Lời nói đầu
Từ Đại hội Đảng VIII đến nay, Đảng ta luôn xác định công nghiệp hoá là
nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ. Nhiệm vụ CNH - HĐH đã đợc thực
hiện ở nớc ta trong những năm qua, nhất là thời kỳ đổi mới chúng ta đã thu đợc
nhiều thành tựu quan trọng tạo thế và lực cho thời kỳ phát triển tiếp theo. Bên
cạnh những thành tựu đã đạt đợc chúng ta không tránh khỏi những sai lầm. Để
giải quyết những nhiệm vụ mới đặt ra cùng khắc phục những thiếu xót khiếm
khuyết, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu về kinh tế đa đất nớc ra khỏi tình trạng đói
nghèo, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cờng tiềm lực quốc phòng an ninh,
củng cố vững chắc độc lập chủ quyền quốc gia thì không có con đờng nào khác
con đờng đẩy mạnh CNH - HĐH đất nớc.
Vấn đề CNH - HĐH là một vấn đề rất rộng, trong phạm vi bài viết này
em xin đề cập đến: Nội dung CNH - HĐH ở nớc ta hiện nay. Tiểu luận này
hoàn thành theo yêu cầu của Bộ môn Kinh tế chính trị, trờng Học viện Ngân
hàng. Nội dung của tiểu luận dựa trên t tởng của những bài viết về vấn đề CNH
- HĐH của các chuyên gia hoạt động trong các ngành kinh tế, do phạm vi của
vấn đề rộng lớn cùng hạn chế về mặt trình độ nhận thức của bản thân nên nội
dung tiểu luận này khó tránh khỏi những sơ sài, hạn chế và thiếu xót. Em rất
mong nhận đợc những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giảng viên bộ môn đã giúp đỡ em
hoàn thành tiểu luận này.
1
A. Phần mở đầu
Hiện nay trên thế giới đang diễn ra cuộc chạy đua phát triển kinh tế rất sôi
động, các nớc nhanh chóng thực hiện các chính sách kinh tế nhằm đa kinh tế
phát triển trong đó con ngời là vị trí trung tâm. Muốn vậy các nớc không còn
con đờng nào khác là phải thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Do vậy vấn
đề công nghiệp hoá là vấn đề chung mang tính toàn cầu khiến mọi ngời đều
phải quan tâm nghiên cứu nó.
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng, phát triển kinh tế là quy luật khách
quan của tồn tại và phát triển xã hội loài ngời và bất cứ ở giai đoạn nào, ở bất kỳ
đất nớc nào không loại trừ các nớc giàu mạnh về kinh tế suy đến cùng đều đợc
bắt đầu và quyết định phát triển kinh tế nghĩa là phải bắt đầu từ phơng thức sản
xuất. Vấn đề khách nhau giữa các nớc chỉ là ở mục tiêu, nội dung và cách thức
phát triển, có sự khác nhau về tốc độ về hiệu quả và trên thực tế chỉ một số ít n-
ớc công nghiệp hoá thành công.
Nh ta đã biết mỗi phơng thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ
thuật tơng ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thờng đợc hiểu
là toàn bộ vật chất của lực lợng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt đợc
trình độ xã hội tơng ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong
phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động
của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ trong cơ cấu
xã hội. Vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với các hình
thức xã hội của nó. Đặc trng cơ sở vật chất kỹ thuật của phơng thức trớc thời
công nghiệp t bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản
xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dựa
trên trình độ khoa học kỹ thuật công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất
và kỹ thuật nh vậy các nớc đang phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá.
2
Nớc ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nớc nghèo
nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn cha thoát khỏi xã hội truyền thống để
sang "Xã hội văn mình công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công
nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phơng thức là con đờng phát triển nhanh
có hiệu quả. Đối với nớc ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại
hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm
biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính
trị...
Hiện nay đất nớc ta còn nghèo (thuộc nhóm thứ 3 thì việc công nghiệp hoá
- hiện đại hoá là con đờng tất yếu. Từ Đại hội Đảng VI của Đảng xác định đây
là thời kỳ phát triển mới - Thời kỳ "Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nớc" định hớng phát triển nhằm mục tiêu "Xây dựng nớc ta thành một nớc
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất, đời sống
vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nớc mạnh, xã
hội công bằng văn minh.
Để góp phần nghiên cứu về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trong khuôn
khổ bài viết này em xin đề cập đến "Nội dung công nghiệp hoá - hiện đại hoá
ở nớc ta hiện nay.
3
B. Nội dung
I. Sự cần thiết phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện
đại hoá.
1. Công nghiệp hoá là xu hớng mang tính quy luật của các nớc đi từ
nền sản xuất nhỏ đi lên một nền sản xuất lớn.
Để có một xã hội nh ngày nay không phải do tự nhiên mà có , nó do quá
trình tính luỹ về lợng ngay từ khi loài ngời xuất hiện thì sản xuất thô sơ, đời
sống không ổn định, cơ sở vật chất hầu nh không có gì nhng trải qua sự nỗ lực
của con ngời tác động vào giới tự nhiên, cải biến nó thông qua lao động, trải
qua nhiều thăng trầm của lịch sử giời đây con ngời đã tạo ra đợc những thành
công đáng kể. Thành tựu đạt đợc là do quy luật phát triển do tự thân vận động
của con ngời trong toàn xã hội. Ngày nay công cuộc xây dựng các nớc đã cố
gắng rất nhiều trong cuộc cạnh tranh chay đua về kinh tế. Thể hiện là các chính
sách, đờng lối về phát triển kinh tế ngày một toàn diện hơn, về các mặt quan hệ
sản xuất, lực lợng sản xuất, nền văn hoá và con ngời của xã hội đó. Công nghiệp
hoá chính là con đờng và bớc đi tất yếu để tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho
nền sản xuất hiện đại.
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại cũng là
một quy luật chung, phổ biến đối với tất cả các nớc, tuy nhiên tuỳ từng nớc
khác nhau, do điểm xuất phát tiến lên khác nhau, mục tiêu phát triển không
giống nhau nên cách thức tiến hành cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất
lớn, hiện đại không giống nhau. Đối với những nớc có nền kinh tế kém phát
triển nh nớc ta hiện nay (nền sản xuất nhỏ, kỹ thuật thủ công là chủ yếu...) công
nghiệp hoá là quá trình mang tính quy luật, tất yếu để tồn tại và phát triển nhằm
tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại.
Có tiến hành công nghiệp hoá chúng ta mới:
- Xây dựng đợc cơ sở vật chất- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội ở nớc ta.
4
- Mới tiến hành tái sản xuất mở rộng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, mới tích luỹ về lợng mới để xây dựng thành công nền sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
- Mới tăng cờng phát triển lực lợng giai cấp công nhân.
- Mới củng cố quốc phòng giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội.
- Mới góp phần xây dựng và phát triển nền văn hoá dân tộc, xây dựng con
ngời mới ở Việt Nam.
Nh vậy công nghiệp hoá là xu hớng mang tính quy luật cả các nớc đi từ
một nền sản xuất nhỏ sang nền sản xuất lớn.
2. Tính tất yếu phải tiến hành đồng thời công nghiệp hoá - hiện đại
hoá của nớc ta.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều nớc dù thắng hay bại đều trở
thành nớc kiệt quệ đã trở thanh một trong những nguyên nhân cho bớc khởi
động của cuộc khoa học công nghệ hiện đại. Có thể chia cuộc cách mạng khoa
học kỹ thuật hiện đại thành hai giai đoạn.
- Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ những năm 40 đến giữa những năm 70.
Giai đoạn này sử dụng khoa học kỹ thuật để hiện đại hoá các công cụ sản xuất,
phát triển kinh tế theo hớng mở rộng và tăng thêm các yếu tố sản xuất. Thực
chất đây là giai đoạn bắt đầu phát triển của lực lợng sản xuất cả về con ngời và
công cụ sản xuất.
Bình quân tăng trởng kinh tế hàng năm ở các nớc kinh tế phát triển là
5,6%. Tốc độ tăng trởng này đợc giữ nguyên trong vòng 20 năm kể từ năm
1950 đến 1970.
- Giai đoạn hai bắt đầu vào những năm 70 trở đi và cho đến nay vẫn đang
tiếp tục rất mạnh mẽ. Giai đoạn này là thực hiện cuộc cách mạng với qui mô lớn
và toàn diện trên lực lợng sản xuất trên cơ sở áp dụng các thành tựu khoa học -
kỹ thuật, đổi mới toàn bộ bộ máy sản xuất hiện hành trên cơ sở sử dụng những
5
phơng tiện kỹ thuật về công nghệ mới khác hẳn về nguyên tắc thay thế hàng
loạt các thiết bị lạc hậu bằng các thiết bị hiện đại làm cho năng suất và chất l-
ợng sản phẩm lên cao.
Đây là giai đoạn biến đổi hẳn về chất của lực lợng sản xuất ở các nớc t
bản chủ nghĩa thì đây cũng là thời kỳ mâu thuẫn giữa lực lợng sản xuất và quan
hệ sản xuất lên cao tạo điều kiện cho sự ra đời của phơng thức sản xuất mới.
Quá trình diễn ra không đồng đều ở các nớc do nhiều nguyên nhân dễ
dẫn đến sự chênh lệch về kinh tế.
Trên thế giới hình thành 3 nhóm nớc đó là các cờng quốc về kinh tế, các
nớc phát triển và đang phát triển. Sự phân chia này cũng hình thành nên các
mâu thuẫn cơ bản của xã hội, vấn đề cơ bản của các nớc đang phát triển là đờng
lối đấu tranh hoà bình giải quyết mâu thuẫn thông qua làm cuộc cách mạng về
kinh tế.
Việt Nam là một nớc có nền kinh tế nhỏ, lạc hậu về khoa học kỹ thuật,
lực lợng sản xuất còn non nớt cha phù hợp với quan hệ sản xuất của xã hội chủ
nghĩa. Để có cơ sở kỹ thuật của nền sản xuất lớn, không còn con đờng nào khác
là công nghiệp hoá, cơ khí hoá cân đối và hiện đại trên trình độ khoa học kỹ
thuật phát triển cao.
Muốn vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá là phát triển tuần tự và phát
triển nhẩy vọt, cùng một lúc thực hiện hai cuộc cách mạng đó là chuyển lao
động thô xơ sang lao động bằng máy móc và chuyển lao động máy móc sang
lao động tự động hoá có sự chỉ đạo của Nhà nớc theo định hớng XHCN.
II. Lý luận chung về CNH và khái quát lịch sử quá trình CNH ở
Việt Nam
1. Những vấn đề lý luận chung về công nghiệp hoá - hiện đại hoá
(CNH-HĐH)
Công nghiệp hoá - hiện đại hoá là một khái niệm mà đợc nhiều chuyên gia
kinh tế đề cập đến, nhiều nghiên cứu định nghĩa về vấn đề này. Lôgic và lịch sử
đều khẳng định rằng từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn hiện đại, CNH là bớc đi
6
tất yếu mà mỗi dân tộc sớm muộn đều phải trải qua. Trong thời đại ngày nay
công nghiệp hoá bao gồm cả hiện đại hóa làm xuất hiện cụm từ kép "công
nghiệp hoá, hiện đại hoá". Không nên chỉ hiểu CNH, HĐH theo nghĩa hẹp, theo
nghĩa nó là một quá trình hình thành cách thức sản xuất chỉ tiêu kỹ thuật và
công nghệ hiện đại riêng trong lĩnh vực tiểu công nghiệp mà nên hiểu theo
nghĩa rộng: quá trình đó diễn ra trong tất cả các ngành của nền kinh tế quốc
dân.
Kinh nghiệm CNH ở nhiều nớc trên thế giới cho thấy "cốt lõi" của CNH
trong thời đại ngày nay là sự đổi mới trang bị kỹ thuật (phần cứng: máy móc
thiết bị...) và công nghệ (phần mềm: phơng pháp, quy tắc, quy trình, phơng
thức, kinh nghiệm, kỹ năng...), chuyển từ kỹ thuật và công nghệ lạc hậu năng
suất thấp lên trình độ kỹ thuật và công nghệ tiên tiến có năng suất và hiệu quả
kinh tế xã hội cao trong tất cả các lĩnh vực, các ngành của nền kinh tế quốc dân.
Theo t duy và quan điểm mới hiện nay có thể hiểu nội dung chủ yếu của
CNH ở các nớc cũng nh nớc ta là: trang bị kỹ thuật công nghệ hiện đại và theo
đó xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý trong tất cả các ngành của nền KTQD.
Tóm lại có thể hiểu là: "Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi
căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh
tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng với công nghệ, phơng tiện và phơng pháp tiên tiến, hiện
đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (1993) công nghiệp hoá là một quá
trình phát triển nền kinh tế. Trong quá trình này nguồn của cải quốc dân đợc
động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nớc với kỹ thuật hiện
đại. Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để
sản xuất ra những t liệu sản xuất và hàng hoá tiêu dùng có khả năng đảm bảo
cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao, đảm bảo đạt tới sự tiến bộ
kinh tế xã hội. Hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ chỗ theo những
quy trình công nghệ thủ công là chính sang chỗ sử dụng một cách phổ biến
những quy trình công nghệ, phơng tiện, phơng pháp tiên tiến hiện đại dựa trên
sự phát triển khoa học kỹ thuật tạo ra năng suất lao động hiệu quả và trình độ
văn minh kinh tế xã hội cao.
7
Trong văn kiện hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành trung ơng khoá VII có
viết "Quá trình CNH-HĐH là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng một cách phổ
biến sức lao động cùng công nghệ và phơng tiện hiện đại tạo ra năng suất lao
động cao. Đối với nớc ta đó là một quá trình thực hiện chiến lợc phát triển kinh
tế xã hội nhằm cải tiến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công
nghiệp gắn với việc hình thành từng bớc quan hệ sản xuất tiến bộ. Ngày càng
thể hiện đầy đủ hơn bản chất u việt của chế độ mới. Nh vậy CNH-HĐH không
chỉ là một quá trình tất yếu khách quan đối với nớc ta mà chúng ta có sẵn những
cơ sở lý luận vững chắc để áp dụng vào thực tế nền kinh tế nớc ta.
2. Khái quát lịch sử quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam trong thời gian qua
Có thể xem xét thực trạng CNH ở nớc ta qua 2 khía cạnh trang bị kỹ thuật,
công nghệ và việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Trên thực tế công cuộc CNH
đợc tiến hành ở nớc ta từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (1960).
Chủ trơng CNH đợc tiến hành qua các kế hoạch dài hạn 5 năm song do
nhiều điều kiện khách quan gây khó khăn nh nền kinh tế vốn nghèo nàn lạc hậu
chính sách cấm vận gây thù địch của Mỹ, trình độ dân trí, nguồn lao động cha
cao v.v.. Thực trạng của quá trình CNH còn nhiều khó khăn.
Trình độ trang bị kỹ thuật, trình độ kết cấu hạ tầng và việc ứng dụng
những thành tựu mới của khoa học và công nghệ vào sản xuất và dịch vụ còn
thấp kém, lạc hậu.
Qua mấy thập niên CNH, chúng ta đã xây dựng đợc một số cơ sở vật chất -
kỹ thuật nhất định. Cho đến nay một số công trình lớn và trọng điểm sau nhiều
năm xây dựng và bắt đầu đa vào hoạt động trong cả công nghiệp lẫn nông
nghiệp, giao thông vận tải, bu điện v.v.. Tất nhiên so với trình độ của thế giới
vẫn ở trong tình trạng còn thấp kém và lạc hậu: Thành phần kinh tế nhà nớc đợc
trang bị nhiều nhất, cao nhất có tổng số 27,8 nghìn tỷ đồng tài sản cố định chỉ
26% giá trị thiết bị máy móc, phần lớn thiết bị thuộc hệ kỹ thuật những năm
1950-1960 chịu ảnh hởng lớn của hao mòn vô hình. Việc tiếp cận thành tựu
khoa học mới của nớc ta còn chậm trình độ tự động hoá các công cụ sản xuất
còn thấp: Trung ơng đạt tỷ lệ 3%, địa phơng 1,7% về mức độ tự động hoá công
cụ. Kết cấu hạ tầng sản xuất và xã hội còn rất thấp kém cả về trình độ kỹ thuật,
công nghệ lẫn mạng lới nhỏ hẹp. Sản phẩm làm ra không có sức cạnh tranh, giá
8