đã ngừng phân
bổ các hợp đồng thương mại mà chỉ thực hiện các hợp đồng của chính phủ. Nguồn
từ báo Đất Việt cho biết cuối tháng 04/2010, khi giá chỉ ở mức 6,6 triệu đồng một
22
tấn (gạo 5% tấm) tương đương 350 USD một tấn, nhiều DN đã phải mua gạo
nguyên liệu với giá 5.500 - 5.700 đồng/kg, theo đúng mức giá lúa tối thiểu 4.000
đồng/kg nên phải lưu kho chờ thị trường có cải thiện về giá xuất khẩu. Điều này
làm cho các doanh nghiệp tốn thêm chi phí lưu kho, khoản lỗ do chênh lệch giữa
giá đầu vào và giá đẩu ra quá thấp không đủ bù đắp lại chi phí phát sinh, hoạt động
xuất khẩu bị gián đoạn. Đây chính là thách thức lớn đòi hỏi các nhà xuất khẩu Việt
Nam phải có biện pháp để hạn chế tối đa rủi ro.
Thứ ba, xuất hiện đối thủ cạnh tranh mới như myanmar, pakistan: Sau khi gia
nhập WTO, Việt Nam có những thuận lợi đó là có thêm thị trường nhập khẩu mới
nhưng đồng thời cũng có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh mới đó là phải đối đầu với
2 đối thủ cạnh tranh lớn đó là Ấn Độ và Thái Lan. Theo diễn biến gạo thế giới
năm 2009 thì nguồn cung của hai đại gia này đang khá lớn trong khi cầu của một
số nước nhập khẩu như Indonesia lại giảm do sản lượng tự cung của họ lại tăng
lên. Điều này dẫn đến, khi hai đại gia này bán ra thì chắc chắn giá gạo sẽ rẻ gây
khó khăn cho Việt Nam vấn đề cạnh tranh về giá, và khi đó chúng ta có hai lựa
chọn nếu lưu kho không bán vì giá thấp thì sẽ phải tăng thêm chi phí lưu kho, và
trong thời gian sau giá vẫn không tăng thì hậu quả thua lỗ sẽ rất lớn, nếu xuất khẩu
luôn thì chắc chắn sẽ lỗ. Lúc này, xuất khẩu gạo của Việt Nam rơi vào tình thế tiến
thoái lưỡng nan đây có thể là thách thức lớn đòi hỏi các chuyên gia và nhà xuất
nhập khẩu cần có biện pháp hợp lý để hạn chế mức rủi ro. Không chỉ dừng lại ở
đó, năm 2010 Việt Nam xuất hiện đối thủ canh tranh mới đó là myanmar. Năm
2009 nước này xuất khẩu 900.000 tấn gạo và kế hoạch năm 2010 tăng lên 1,5 triệu
tấn. Điều đáng quan tâm là giá gạo Myanmar chỉ khoảng 320-330 USD/tấn, thấp
hơn 100 USD/tấn so với gạo VN. Đây sẽ là đối thủ cạnh tranh chính của VN chứ
không phải Thái Lan vì chủng loại gạo xuất khẩu của Thái Lan chủ yếu là gạo
thơm và gạo đồ, khác với VN. Đây là một thách thức lớn đối với ngành xuất khẩu
gạo Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải có biện pháp làm sao để sản xuất với giá
thành thấp nhất nâng cao vị thế cạnh tranh, giữ vững được thị phần.
23
Thứ tư, xu hướng bảo hộ mậu dịch có chiều hướng gia tăng: Do ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nên hầu hết các nước trong tổ chức WTO
đang gia tăng xu hướng bảo hộ mậu dịch tăng xuất khẩu và giảm xuất khẩu. Để
đối phó, chính phủ nhiều nước phát triển đã áp dụng một loạt chính sách mang
tính bảo hộ như thuế quan, trợ giá và bảo lãnh tài chính, tạo nên sự cạnh tranh
không bình đẳng với những nước nghèo hơn trong đó có Việt Nam. Đây chính là
thách thức đối với ngành xuất khẩu “gạo” ở Việt Nam bởi vì với tình hình như thế
này thì khi xuất khẩu chúng ta sẽ phải chịu mức thuế cao, hơn thế nữa nguồn lực
tài chính của chúng ta không đủ để có thể cạnh tranh.
2.5. Phối hợp SO:
Thứ nhất, Chiến lược thâm nhập thị trường: (S1, S3, O1, O2) với chiến
lược này công ty tận dụng những điểm mạnh là các cam kết khi gia nhập WTO
như được nhà nước hỗ trợ về nghiên cứu giống, thuốc bảo trừ sâu, đất và có thể
bảo hộ ngành xuất khẩu “gạo” trong nước (cam kết INR) do Việt Nam là nước
đang phát triển nên được hưởng ưu đãi này và khi gia nhập WTO thì thị trường
tiềm năng lớn. Như vậy tạo điều kiện để ngành xuất khẩu “gạo” Việt Nam tận
dụng những cơ hội bên ngoài như thị trường nước ngoài chưa bão hòa ( thị trường
Châu Phi), thêm vào đó là các rào cản thuế quan và phi thuế quan được phá vỡ nên
chiến lược thâm nhập thị trường mới là hoàn toàn hợp lý nhằm mục đích tăng thị
phần và doanh thu, đồng thời giới thiệu thương hiệu “gạo” của Việt Nam với thị
trường thế giới.
Thứ hai, chiến lược phát triển thị trường (S1, S2, S4, O1, O2): Chiến lược
này với các điểm mạnh được sự hỗ trợ của chính phủ về vấn đề nghiên cứu giống,
đất, thuốc trừ sâu hiệu quả dẫn đến nguồn nguyên liệu đầu vào ổn định và được
hưởng ưu đãi đối xử công bằng với các quốc gia trong tổ chức WTO thêm vào đó
là các cơ hội như hàng rào thuế quan được phá vỡ cùng với thị trường trong nước
ổn định tạo điều kiện cho ngành xuất khẩu “gạo” Việt Nam tăng lợi thế cạnh tranh
do giá thành sản phẩm thấp hơn, mức thuế thấp hơn, không còn chính sách hạn
24
ngạch khi xuất khẩu tạo điều kiện cho chúng ta vươn xa hơn, phát triển hơn nữa,
hòa nhập với ngành xuất khẩu “gạo” với các nước cùng ngành.
Thứ ba, Chiến lược phát triển sản phẩm theo hướng nâng cao chất lượng sản
phẩm (S1, S2, S4, O3, O4): Ngành xuất khẩu “gạo” theo hướng nâng cao chất
lượng sản phẩm với những thế mạnh như được hưởng những ưu đãi đối với nước
đang phát triển khi gia nhập WTO cùng với thị trường trong nước ổn định kết hợp
với những cơ hội như thu hút được sự quan tâm và đầu tư của các tổ chức tài chính
lớn như WB tạo nên nguồn tài chính dồi dào thêm vào đó là sự chuyển giao công
nghệ với các nước phát triển như Nhật, Mỹ. Chính vì những điểm mạnh và cơ hội
từ bên ngoài mang đến giúp cho chất lượng gạo của chúng ta tốt hơn, đồng đều
hơn từ đó dẫn đến giá gạo cao hơn, doanh thu tăng và khi đó lợi nhuận cũng sẽ
tăng.
2.6. Phối hợp SW:
Phát triển sản phẩm với chất lượng cao (S1, S3,S4, W1, W4): Sau khi gia
nhập WTO, các trợ cấp cho xuất khẩu đều bị cắt bỏ thêm vào đó là những biện
pháp mà chính phủ đưa ra không những không thúc đẩy ngành xuất khẩu “gạo”
phát triển mà vô hình dung còn hạn chế và có tác động đến người dân làm cho
chất lượng cũng như sản lượng gạo ngày một xấu hơn do ý thức chủ quan của
người dân. Để khắc phục những điểm yếu đó chúng ta phải kết hợp nó với các
điểm mạnh như phát triển cũng như tận dụng tối đa các trợ cấp nông nghiệp để lấy
lại niềm tin nơi người nông dân để chất lượng được tốt hơn, nguồn đầu vào ổn
định thêm vào đó do thị trường tiềm năng lớn nên khả năng mang lại lợi nhuận là
rất cao từ đó tạo thêm thu nhập cho người dân để không những củng cố tinh thần
mà còn củng cố chất lượng gạo tốt hơn. Như vậy ngành xuất khẩu “gạo” góp phần
nâng cao ngân sách nhà nước từ đó tạo thêm nguồn vốn cho chính phủ có thể tập
trung đầu tư nghiên cứu để cho ra những quyết định hợp lý, khả thi và đổi mới nó
thay thê cho các kế hoạch cũ để làm sao đó tạo điều kiện tốt nhất cho ngành xuất
khẩu phát triển.
25