A. LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam - trong công cuộc đổi đã thực sự đem lại nhiều kết quả to lớn, làm
thay đổi bộ mặt đất nước và cuộc sống nhân dân, củng cố vững chắc độc lập dân
tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước ta trên
trường quốc tế. Nhân tố quan trọng nhất quyết định thành công của sự nghiệp đổi
mới đó là chiến lược phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, được khởi xướng từ sau đại hội Đảng lần thứ VI.
Ăng Ghen nói: “ Sự phát triển của chính trị, luật pháp, triết học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật đều dựa trên cơ sở phát triển kinh tế ”. Kinh tế là nền tảng vững
chắc cho mọi hoạt động vật chất của con người, là yếu tố quan trọng nhất của đời
sống xã hội. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước đang phát triển, nền kinh tế
còn gặp rất nhiều khó khăn, những tàn dư của chế độ tập trung quan liêu bao cấp
vẫn còn tồn tại khá nhiều. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước, thì ngoài những khó khăn về kinh tế, còn tồn tại những mâu thuẫn
giữa cái cũ và cái mới, kìm hãm sự phát triển. Chính vì thế mà việc nghiên cứu
tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất
nước, phù hợp với khu vực, thế giới và thời đại là hết sức cần thiết.
Nghiên cứu đề tài: “Những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ” dưới góc độ triết học, trong
tổng thể các mối quan hệ biện chứng, sẽ giúp chúng ta hiểu một cách sâu sắc
hơn, bản chất hơn những vấn đề xunh quanh việc phát triển kinh tế.
Là một sinh viên năm thứ nhất, với kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế, nên
nội dung bài tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được
sự nhận xét, đóng góp ý kiến của các thầy cô trong trường. Điều này sẽ giúp em
bổ sung kiến thức, kinh nghiệm, nhằm không ngừng hoàn thiện mình, xứng đáng
với sự mong muốn của nhà trườngvà của công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
1
B. NỘI DUNG
I/ MÂU THUẪN LÀ NGUỒN GỐC, ĐỘNG LỰC CỦA MỌI VẬN ĐỘNG VÀ PHÁT TRIỂN
1. Nội dung của qui luật
Qui luật mâu thuẫn còn được gọi là qui luật thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập, là một trong ba qui luật của phép biện chứng. Nghiên cứu qui luật
này để thấy rõ được nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển
Trong thế giới vô vàn sự vật hiện tượng, mỗi sự vật, hiện tượng tồn tại được
đều là một thể thống nhất được tạo thành bởi các mặt, các thuộc tính, các khuynh
hướng đối lập nhau và phát triển ngược chiều nhau, tạo thành mâu thuẫn tồn tại
trong lòng sự vật hiện tượng đó.
Mâu thuẫn tồn tại từ khi sự vật xuất hiện cho đến sự vật kết thúc. Trong cùng
một sự vật, hiện tượng không chỉ có một mâu thuẫn mà có thể có rất nhiều mâu
thuẫn, khi mâu thuẫn này được giải quyết thì mâu thuẫn khác lại hình thành... và
cứ như vậy thế giới vật chất luôn vận động, biến đổi không ngừng.
a) Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan và phổ biến.
Trong quan điểm của triết học Mác thì rõ ràng vật chất tự thân vận động, nó
hoàn toàn không phụ thuộc vào một lực lượng siêu nhiên nào, kể cả con
người.Chính vì vậy mà khi thừa nhận mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động thì
nó đã bao hàm mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, nó không những không
lệ thuộc vào ý thức của con người mà còn chi phối, qui định cả hoạt động thực
tiễn của con người.
Mâu thuẫn tồn tại trong tất cả các lĩnh vực: tự nhiên, xã hội và tư duy con
người. Trong xã hội, có những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản
xuất, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng...
b) Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
2
Đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, khuynh hướng phát triển
ngược chiều nhau, cùng tồn tại bên trong sự vật, hiện tượng và tạo nên sự vật
hiện tượng đó.
Không phải bất kì hai mặt đối lập nào cũng hình thành nên mâu thuẫn. Bởi
chính bên trong sự vật đã có rất nhiều mặt đối lập, chỉ có những mặt đối lập nào
thống nhất với nhau như một chỉnh thể mới tạo thành mâu thuẫn.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau là điều kiện tồn tại
của nhau. Nếu thiếu một trong hai mặt đối lập chính tạo thành sự vật thì không
tồn tại sự vật đó. Bởi vậy, sự thống nhất của các mặt đối lập là điều kiện không
thể thiếu trong bất kì sự vật hiện tượng nào.
Đấu tranh giưã các mặt đối lập là điều tất yếu trong cùng một sự vật, đó là động
lực phát triển của bản thân sự vật hiện tượng ấy. Chính vì vậy mà Lênin khẳng
định: “Sự phát triển là một cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập”. Đấu tranh diễn
ra trong một thể thống nhất, từ đó sẽ sự phá vỡ thể thống nhất cũ và thiết lập một
thể thống nhất mới và làm cho sự vật vận động và phát triển. Bản chất của quá
trình đấu tranh đó là sự triển khai của các mặt đối lập, diễn ra vô cùng phức tạp
và được chia làm nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn thể hiện một đặc điểm riêng.
Khi bàn luận về mối quan hệ thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, Lênin
khẳng định rõ: “ Mặc dù thống nhất chỉ là điều kiện tồn tại của sự vật, hiện
tượng, và thông qua nó chúng ta nhận biết được sự vật hiện tượng tồn tại trong
thế giới khách quan. Song bản thân sự thống nhất chỉ tương đối tạm thời. Đấu
tranh giữa các mặt đối lập mới là tuyệt đối. Nó diễn ra trong suốt quá trình tồn
tại của mình.”. Như vậy thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập luôn diễn ra
liên tục, và đó chính là cơ sở để giải thích vì sao vật chất tự thân vận động
c) Sự chuyển hoá của các mặt đối lập
3
Như chúng ta đã biết, không phải bất kì sự đấu tranh nào của các mặt đều dẫn
đến sự chuyển hoá giữa chúng. Chỉ có sự đấu tranh của các mặt đối lập phát triển
đến một mức độ nhất định, hội tụ tất cả các điều kiện cần thiết thì mới dẫn đến
sự chuyển hoá, bài trừ phủ định lẫn nhau.
Khi có sự chuyển hoá của các mặt đối lập, thì lúc đó mâu thuẫn được giải
quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Quá trình này diễn ra hết sức phức tạp,
phong phú nhiều vẻ.
Nói tóm lại, trong thế giới vô vàn sự vật, hiện tượng, sự vật hiện tượng nào
cũng chứa đựng mâu thuẫn được thể hiện ở những mặt, những thuộc tính,
khuynh hướng phát triển trái ngược nhau. Khi mâu thuẫn này được giải quyết thì
sự vật mới ra đời kéo theo mâu thuẫn mới tồn tại trong sự vật đó...Cứ như vậy
thế giới vật chất của chúng ta luôn vận động biến đổi. Với câu nói nổi tiếng của
Hêra crít càng minh chứng rõ điều này: “Không ai có thể tắm trên cùng một dòng
sông” .
2. Vai trò của qui luật mâu thuẫn trong hoạt động thực tiễn của con người
Mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến, nó tồn tại trong mọi mặt của đời sống xã hội
dưới nhiều hình thức khác nhau: mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài,
mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn
thứ yếu, mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
Trong hoạt động thực tiễn, mâu thuẫn tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau,
việc phân tích mâu thuẫn có ý nghĩa rất quan trọng. Như chúng ta đã biết, trong
mỗi một sự vật, hiện tượng, không chỉ có một mâu thuẫn mà cùng một lúc có thể
có rất nhiều mâu thuẫn. Việc giải quyết mâu thuẫn là điều tất yếu, nhưng không
thể cùng một lúc chúng ta giải quyết được tất cả các mâu thuẫn. Chính vì thế mà
phải xác định xem mâu thuẫn nào cần phải giải quyết trước. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nói: “ Bất cứ địa phương nào, cơ quan nào, thường trong một lúc có nhiều
4
công việc trọng yếu. Trong một thời gian đó, lại có một công việc trọng yếu nhất
và vài ba việc trọng yếu vừa. Người lãnh đạo trong địa phương hoặc cơ quan đó
phải xem xét kĩ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì
làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoặch, gặp việc nào làm việc ấy,
thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, không có ngăn nắp “
Ví dụ: Một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu là: Tiến hành cải tổ không theo một trình tự rõ
ràng, đã có sự phê phán đối với “sự trì trệ” nhưng không xác định được mâu
thuẫn nào cần được giải quyết trước, và chúng được thực hiện theo sự nhất quán
nào, vào thời gian nào,trong điều kiện nào. Từ đó dẫn đến hiện tượng luống
cuống, hỗn độn, mất ổn định của nhà nước và xã hội.
Trong hoạt động thực tiễn, phát hiện và nhận thức mâu thuẫn là rất quan trọng,
không nên lảng tránh và che dấu mâu thuẫn. Hơn nữa, mâu thuẫn được giải
quyết bằng quá trình đấu tranh theo qui luật khách quan. Cho nên rong đời sống
xã hội chúng ta phải coi hành vi đấu tranh là chân chính.
II/ Tính tất yếu phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Đại hội Đảng lần thứ VI có ý nghĩa lịch sử, đánh dấu bước ngoặt chuyển đất
nước ta sang thời kì mới, thay thế nền kinh tế hiện vật với cơ chế tập trung quan
liêu bao cấp, sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ( KTTT
ĐH XHCN ).
KTTT định hướng XHCN, thực chất là kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên
những nguyên tắc và qui luật của KTTT, vừa dựa trên nguyên tắc và bản chất
của CNXH. Do đó, KTTT định hướng XHCN có hai nhóm nhân tố cơ bản tồn tại
trong nhau, kết hợp với nhau và bổ sung cho nhau. Đó là nhóm của KTTT đóng
vai trò như là “động lực” thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển nhanh và nhóm
5
nhân tố của xã hội XHCN, đóng vai trò hướng dẫn, chỉ định sự vân động của nền
kinh tế theo những mục tiêu đã xác định.
Vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường hết sức quan trọng.
Sự quản lý của nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu
quả, đặc biệt là sự đảm bảo công bằng và tiến bộ xã hội. Không có ai ngoài nhà
nước lại có thể giảm bớt được sự chênh lệch giữa giàu và nghèo, giữa thành thị
và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng của đất
nước...Chính vì vậy mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là
một đặc trưng cơ bản của nước ta, nó hoàn toàn khác với mô hình kinh tế thị
trường của các nước trên thế giới.
Mô hình kinh tế hiện vật chỉ phù hợp trong thời chiến, lúc đó chúng ta cần tập
trung toàn bộ sức người, sức của để phục vụ cho tiền tuyến. Nhưng trong thời
bình, mô hình đó tỏ ra không phù hợp và thực chất đó là mô hình phi kinh tế.
Hơn thế, đất nước ta sau chiến tranh rơi vào trong tình trạng trầm trọng nhất của
khủng hoảng kinh tế – xã hội: sản xuất đình đốn, lạm phát tăng vọt, đất nước bị
bao vây kinh tế, đời sống nhân dân hết sức khó khăn ... Duy trì mô hình hiện vật,
không những không giải quyết được vấn đề hiện có mà nó còn cho thấy rõ
khuyết tật bên trong kìm hãm sự phát triển : nền kinh tế không có động lực,
không có sức đua cạnh tranh, không phát huy được tính chủ động sáng tạo của
người lao động, của các chủ thể sản xuất kinh doanh, sản xuất không gắn với nhu
cầu, ý chí chủ quan đã lấn áp ý chí khách quan và triệt tiêu mọi động lực và sức
mạnh nội sinh của bản thân nền kinh tế, làm cho nền kinh tế suy thoái, thiếu hụt
hiệu quả thấp, nhiếu mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không được thực hiện.
Thực tế cho thấy, sự phát triển của thị trường tự do chen lẫn thị trường có tổ
chức, sự lẳng lặng vi phạm các qui tắc, các chuẩn mực lúc bấy giờ là những phản
ánh sự bất lực của một cơ chế quản lý cứng nhắc. Đứng trước tình hình đó, Đảng
đã kịp thời có những chuyển biến, bắt đầu uốn nắn những lệch lạch trong phong
6
trào hợp tác hoá, công nghiệp hoá đến việc thay đổi thể chế chính sách. Nghị
quyết Trung ương lần thứ VI được đánh dấu như một cái mốc trong quá trình
chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế: cho sản xuất bung ra, thừa nhận quan hệ hàng
hoá - tiền tệ, cho tự do lưu thông. Và như thế nền kimh tế hàng hoá nhiều thành
phần ra đời, tạo tiền đề cần thiết để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Đó là
một hệ quả tất yếu, là bước phát triển không thể thiếu trong nền kinh tế
Trên con đường đi lên chủ ngihĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đó chính là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển
lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại
gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản
lý và phân phối.
Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa QHSX với tính
chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó chính là mô hình kinh tế tổng quát
của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
III/ Những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Sau đại hội Đảng lần thứ IV, đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới
toàn diện, và cho đến nay, sau 15 năm thực hiện đã thực sự đem lại kết quả to
lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội: đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh
tế – xã hội, tổng sản phẩm trong nước tăng gấp ba, từ tình trạng hàng hoá khan
hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân
7
dân, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tăng nhanh. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp
từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%,
dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%....Bên cạnh những kết quả mà ta đạt được, là
những khó khăn trong khi xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trước hết phải nói đến điểm xuất phát của ta khi chuyển dịch cơ chế, từ
nền kinh tế yếu kém, mang đậm tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá
vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự tích luỹ dồi dào, khoa học
công nghệ phát triển và một nền kinh tế vững mạnh ...Tiếp theo đó là cơ chế
quản lý của nhà nước, mặc dù đường lối của Đảng đặt ra là đúng đắn, nhưng việc
thực hiện nó không đồng bộ. Y thức hệ còn chưa được rõ ràng, tác phong cá
nhân yếu kém... Chính những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển
kinh tế thị trường, đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm bước phát triển.
1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ
bản trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì vấn đề lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. xét trên phương
diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là ý thức,
lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định
quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định
thì quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm
hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản
xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau,
nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ơ Việt Nam,
8
mặc dù nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX
phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng
và phát triển nền kinh tế thị trường thì LLSX luôn tỏ ra mâu thuẫn với QHSX.
Tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh
tế thị trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế,
chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao
hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí
điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn làm chậm. Chưa quan tâm tổng
kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác,
để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát
triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiêm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác
mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư
nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kimh tế này.
Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ
mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế
hoạch hoá, qui hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn yếu kém, thủ tục đổi mới
hành chính chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng,
chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn
nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế
độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn ...
Đó là một số hạn chế của QHSX kìm hãm LLSX phát triển và điều đó làm cho
quá trình xây dựng đất nước của ta gặp nhiều khó khăn.
Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình
trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa LLSX –
QHSX có sự mất cân đối.
9
Khi QHSX phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà còn tạo
tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của LLSX. Vì vậy vấn đề đặt ra cần đặt ra là
làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này?
Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính
sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới
cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức
sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo
hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo
các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích
phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh
các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế
mạnh.
Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thức hiện tốt vai trò chủ đạo
trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những sản xuất và
dịch vụ quan trọng: Xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng
cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế
Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh
của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt
động theo cơ chế công ty trách nhiệm hưũ hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm
quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật,xoá bỏ bao cấp của nhà nước
đối với doanh nghiệp.
Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không
nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng
động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
10