Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Tổ chức lãnh thổ Nông, lâm, ngư nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.84 KB, 19 trang )

TỔ CHỨC LÃNH THỔ NÔNG - LÂM - NGƯ
ĐẶC ĐIỂM CHUNG
3.1.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp (SXNN)
- Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên phạm vi không gian rộng lớn . Đối với SXNN thì đất
đai là tư liệu sản xuất cơ bản nhất, ở đâu có đất đai thích hợp ở đó có thể phát triển nông nghiệp. Vì vậy,
trong việc phát triển và phân bố cần chú ý những vùng đất có qui mô lớn (đồng bằng châu thổ) nên tổ chức
thành những vùng CMH’ SXNN để tạo ra khối lượng hàng hoá lớn; Những vùng đất hẹp cần phát triển
nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng tại chỗ ở mức độ nhất định. Phân bố nông nghiệp cần chú ý đến
việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm đất.
- Sản xuất nông nghiệp gắn chặt với môi trường tự nhiên. Môi trường tự nhiên (đặc biệt là đất đai,
khí hậu, nguồn nước) tác động mạnh và thường xuyên đến phát triển và phân bố nông nghiệp. Vì vậy muốn
phân bố hợp lý nền kinh tế nông nghiệp của một nước (một vùng), cần phải ng/cứu kỹ và hiểu rõ những điều
kiện tự nhiên để phân bố các loại cây trồng-vật nuôi thích hợp; đồng thời phải có kế hoạch phòng chống,
hạn chế những tác động tiêu cực của môi trường tài nguyên đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp.
- Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ, thời gian lao động ngắn hơn thời gian sản xuất. Thời
vụ là đặc trưng của sản xuất nông nghiệp, mỗi loại cây trồng đều phát triển theo mùa và thời gian sinh
trưởng nhất định. Trong thời gian đó, cây trồng có thể tự phát triển mà không cần tới sự tác động của con
người. Vì vậy lao động trong nông nghiệp có lúc dồn dập, có lúc nhàn rỗi, thời gian lao động bao giờ cũng
ngắn hơn thời gian sản xuất. Để giảm tính thời vụ, sử dụng hợp lý nguồn lao động ở nông thôn cần xác định
một cơ cấu cây trồng - vật nuôi hợp lý, kết hợp lao động với thời vụ. Để đạt hiệu quả cao trong SXNN cần
thực hiện CMH’ với phát triển tổng hợp, đa dạng hoá SXNN, kết hợp giữa trồng trọt với chăn nuôi, thực
hiện các biện pháp luân-xen-tăng-gối vụ, kết hợp tốt giữa N-L-N nhằm đa dạng hoá cơ cấu kinh tế nông
thôn.
- Sản xuất nông nghiệp cần phải gắn CNCB’ và thị trường tiêu thụ (CNCB’). Gắn với CNCB’ sẽ
tạo chu trình sản xuất nông- CN hợp lý. Hình thức tổ chức này sẽ làm tăng giá trị của sản phẩm nông
nghiệp, nâng cao trình độ CMH’ sản xuất. Nước ta có nhiều vùng có thể hình thành chu trình nông – CN về
sản xuất – chế biến như cao su, chè, cà phê, mía đường.v.v.
3.1.2. Đặc điểm tổ chức lãnh thổ các ngành sản xuất nông - lâm – ngư (N-L-N)
a. Ngành trồng cây lương thực (LT). Cây LT có địa bàn phân bố rộng thường trùng với địa bàn
phân bố dân cư. Do đó cần phát triển cây LT (cả lúa và màu) nhằm giải quyết nhu cầu LT ở trong nước; Mặt
khác còn tạo ra những mặt hàng xuất khẩu có giá trị, giải quyết nhu cầu tiêu dùng tại chỗ, hạn chế vận


chuyển xa.Cây lương thực (trừ sắn) đều có thời vụ ngắn. Vì vậy, phân bố nên chú ý tới việc xen canh - gối
vụ - thâm canh - tăng vụ, rút ngắn thời vụ; đồng thời tuỳ theo điều kiện sinh thái ở mỗi vùng mà bố trí cây
trồng thích hợp. Sản phẩm cây lương thực khó bảo quản và chuyên chở, có nhiều phụ phẩm cho phát triển
chăn nuôi. Vì vậy, phân bố cây lương thực phải kết hợp với các cơ sở công nghiệp chế biến; phải kết hợp
với phân bố các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm tạo ra sự cân đối giữa trồng trọt - chăn nuôi trong từng
vùng.
b. Ngành trồng cây công nghiệp và cây ăn quả (cây CN)
- Đối với cây công nghiệp ngắn ngày, nên bố trí ở những vùng có độ dốc thấp, ở đồng bằng, nên xen
– luân - gối vụ với cây lương thực.
- Đối với cây công nghiệp dài ngày (cả cây ăn quả), nên bố trí thành các vùng chuyên canh rộng lớn
trên các loại thổ nhưỡng thích hợp với từng loại cây nhằm tạo ra khối lượng hàng hóa và giá trị sản phẩm
cao nhất. Độ dốc có thể cao hơn cây hàng năm.
- Phân bố cây công nghiệp (đặc biệt là cây công nghiệp lâu năm) cần chú ý tới số lượng và chất
lượng của nguồn lao động, truyền thống nghề nghiệp của dân cư . Bởi vì, sản xuất cây công nghiệp lâu cần
nhân công có kĩ thuật, có tập quán kinh nghiệm và hao phí nhiều lao động hơn so với trồng cây lương thực,
số ngày lao động thường gấp 2-3 lần so với trồng cây lương thực, điều kiện cơ giới hoá cũng khó khăn hơn;
Khi mở rộng diện tích trồng cây công nghiệp phải tính đến việc bố trí lại nguồn lao động và sử dụng hợp lý
các nguồn lao động theo thời vụ. Cây công nghiệp lâu năm đòi hỏi vốn đầu tư lớn, lâu thu hồi vốn; khi phân
bố cần điều tra, tính toán tỉ mỉ hiệu quả sử dụng đất-vốn-lao động phù hợp với các điều kiện tự nhiên - kinh
tế trong sử dụng lâu dài, ổn định. Phân bố cây công nghiệp phải đảm bảo đạt sản lượng hàng hoá cao (vì
phần lớn các sản phẩm đều đưa ra khỏi vùng, chủ yếu để xuất khẩu), vì vậy phải lựa chọn những loại cây
thích hợp với điều kiện tự nhiên cụ thể, chọn những giống tốt nhất, và đáp ứng được với nhu cầu thị trường.
Sản phẩm cây công nghiệp rất đa dạng, phức tạp, khó chuyên chở và bảo quản, dễ hư hao và giảm chất
lượng. Vì vậy, khi phân bố cây công nghiệp phải chú ý xây dựng đồng bộ các cơ sở CNCB’, tạo thành các
hình thức liên kết nông – công nghiệp đa dạng.
c. Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm và thủy sản. Hoạt động chăn nuôi diễn ra liên tục không mang
tính thời vụ như trồng trọt, nhưng ít nhiều cũng phụ thuộc vào tính thời vụ của trồng trọt. Tính chất 2 mặt
của ngành chăn nuôi đòi hỏi phải bố trí LLLĐ thích hợp, ổn định từ khâu gieo trồng cây thức ăn, chế biến
thức ăn đến chăn nuôi; phòng trừ dịch bệnh; tiêu thụ sản phẩm. Ngành chăn nuôi có quan hệ chặt chẽ với
ngành trồng trọt (chăn nuôi cung cấp sức kéo, phân bón cho trồng trọt; ngược lại, trồng trọt cung cấp thức

ăn cho chăn nuôi). Như vậy, cần cân đối về sức kéo - phân bón - thức ăn giữa chăn nuôi - trồng trọt. Ngành
chăn nuôi có thể tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị khác nhau như sức kéo, phân bón, thịt, sữa, trứng, bơ, da,
lông, .v.v. Tuỳ theo nhu cầu của thị trường và tiêu dùng của xã hội mà xác định cơ cấu, qui mô vật nuôi phù
hợp với ĐKTN, kinh tế của từng vùng. Ví dụ: Những vùng thiếu sức kéo, thiếu phân bón, lại có đồng cỏ nên
phân bố loại gia súc lớn. Những vùng có đồng cỏ nhân tạo nên phát triển đàn bò sữa. Những vùng công
nghiệp tập trung và các thành phố lớn nên phân bố cơ sở chăn nuôi lợn, gia cầm, thịt bò, bò sữa .v.v. Các
sản phẩm của ngành chăn nuôi (thịt, trứng, sữa ) cần được chế biến và vận chuyển kịp thời. Vì vậy, cần bố
trí gần các cơ sở chế biến, gần vùng tiêu thụ.
3.2. CÁC NGÀNH SẢN XUẤT
A. NÔNG NGHIỆP
1. VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC DÂN (KTQD)
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất sớm nhất của xã hội loài người. Trên thế giới, cách đây
khoảng 1 vạn năm con người đã biết thuần dưỡng động vật, trồng các loại cây dại và dần dần biến chúng
thành vật nuôi - cây trồng. Ở Việt Nam, nông nghiệp ra đời trong văn hóa khảo cổ học Hòa Bình cách đây >
1 vạn năm. Bên cạnh việc trồng các cây có củ, con người đã biết đến lúa (là lúa hoang, lúa trời). Sau này,
trong quá trình phát triển tiếp theo, VH Phùng Nguyên có vị trí quan trọng đối với việc hình thành nền "Văn
minh lúa nước sông Hồng". Cách đây trên 4.000 năm, ở lưu vực S.Hồng và các phụ lưu, các bộ tộc Phùng
Nguyên với kĩ thuật luyện kim và trồng lúa nước đã tạo nên những tiền đề vật chất và tinh thần đầu tiên cho
thời đại các Vua Hùng. Tổ tiên ta từ Văn hóa Phùng Nguyên đã sớm chọn cây lúa nước làm nguồn SX
chính, đặt nền móng cho nông nghiệp của nước ta phát triển như ngày nay (Lê Quốc Sử, 1998). Với sự phát
triển của KH-KT, nông nghiệp ngày càng được mở rộng; các giống cây trồng-vật nuôi ngày càng đa dạng và
phong phú. LT-cái ăn của con người thường được đặt lên hàng đầu.
• Vai trò của sản xuất nông nghiệp
- Nông nghiệp sản xuất ra LT - TP đáp ứng nhu cầu hàng ngày của con người. Đối với cả nước (nói
chung) và từng thành viên cụ thể (nói riêng), LT có ý nghĩa rất quan trọng. Nhờ có chính sách phù hợp và sự
tiến bộ trong sản xuất mà nền nông nghiệp nước ta phát triển không ngừng, từ chỗ thiếu đói triển miên, đến
nay không chỉ đáp ứng đủ cho nhu cầu trong nước mà còn tham gia vào xuất khẩu với số lượng lớn. nông
nghiệp còn có nhiệm vụ đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng trong khẩu phần ăn hàng ngày thông qua việc trồng
các cây TP giàu đường, đạm, lipit cũng như việc chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản.

- Nông nghiệp đảm bảo nguồn nguyên liệu cho công nghiệp CB’LT–TP: Các ngành công nghiệp
CB’TP, đồ uống, dệt, giấy, đồ dùng bằng da, đều sử dụng nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp. Vì thế trong
chừng mực nhất định, nông nghiệp có ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố ngành CNCB’. Để đáp ứng
cho nhu cầu của việc chế biến, các vùng chuyên canh đã được hình thành ở đồng bằng, TD-MN' (2 vùng
trọng điểm lúa; 3 vùng chuyên canh cây công nghiệp; các vùng chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản).
- Nông nghiệp góp phần vào việc phục vụ nhu cầu tái sản xuất mở rộng các ngành kinh tế. Hiện nay,
nông nghiệp vẫn chiếm trên 60,0% LĐXH. Khả năng thúc đẩy tái sản xuất mở rộng của ngành này thể hiện
ở chỗ: nông nghiệp cung cấp lao động dư thừa cho các ngành nhờ vào việc áp dụng những tiến bộ của KH-
KT (tất nhiên, đó là lao động thủ công, muốn sử dụng có hiệu quả, cần phải có chiến lược đào tạo). Mặt
khác, việc đẩy mạnh nông nghiệp tạo điều kiện cho nhiều ngành cùng phát triển. Trong mối quan hệ đó, bản
thân nông nghiệp lại là thị trường rộng lớn để tiêu thụ sản phẩm của hàng loạt các ngành kinh tế khác.
- Nông nghiệp sản xuất ra những mặt hàng có giá trị xuất khẩu nhằm tăng thêm nguồn ngoại tệ cho
đất nước. Năm 2002, trị giá hàng XK trong N - L - N đạt 5.011,7 triệu USD (chiếm 30% tổng kim ngạch
xuất khẩu của cả nước), riêng hàng nông sản là 2.422,0 triệu USD. Gần đây, tỉ trọng của nông nghiệp trong
cơ cấu GDP có xu hướng giảm, nhưng giá trị tuyệt đối của ngành vẫn tăng liên tục (đây là một xu thế tất
yếu, phản ánh trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội).
- Nông nghiệp giữ vị trí quan trọng trong nền KTQD do vai trò của nó đối với xã hội - nuôi sống
con người là không thể thay thế được. Trong công cuộc CNH’ và HĐH’ đất nước, thì nông nghiệp được coi
là đối tượng chủ yếu. Vì vậy, nông nghiệp sẽ được trang bị lại từ công cụ cho đến các phương tiện SX; Bằng
việc mở mang các ngành nghề mới, hướng vào SX các nông phẩm hàng hóa. Bản thân nông nghiệp đang tự
mình cải tạo và chuyển hướng SX, sử dụng lao động cho phù hợp với cơ chế thị trường, tạo ra bộ mặt mới
cho từng vùng nông thôn của cả nước.
2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên (ĐKTN - TNTN)
a. Đất đai
Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất trong nông nghiệp; cây trồng - vật nuôi là đối tượng lao
động trong sản xuất nông nghiệp. Chính vì thế, nhân tố quan trọng hàng đầu đối với sản xuất nông nghiệp là
đất đai rồi mới đến khí hậu và nguồn nước. Đất đai ảnh hưởng quyết định đến qui mô, cơ cấu và phân bố
nông nghiệp (đặc biệt là với ngành trồng trọt).
Nước ta có 2 nhóm đất chính (feralit và đất phù sa). Tuỳ theo các nhân tố, điều kiện hình thành và sự

tác động của con người mà các loại đất trên có sự phân hoá khác nhau.
▪ Đất miền núi, chủ yếu là đất feralit. Trong điều kiện khí hậu nhiệt đới-ẩm-gió mùa, phần lớn vùng
đồi núi của nước ta là đất feralit, lượng khoáng nguyên thấp, hàm lượng mùn không cao, đất chua và có màu
đỏ, hoặc đỏ-vàng của ôxyt sắt thích hợp với cây công nghiệp. Ngoài ra, còn có một số loại đất khác: Đất
xám phù sa cổ (rìa ĐB sông Hồng và nhiều nhất ở Đông Nam Bộ). Đất này thích hợp với cây CN và cây ăn
quả. Đất đen (macgalit) phát triển trên đá ba zơ (đá ba dan, đá vôi), thường gặp ở thung lũng đá vôi (nhiều
nhất ở miền Bắc), diện tích tuy không lớn nhưng rất thích hợp với các cây CN có giá trị (quế, chè, thuốc
lá, ). Tốt nhất trong các loại đất đồi núi nước ta là đất ba dan (

2,0 triệu ha), tập trung ở Tây Nguyên, một
phần Đông Nam Bộ và có một vệt từ Phủ Quì (Nghệ An) kéo dài đến Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ (Quảng
Trị), loại đất này rất thuận lợi cho cây CN (cao su, cà phê ) qui mô lớn.
▪ Đất ở đồng bằng, quan trọng nhất là đất phù sa 3,40 triệu ha (9,5% diện tích cả nước), đây là loại
đất tốt, hàm lượng dinh dưỡng cao, có độ pH trung tính, rất thích hợp cho trồng lúa. Ngoài ra, ở các vùng
đồng bằng còn có các loại đất khác như đất chua mặn, đất mặn, ven biển, đất cát, đất glây hoá trong các
vùng trũng, đất lầy thụt than bùn, loại đất này ít có giá trị đối với sản xuất nông nghiệp và việc cải tạo cần
nhiều vốn đầu tư.
▪ Thực trạng của việc sử dụng đất hiện nay: Qúa trình khai thác lãnh thổ cho đến nay (2008) chúng
ta mới đưa vào sử dụng 80,0% diện tích đất tự nhiên (trong đó 28,45% là đất nông nghiệp). Vốn đất thuận
lợi cho trồng lúa hầu như đã khai thác hết, để tận dụng tiếm năng của tự nhiên ở ĐB sông Hồng nhân dân đã
tìm mọi biện pháp để tăng vụ, nâng cao hệ số sử dụng đất bằng cách thâm canh và đầu tư lao động sống để
nâng cao năng suất. Phần lớn đất nông nghiệp được trồng cây hàng năm, có thể luân canh - tăng vụ với lúa
(như lúa - đay, lúa - thuốc lá); phần còn lại chủ yếu trồng cây lâu năm, nhiều nhất là Tây Nguyên, Đ.Nam
Bộ trên vùng đất bazan.
Vốn đất và khả năng mở rộng lại có sự khác nhau giữa các vùng lãnh thổ. Năm 2008, cả nước có
trên 33,0 triệu ha đất tự nhiên; sử dụng vào SXNN 9,42 triệu ha (28,45%), đất lâm nghiệp 14,8 triệu ha
(44,74 %), đất chuyên dùng và thổ cư 407,0 nghìn ha (6,56%), đất chưa sử dụng 6,7 triệu ha (20,24%). Như
vậy đất chưa sử dụng còn lớn, nhưng việc mở rộng diện tích lại rất khó khăn, chủ yếu là đất dốc, thiếu nước,
xói mòn và thoái hoá; Đất đồng bằng chưa sử dụng còn rất ít, chủ yếu là đất phèn, đất mặn, đất ngập úng đòi
hỏi phải đầu tư lớn. Hiện nay, đất nông nghiệp (đặc biệt là đất trồng lúa) sử dụng vào mục đích khác như

công nghiệp, GT, đô thị ngày càng nhiều. Theo dự báo trong vòng 10 năm tới, đất nông nghiệp có thể mất
đi mỗi năm ~ 2,8 vạn ha (trong đó đất trồng lúa ~ 1,0 vạn ha). Điều đó chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến nông
nghiệp.
b. Khí hậu
- Nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, khí hậu nước ta cơ bản là nhiệt đới. Nhưng do hình
thể trải dài theo nhiều vĩ tuyến ở rìa Đông Nam lục địa châu Á, cho nên chế độ nhiệt có sự phân hóa khác
nhau giữa các vùng. Từ đèo Hải Vân trở ra chịu ảnh hưởng của khối không khí lạnh cực đới (NPc) tràn
xuống, hàng năm có một mùa đông lạnh và một mùa hè nóng. Từ đèo Hải Vân trở vào nóng quanh năm với
một mùa khô và một mùa mưa. Tính chất nhiệt đới làm cho tổng lượng bức xạ mặt trời lớn. Chế độ mưa
phong phú (1.500 - 2.000mm/năm).
- Khí hậu nước ta lại có sự phân hoá đa dạng theo chiều Bắc - Nam, theo mùa và theo độ cao. Ở
miền Bắc có khí hậu nhiệt đới, ẩm, gió mùa với một mùa Đông lạnh. Ở vùng núi cao có sương giá và rét
đậm. Ở miền Nam khí hậu nhiệt đới điển hình với một mùa khô và mùa mưa. Ở miền Trung là nơi giao thoa
khí hậu giữa 2 miền Nam-Bắc.
▪ Ảnh hưởng của khí hậu đối với sản xuất nông nghiệp
- Trước hết là việc cung cấp lượng bức xạ lớn, nguồn ánh sáng dồi dào, nguồn nhiệt phong phú cho
cây trồng phát triển quanh năm và cho năng suất cao. Độ ẩm không khí cao, lượng mưa dồi dào cho phép
cây trồng có sức tái sinh mạnh mẽ, thúc đẩy nở hoa, kết trái. Cũng trong điều kiện nóng - ẩm còn giúp cho
cây ngắn ngày tăng thêm từ 1 đến 2 vụ/năm; đối với cây dài ngày có thể khai thác được nhiều đợt, nhiều
lứa/năm. Do các đặc trưng của khí hậu nước ta, đã tạo điều kiện để bố trí một tập đoàn cây trồng - vật nuôi
đa dạng bao gồm cả nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới với hệ sinh thái phát triển bền vững (ở vùng núi cao

1.500m, khí hậu mát mẻ cho phép phát triển tập đoàn cây trồng-vật nuôi cận nhiệt và ôn đới; ở miền Bắc có
mùa Đông lạnh là tiền đề để phát triển cây vụ đông).
- Ở mỗi vùng khí hậu lại có sự tác động khác nhau đến sản xuất nông nghiệp: Lãnh thổ trải dài 15 vĩ
độ trong vùng nội chí tuyến BBC, hẹp ngang, lượng phân bố bức xạ và nhiệt - ẩm sẽ khác nhau (cả về thời
gian và không gian giữa các vùng lãnh thổ), mối quan hệ giữa các khối khí cũng vậy. Vì vậy: Ở phía bắc
đèo Hải Vân, tính chất chí tuyến được tăng cường thêm bởi các khối khí lạnh-khô vào mùa Đông (mỗi năm
~20 đợt). Biên độ nhiệt TB chênh lệch tới 11
0

C, còn giữa cực trị nhiệt (tối thiểu và tối cao) lên tới 40
0
C. Sự
nhiễu loạn về thời tiết đã tạo cho nửa phần phía Bắc nước ta một hệ sinh thái cực đoan giữa 2 mùa nóng-
lạnh. Ở đây thích hợp hơn cả là các cây ngắn ngày và cây ngày ngắn; đối với cây dài ngày và cây lâu năm,
nên chọn cây có biên độ sinh thái rộng của vùng cận nhiệt (chè, hồi ) thì mới cho năng suất cao. Ở phía
nam đèo Hải Vân: nền sinh thái ổn định hơn về thời tiết, về nhịp điệu mùa cũng như nền nhiệt-ẩm, điều này
cho phép nền nông nghiệp có tính chất ổn định hơn. Sự phân hoá cây trồng ở đây chỉ đơn thuần là phân theo
loại đất từ cây hàng năm đến cây lâu năm. Tuy nhiên, còn có sự khác biệt về thời tiết ở sườn Tây (giữa Tây
Bắc – phía Bắc, giữa Tây Nguyên – phía Nam) trên diện tích 26% lãnh thổ lại có ý nghĩa đáng kể trong việc
điều khiển thời vụ đối với cây ngắn ngày và lựa chọn cây dài ngày. Ví dụ, ở Đông Nam Bộ có một mùa khô
sâu sắc tương phản với một mùa mưa cường độ cao là điều cần quan tâm đối với cây trồng lấy mủ.
▪ Trở ngại của khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa: Tính chất biến động và sự phân hoá về khí hậu đã dẫn
đến các tai biến thiên nhiên như bão, lũ, khô hạn trong những năm gần đây lại có chiều hướng gia tăng.
Độ ẩm không khí lớn cũng là điều kiện để sâu bệnh lây lan, phát triển.
c. Nguồn nước
+ Nước trên mặt: Nằm trong vùng nhiệt đới, vì vậy nước ta có nguồn nước khá dồi dào. Nhưng các
hệ thống sông lớn đều bắt nguồn từ nước ngoài: S.Hồng từ Trung Quốc; S.Mã, S.Cả từ Lào; S.Cửu Long từ
Mianma, nếu như ở thượng nguồn việc sử dụng không hợp lý sẽ nằm ngoài tầm kiểm soát của nước ta.
Lượng mưa TB năm khá lớn càng làm cho nguồn nước trên các sông của Việt Nam thêm phong phú. Đối
với sản xuất nông nghiệp, nước rất cần thiết, ông cha ta đã khẳng định “Nhất nước, nhì phân”. Với mức tiêu
thụ nước trong nông nghiệp khoảng 60 tỉ m
3
thì về nguyên tắc chỉ cần khai thác 10-15% trữ lượng nước là
đủ cho nhu cầu sản xuất và đời sống. Mạng lưới sông ngòi phân bố rộng khắp và khá dày đặc, các hệ thống
sông lớn lại bao phủ toàn bộ các vùng nông nghiệp trù phú. Ngoài việc cung cấp nước cho sản xuất nông
nghiệp, sông ngòi còn cung cấp lượng phù sa lớn. Trong phạm vi cả nước, dòng chảy cát bùn là 300 - 400
triệu tấn/năm (hệ thống S.Hồng 130 triệu tấn; S.Cửu Long 100 triệu tấn). Về mùa lũ, lượng phù sa trên
S.Hồng (tại Sơn Tây) đã lên tới 3.500 gr/cm
3

, mùa cạn 500 gr/cm
3
. Lượng cát bùn lớn đã khiến cho các
đồng bằng châu thổ lấn ra biển hàng năm từ vài chục tới hàng trăm mét.
+ Nước ngầm: cũng rất phong phú, mặc dù chưa thăm dò đánh giá đầy đủ. Trữ lượng đã thăm dò
khoảng 3,3 tỉ m
3
. Nước ngầm tập trung ở các phức hệ rời bở (ở Đồng bằng sông Hồng và Đồng bằng sông
Cửu Long); Trong phức hệ trầm tích cácbônat (ở Đông Bắc, Tây Nguyên và BTBộ). Trong phức hệ phun
trào ba dan (ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ), đã được khai thác phục vụ cho tưới tiêu và sinh hoạt.
+ Hạn chế: Tài nguyên nước phong phú, nhưng phân bố không đều cả về thời gian và không gian.
Vào mùa lũ, lượng nước chiếm tới 70 - 80%, mùa kiệt chỉ 20 - 30% tổng lượng nước. Đây là một khó khăn
rất lớn đối với nền nông nghiệp, để hạn chế việc thiếu và dư thừa nước phải xây dựng các công trình thuỷ
lợi để chủ động tưới - tiêu nước. Ngoài ra, chất lượng nước ở một số sông, hồ nguồn nước đang bị ô nhiễm
nặng. Ở các khu vực ven biển, nước mặn có chiều hướng lấn sâu vào đất liền (ở S.Hồng lấn sâu tới 20 km;
S.Thái Bình 40 km; S.Tiền 50 km; S.Hậu 40 km). Điều này lại càng khó khăn hơn đối với ĐB sông Cửu
Long vào mùa khô.
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội (KT - XH)
a. Nguồn lao động
Trong điều kiện nền kinh tế còn chậm phát triển, LLLĐ nước ta vẫn tập trung nhiều trong khu vực
nông nghiệp và mức độ tập trung sẽ còn cao hơn nữa khi các ngành kinh tế khác chỉ thu hút lao động trong
các đô thị và lao động có trình độ chuyên môn – kĩ thuật. Trong nông nghiệp, tình trạng phân công lao động
diễn ra chậm chạp, mặc dù trong những năm gần đây lao động trong nông nghiệp có chiều hướng giảm về tỉ
trọng, nhưng vẫn còn cao. Số dân nước ta đông, gia tăng còn lớn. Vì vậy, nguồn lao động rất dồi dào và
thường xuyên được bổ sung (3%/năm), chất lượng cũng đã được nâng hơn. Tuy chưa đáp ứng được với yêu
cầu đổi mới, song nó vẫn được coi là nhân tố quan trọng để phát triển nông nghiệp cả theo chiều rộng (khai
hoang mở rộng diện tích) và theo chiều sâu (thâm canh). Nguồn lao động đông cũng là một khó khăn cho
nông nghiệp, số lao động hàng năm tăng với nhịp độ nhanh, phần lớn lại là lao động phổ thông, kĩ thuật thấp
đã làm nóng thêm tình hình việc làm ở khu vực này. Mặt khác, nguồn lao động sử dụng chưa hợp lý; phân
bố cũng không đều giữa các ngành và các vùng (tập trung quá đông ở 2 đồng bằng) và chủ yếu lại ở trong

ngành trồng trọt.
Từ sau đổi mới (đặc biệt từ đầu thập kỷ 90), trong nông nghiệp và kinh tế nông thôn có nhiều thay
đổi, bắt nguồn từ việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Cụ thể là sự ra đời của các hoạt động kinh
doanh mới như nuôi gia cầm gia súc theo hướng chuyên môn hóa; nuôi trồng đặc sản gắn với nhu cầu thị
trường; trồng cây ăn quả, cây thực phẩm, cây cảnh; Sự hình thành các dịch vụ nông nghiệp và nông thôn
như cung ứng phân bón, giống cây - con, bảo vệ cây trồng, vật nuôi, vận tải nông sản và nhiều dịch vụ khác.
Sự khôi phục các ngành nghề thủ công truyền thống sau một thời bị mai một.v.v. Các hoạt động trên đã góp
phần làm thay đổi cơ cấu sử dụng lao động nông nghiệp, đã xuất hiện nhiều lao động phi nông nghiệp, tỉ
trọng lao động phi nông nghiệp tăng dần từ vùng ven đô thị đến vùng thuần nông.
Về trình độ tiếp thu kĩ thuật, thì LLLĐ (nhất là lao động trẻ) trong nông nghiệp có đủ sức đón nhận
các chương trình khuyến nông, có kinh nghiệm thâm canh trong SXNN. Như vậy, nguồn lao động với tính
chất 2 mặt của nó đã tạo ra cả những thuận lợi và KK đối với SXNN.
b. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất, kỹ thuật (CSHT, CSVC - KT)
Về CSVC-KT bước đầu đã được hình thành và hoàn thiện. Một trong nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
là thuỷ lợi hoá. Vấn đề tưới - tiêu về cơ bản đã được giải quyết ở các vùng đồng bằng. Hệ thống đồng ruộng
đã được cải tạo đảm bảo cho việc thâm canh, cơ giới hoá. Công tác phòng trừ dịch bệnh cho cây trồng - vật
nuôi được triển khai có thể nhanh chóng dập tắt các nguồn gây bệnh. Các loại giống mới cho năng suất cao
đã dần dần thay thế các giống cũ Bước vào thời kỳ CNH’- HĐH’, nền nông nghiệp được tăng cường đáng
kể (nhất là về thuỷ lợi, điện, phân bón, vật tư nông nghiệp, cơ giới hoá). Vào giữa thập kỷ 1990, trên 90%
diện tích lúa được tưới bằng các công trình thuỷ nông lớn, phần lớn các vùng nông thôn đã có điện. Một bộ
phận diện tích được cơ giới hoá. Nhiều tiến bộ của khoa học – kĩ thuật được đưa vào sản xuất tạo ra bước
chuyển biến mới về năng suất, chất lượng và hiệu quả của nông nghiệp .
Về CSHT và dịch vụ nông thôn cũng có nhiều tiến bộ. Nếu xét theo từng vùng, thì ở vùng núi của
Trung du – miền núi phía Bắc và Tây Nguyên một số chỉ tiêu thấp hơn các vùng khác, đặc biệt là chỉ tiêu về
điện và giáo dục Trung học cơ sở. Ở ĐB sông Hồng các chỉ tiêu đều đạt ở mức cao và đồng đều, vì đây là
khu vực được khai thác sớm nhất, có trình độ phát triển tốt. Ở ĐB sông Cửu Long vào loại thấp (do sự thuận
lợi và cả khó khăn về giao thông đường sông, kênh rạch tại địa bàn này). Ở miền Trung, CSHT nông thôn
còn yếu, trong khi những tuyến liên hệ cơ bản (quốc lộ, phủ sóng truyền thông ) đều do TW trợ giúp.
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu về CSHT nông thôn phân theo vùng năm 2002 (đơn vị: %)
Các vùng

Xã có
điện
Xã có
đường ô tô
Xã có trạm
y tế
Xã có trường
tiểu học
Xã có trường
THCS
Cả nước 62,2 86,4 916 97,7 76,2
TDMN phía Bắc 37,0 82,6 82,9 94,9 64,7
ĐB sông Hồng 98,1 99,4 99,6 98,5 97,5
Bắc Trung Bộ 61,8 90,0 79,3 99,8 86,8
Nam Trung Bộ 54,7 82,5 85,9 97,3 66,1
Tây Nguyên 31,7 96,2 84,3 99,9 50,3
Đông Nam Bộ 71,8 97,9 98,2 100,0 75,4
ĐBS Cửu Long 67,0 65,7 96,7 98,4 74,9
c. Đường lối chính sách
Là một nước nông nghiệp, vì thế từ lâu nông nghiệp được Đảng và Nhà nước coi là mặt trận hàng
đầu. Từ ĐH VI (12/1986) với đường lối đổi mới toàn diện đã khắc phục những sai lầm của công cuộc cải
tạo XHCN trong nông nghiệp trước đó và đưa ngành này lên một bước phát triển mới (khoán 10). Hộ nông
dân được coi là đơn vị kinh tế tự chủ; được giao quyền sử dụng đất lâu dài; được tự do trao đổi hàng hoá,
mua bán vật tư, sản phẩm theo cơ chế thị trường. Kết quả là sức sản xuất được giải phóng, đã khai thác có
hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có. Trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, ở nông thôn lại có thêm kinh tế hộ
nông dân; nhiều hình thức hợp tác mới tự nguyện, sinh động đã tạo nên nền kinh tế đa dạng về sở hữu, đan
xen liên kết với nhau, đồng thời cạnh tranh lẫn nhau để cùng phát triển theo qui luật khách quan của kinh tế
thị trường. Vấn đề việc làm cũng đã được cải thiện, đó là do thắng lợi của công cuộc đổi mới, SXNN tăng
lên rõ rệt; tình trạng thiếu đói cơ bản đã được xoá bỏ, đã tạo thêm việc làm cho người lao động (thời kỳ
1991-1995 đã tạo việc làm cho 4,6 triệu người). Chương trình 327 và 773 của Nhà nước sử dụng 1.700 tỉ

đồng và thu hút 48 vạn LĐ nông nghiệp, khoảng 80% việc làm mới được tạo ra từ N-L-N, điều đó có ý
nghĩa to lớn trong việc cải thiện đời sống cư dân nông thôn.
Ngoài ra, thị trường tiêu thụ sản phẩm trong và ngoài nước được mở rộng. Những tiến bộ của khoa
học – kĩ thuật trong nông nghiệp được áp dụng rộng rãi tạo thành một hệ thống thúc đẩy sự phát triển của
ngành kinh tế vào loại quan trọng hàng đầu này.
2.3. ĐẶC ĐIỂM PHÁT TRIỂN NÔNG NGHIỆP Ở NƯỚC TA
a. Nền nông nghiệp nước ta phát triển tương đối ổn định và vững chắc
- Nhờ thực hiện công cuộc đổi mới mà nông nghiệp nước ta đã phát triển khá ổn định. Tốc độ tăng
trưởng GDP/năm dao động từ 3 - 5%; năm 1994 tăng (3,9%), 1995 (5,1%), 1996 (4,4%), 1997 (4,3%), 1998
(2,7%), 1999 (5,2%), 2002 (4,06%), năm 2008 (3,83%). So với các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ
con số này thấp, nhưng phải đặt nó vào trong hoàn cảnh cụ thể, sự tăng trưởng của ngành là rất khó vì ngành
này phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Nông nghiệp được chú trọng đầu tư cả về kĩ thuật lẫn kết cấu hạ tầng
và phát huy hiệu quả của việc thâm canh trong sản xuất. Thị trường nông phẩm được mở rộng (cả trong
nước và ngoài nước) là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Tác động của các chủ trương chính sách đã
được ban hành (luật đất đai, khoán 10, xoá đói, giảm nghèo, mở rộng tự do kinh doanh, xây dựng các mô
hình sản xuất).
Bảng 3.2. GDP và tỉ trọng của nông nghiệp so với cả nước từ 1985 - 2008.
Năm
GDP NN giá hiện hành
(tỉ đồng)
% trong GDP của
cả nước
1985 47,0 40,17
1990 16.252,0 38,74
1995 63.219,0 28,37
2000 108.356,0 24,53
2005 175.048,0 20,89
2008 326.505,0 22,10
- Nguyên nhân dẫn tới SXNN của nước ta phát triển nhanh chủ yếu là do: nông nghiệp được chú
trọng đầu tư cả về kỹ thuật lẫn kết cấu hạ tầng và phát huy hiệu quả của việc thâm canh trong sản xuất. Thị

trường nông phẩm được mở rộng (cả trong nước và ngoài nước) là động lực thúc đẩy SX phát triển. Tác
động của các chủ trương chính sách đã được ban hành (luật đất đai, khoán 10, xoá đói, giảm nghèo, mở rộng
tự do kinh doanh, xây dựng các mô hình sản xuất ).
- Tuy nhiên, tốc độ phát triển của nông nghiệp chưa cao. Bởi vì, những năm đầu chuyển đổi từ cơ
chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường, nông nghiệp chưa khẳng định rõ được hướng phát triển, thị
trường chưa được khai thác, còn mới mẻ đối với nông dân. Tính chất CMH’ trong SX hàng hoá còn yếu.
Trồng trọt và chăn nuôi phát triển chưa đều ở nhiều vùng, chăn nuôi chưa trở thành ngành SX chính, kinh
doanh độc lập, sản xuất còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Để phát triển bền vững, trong những năm tới cần
tiếp tục đổi mới trong nông nghiệp; giải phóng mọi lực lượng sản xuất; phát triển kinh tế nhiều thành phần;
hình thành một số vùng động lực và ngành kinh tế mũi nhọn nhằm phát triển hài hoà giữa các mục tiêu kinh
tế - xã hội với bảo vệ môi trường sinh thái. Dự kiến tốc độ tăng trưởng GDP của nông nghiệp hàng năm phải
đạt 4,0- 4,5% gắn với công nghiệp chế biến (tăng 10 - 12%). Đảm bảo an toàn về lương thực và đến 2010
phải đạt 38,0 - 40,0 triệu tấn (lúa 32,0- 33,0 triệu tấn trên diện tích 4,2 - 4,3 triệu ha).
b. Nông nghiệp nước ta đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu theo hướng nền kinh tế hàng
hóa
- Đối với một nước mà nông nghiệp vẫn giữ địa vị trọng yếu như nước ta, thì việc chuyển đổi cơ cấu
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và cấp thiết. Vì thế, việc tổ chức lại nền nông nghiệp tạo ra cơ cấu hợp lý trở
thành vấn đề cấp thiết.
+ Trong phạm vi toàn ngành: cơ cấu nông nghiệp và cơ cấu nông thôn đã chuyển dịch đúng hướng
và có hiệu quả rõ rệt. Hướng sản xuất hàng hoá, mở mang ngành nghề, dịch vụ đang được coi trọng.
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt quan tâm tới việc đa dạng hóa cơ cấu cây trồng - vật nuôi gắn với
công nghiệp chế biến; phát triển mạnh các ngành nghề, nhất là các nghề truyền thống; mở rộng các loại hình
dịch vu nhằm thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển toàn diện, tạo tiền đề cho quá trình CNH’ và HĐH’ nông
thôn.
+ Về cơ cấu ngành: đang có xu thế chuyển dịch giảm tỉ trọng của ngành trồng trọt, tăng dần tỉ trọng
của ngành chăn nuôi (hiện nay, trồng trọt vẫn chiếm 3/4 giá trị sản xuất). Như vậy, cần đẩy mạnh chăn nuôi
để có thể đạt tỉ trọng trên 30% vào sau những năm 2000.
+ Trong nội bộ từng phân ngành:
Ngành trồng trọt: giảm dần tỉ trọng của ngành trồng cây lương thực, tăng dần tỉ trọng của ngành
trồng cây CN. Cụ thể năm 1990, trong tổng GTSX của ngành trồng trọt, thì cây lương thực (67,11%), cây

công nghiệp (13,49%), cây ăn quả (10,14%), rau đậu (9,26%); đến năm 2008 tỉ trọng tương ứng là (57,25%,
25,34%, 7,42% và 8,63%) phần còn lại thuộc nhóm cây trồng khác.
Trong chăn nuôi: chăn nuôi gia cầm giảm chút ít, gia súc và sản phẩm không qua giết mổ tăng. Cụ
thể, năm 1990, giá trị SX của chăn nuôi đạt 10.283,2 tỉ đồng (trong đó, gia súc lớn (63,87%), gia cầm
(19,26%) và sản phẩm không qua giết thịt (12,92%), đến năm 2008, con số này là 30.938,6 tỉ đồng (70,39%
- 14,21% - 13,54%)
- Nền nông nghiệp nước ta đang hướng tới nền sản xuất hàng hoá, nhiều thị trường mới đang được
khai thác đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn. Trước đổi mới (1985), giá trị hàng hoá nông sản xuất khẩu đạt
274,2 triệu USD (gạo 59.400 tấn; chè 10.400 tấn; cà phê 9.200 tấn). Sau đổi mới (1995), giá trị nông sản
xuất khẩu đã đạt 1.745,8 triệu USD (chiếm 32,0% xuất khẩu của cả nước); đến năm 2008, giá trị xuất khẩu
đạt 100.400,0 triệu USD (16,6%); trong đó: gạo 4741,9 ngàn tấn; cao su 658,3 ngàn tấn tấn; cà phê 1059,5
ngàn tấn, hàng thủy sản đạt 4510,1 triệu USD. Như vậy, từ 1985 – 2008 giá trị xuất khẩu hàng nông sản
tăng 366,0 lần, nhiều mặt hàng truyền thống và mặt hàng mới có mặt trên thị trường quốc tế (gạo, lạc, chè,
cà phê, hạt điều , tiêu…)
Bảng 3.3. Cơ cấu giá trị sản lượng nông nghiệp theo giá hiện hành từ 1990 - 2008
Năm
Tổng số
(Tỉ đồng)
Chia ra
Trồng trọt Chăn nuôi Dịch vụ
Tổng số % Tổng số % Tổng số %
1990 20666,5 16393,5 79,3 3701,0 17,9 572,0 2,8
1995 82307,1 66183,4 80,41 13629,2 16,56 2494,5 3,03
2000 129140,5 101043,7 78,2 24960,2 19,3 3136,6 2,5
2005 183342,4 134754,5 73,5 45225,6 24,7 3362,3 1,8
2008 362.824,3 259.468,6 71,5 97.859,2 27,0 5.496,5 1,5
c. Nông nghiệp nước ta đang có sự phân hóa về lãnh thổ và tạo ra nhiều vùng sản xuất chuyên
môn hóa
Sự chuyển đổi từ nền kinh tế tự túc tự cấp sang nền nông nghiệp hàng hoá là một quá trình đầy gian
khổ. Kết quả là cơ cấu lãnh thổ nông nghiệp có sự chuyển dịch rõ rệt; Thay cho việc sản xuất manh mún,

phân tán trước đây là những vùng sản xuất CMH’ tập trung, qui mô lớn, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hoá
tiêu dùng trong nước, phục vụ cho công nghiệp chế biến & xuất khẩu. Căn cứ vào tiềm năng về tự nhiên,
kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường (trong - ngoài nước), các vùng CMH’ chính của nước ta đã được
hình thành:
- Về LT-TP: đã hình thành 2 vùng trọng điểm LT-TP: ĐB sông Cửu Long là vùng trọng điểm số 1
(chiếm trên 50,0% diện tích và sản lượng lúa cả nước), dẫn đầu cả nước về sản xuất cây đậu tương, mía, cây
ăn quả, về nuôi trồng và đánh bắt thuỷ - hải sản. ĐB sông Hồng là vùng trọng điểm số 2 về LT-TP (14,2%
diện tích và 18.4% sản lượng lúa), thế mạnh của vùng, ngoài lúa là rau quả, lợn, gia cầm.
- Về cây công nghiệp: đã hình thành 3 vùng CC cây CN lớn: Đông Nam Bộ là vùng số 1 (cả cây lâu
năm và hàng năm); vùng có thế mạnh về tự nhiên, kinh tế, đất đai phần lớn là đất xám bằng phẳng; nguồn
lao động dồi dào; có trình độ phát triển mạnh cùng với nhiều cơ sở chế biến tại chỗ. Tây Nguyên là vùng số
2 về qui mô; các sản phẩm chính là cà phê, cao su, hồ tiêu, chè, dâu tằm, tiềm năng của vùng còn rất lớn,
nhưng khó khăn lớn nhất là thiếu nước tưới trong mùa khô. MN-TDPB’ là vùng số 3, đây là vùng chè nổi
tiếng được trồng ở hầu hết các khu vực đồi trung du và một số cao nguyên (Hà Giang; Nghĩa Lộ; Sơn La );
vùng còn thế mạnh để phát triển các cây trồng khác như lạc, thuốc lá (Lạng Sơn, Bắc Giang); Hồi (Lạng
Sơn, Cao Bằng).
- Ngoài ra, còn có các vùng chăn nuôi đại gia súc (TD-MN’PB’), gia cầm ở các đồng bằng, vùng
nông nghiệp - thực phẩm (vành đai xanh) ven TP lớn; các vùng nuôi trồng thuỷ sản đang phát triển mạnh ở
2 đồng bằng châu thổ lớn và các tỉnh duyên hải miền Trung
3. CÁC NGÀNH SẢN XUẤT CHỦ YẾU
3.1. NGÀNH TRỒNG TRỌT
3.1.1. Ngành trồng cây lương thực và thực phẩm (LT - TP)
Ở nước ta, cây lương thực bao gồm một số cây như lúa, ngô, khoai, sắn. Ngoài cây lúa, các cây được
gọi chung là hoa màu (hay mầu). Nhóm cây lương thực chiếm ưu thế về diện tích và giá trị sản lượng của
ngành trồng trọt. Năm 1990, giá trị sản xuất ngành trồng trọt 49.604,0 tỉ đồng (cây lương thực 67,11%, cây
công nghiệp 13,49%); năm 1999 là (86.380,6 tỉ đồng - 61,03% và 23,04%), đến năm 2008 (122.375,7 tỉ
đồng – 57,25% và 25,34%)
a. Cây lúa
- Về mặt tự nhiên: Cây lúa được trồng trên nhiều địa bàn khác nhau, thích hợp nhất là ở 2 đồng bằng
châu thổ lớn, các đồng bằng nhỏ hẹp ở DHMT và ở các thung lũng miền núi.

- Về mặt kinh tế - xã hội: người dân có kinh nghiệm và truyền thống lâu đời cùng đức tính cần cù,
chịu khó; nhân tố kinh tế, kỹ thuật, các chính sách khuyến nông cùng sự đầu tư đúng mức đã thúc đẩy ngành
trồng lúa tăng đều qua các năm. Nếu lấy mốc năm 1985 để so sánh, thì năm 2005 diện tích lúa tăng 128%,
sản lượng lúa tăng 225%, năng suất tăng 176%.
- Về cơ cấu mùa vụ, nước ta có 3 vụ kế tiếp nhau là vụ mùa, đông-xuân và hè-thu (quan trọng nhất là
vụ mùa và vụ đông xuân). Do sự phân hóa của khí hậu nên trong phạm vi cả nước, lúc nào cũng có các hoạt
động (trồng lúa) như gieo cấy, chăm sóc, thu hoạch.
- Các tỉnh có sản lượng lúa đạt trên 1,0 triệu tấn/năm: ĐB sông Cửu Long (2008) có 9 tỉnh là An
Giang (3,51 triệu tấn), Kiên Giang (3,38), Đồng Tháp (2,72), Long An (2,17), Sóc Trăng (1,74), Tiền Giang
(1,32), Cần Thơ (1,19), Hậu Giang (1,02), Trà Vinh (1,08). Bắc Trung Bộ có Thanh Hóa (1,40 triệu tấn),
ĐB sông Hồng có Hà Nội (1,17) và Thái Bình (1,01 triệu tấn)
- Về phân bố
+ ĐB sông Cửu Long là vựa lúa lớn nhất. Năm 2008, diện tích trồng lúa 3.85 triệu ha; sản lượng
20,68 triệu tấn (52,0% diện tích và 53,41% sản lượng cả nước), năng suất 53,6 tạ/ha, mỗi năm xuất khẩu
trên 3,0 triệu tấn/năm. Địa hình đồng bằng thấp, ngập nước, độ cao TB chỉ 2 - 4 m/biển, phù sa mới có
nguồn gốc hỗn hợp sông-biển. Chiều dày của lớp phù sa mới càng ra biển càng lớn, ở phía Nam châu thổ,
phù sa dày hơn phía bắc (Long An 20m, Mĩ Tho 70m, Bạc Liêu 110m, Cà Mau 200m, Năm Căn 260m).
Đồng bằng được khai thác cách đây 400 năm.
+ ĐB sông Hồng là sản phẩm bồi tụ của hệ thống S.Hồng và Thái Bình, đất đai màu mỡ. Diện tích
đất tự nhiên 1,5 triệu ha. Vùng có lịch sử khai thác lâu đời cách đây hàng vạn năm. Với những thế mạnh về
tự nhiên (tuy thua kém hơn so với ĐB sông Cửu Long), nhưng bù lại, đây là vùng có trình độ thâm canh cao
nhất cả nước, ngành trồng lúa rất phát triển. Năm 2008, diện tích 1,15 triệu ha, sản lượng 6,77 triệu tấn
(15,56% và 17,50% cả nước), năng suất 58,8 tạ/ha.
+ Các ĐB nhỏ hẹp ở DHMT kéo dài ~10
0
vĩ tuyến (1000 km) dọc ven biển, qui mô nhỏ với các ĐB
Thanh - Nghệ - Tĩnh, Bình - Trị - Thiên, Nam - Ngãi - Định, Phú Yên - Khánh Hòa, Ninh - Bình Thuận.
Diện tích 14.560 km
2
(


diện tích ĐB S.Hồng), các đồng bằng này đều là địa bàn trồng lúa và các loại cây
trồng khác với qui mô và ý nghĩa khác nhau: ĐB Thanh Hoá (diện tích lớn nhất 2.900 km
2
), là ĐB chuyển
tiếp từ châu thổ S.Hồng sang ĐB Nghệ Tĩnh, được phù sa S.Mã và S.Chu bồi đắp, đất đai khá màu mỡ, có
khả năng phát triển nông nghiệp; có thể coi là vựa lúa lớn của vùng B.Trung Bộ. Ở DH Nam Trung Bộ,
đồng bằng khá màu mỡ là Phú Yên, Bình Định và Quảng Nam, riêng ĐB Ninh - Bình Thuận, kém màu mỡ,
khô hạn, ít có điều kiện để trồng lúa. Năm 2008, diện tích đất lúa của DH miền Trung 1,21 triệu ha (16,4%
cả nước), sản lượng lúa 6,12 triệu tấn (15,82%), năng suất 50,5 tạ/ha
+ Ở MN’&TD phía Bắc có một số cánh đồng: Đông Bắc (có Trùng Khánh, Quảng Uyên, Đông Khê,
Thất Khê); Tây Bắc (có Than Uyên, Nghĩa Lộ, Điện Biên). Năm 2008, diện tích trồng lúa của vùng 715,0
nghìn ha, sản lượng 3,09 triệu tấn, năng suất 43,3 tạ/ha, đây là cơ sở LT quan trọng cho một số tỉnh miền
núi.
Bảng 3.4. Diện tích, sản lượng và năng suất cây lương thực và cây lúa thời kỳ 1985 - 2008.
Năm
Diện tích (1000 ha) Sản lượng (1000 tấn) Năng suất (tạ/ha)
Cây L.Thực Cây lúa Cây L.Thực Cây lúa Cây LT Cây lúa
1985 6833,6 5703,9 18200,0 15875,0 26,6 27,8
1990 6476,9 6042,8 19897,7 19225,1 30,7 31,8
1995 8383,4 7003,8 26142,5 26396,7 31,2 36,9
2000 8399,1 7666,3 34538,9 32529,5 41,1 42,4
2005 8383,4 7329,2 39621,6 35832,9 47,3 48,9
2008 8542,0 7414,3 43258,3 38725,1 50,6 52,2
b. Cây màu lương thực. Là loại cây cung cấp một phần cái ăn cho con người và là cơ sở thức ăn cho
chăn nuôi gia súc. Ở một mức độ nhất định, nó còn là cơ sở cung cấp nguyên liệu cho các ngành CNCB'.
Trong gần 2 thập kỷ qua (1985 - 2005), cả diện tích và sản lượng tuy có tăng nhưng không lớn. Trong cơ
cấu diện tích có sự thay đổi rõ rệt theo chiều hướng tăng diện tích cây ngô và giảm diện tích trồng sắn và
khoai
- Quan trọng nhất là cây ngô: từ 1985 - 2005, diện tích tăng 2,62 lần, sản lượng tăng 6,4 lần, điều

này liên quan đến việc đưa tiến bộ của KH - KT vào sản xuất mà đặc biệt là khâu giống. Năm 2008, diện
tích, sản lượng và năng suất ngô cả nước là (1,12 triệu ha, 4,53 triệu tấn và 40,2 tạ/ha); diện tích nhiều nhất
là Đông Bắc (chiếm 22,3% cả nước), Tây Nguyên (21,0%), Bắc Trung Bộ (12,6%); sản lượng cao nhất là
Tây Nguyên (24,1% cả nước), Đông Bắc (18,1%), Tây Bắc (15,1%); năng suất cao nhất là ĐB sông Cửu
Long (56,1 tạ/ha), Đông Nam Bộ (50,3 tạ/ha), Tây Nguyên (46,2 tạ/ha). Tỉnh có sản lượng ngô cao nhất là
Đắc Lắc 577,1 nghìn tấn, Sơn La 441,3 nghìn tấn, Đồng Nai 313,3 nghìn tấn
- Khoai lang, thường trồng luân canh với lúa vào vụ đông - xuân trên đất pha cát. Năng suất rất cao (

72 tạ/ha), chủ yếu làm thức ăn cho chăn nuôi. Diện tích trồng khoai lang có xu hướng giảm, thay vào đó là
những cây trồng khác có giá trị cao hơn. Sản lượng cả nước (2008) là 1,32 triệu tấn, cao nhất là Bắc Trung
Bộ (23,7%), ĐB sông Hồng (20,1%), Đông Bắc (19,4%)
- Cây sắn, diện tích cũng giảm. Hạn chế chính của cây sắn là chiếm diện tích đất quanh năm, thường
trồng trên các vùng đồi thoải đã bạc màu. Cây sinh trưởng tốt, nhưng không có khả năng bảo vệ đất khi mưa
nhiều với cường độ cao, đất dễ bị xói mòn rửa trôi.
Bảng 3.5: Diện tích và sản lượng cây màu lương thực thời kỳ 1985 – 2008
Năm
Diện tích (1000 ha) Sản lượng (1000 tấn)
Ngô Khoai Sắn Ngô Khoai Sắn
1985 397,3 320,0 335,0 587,1 1777,7 2939,8
1990 431,8 321,1 256,8 671,0 1929,0 2275,8
1995 556,8 304,6 277,4 1177,2 1685,8 2211,5
2000 730,2 254,3 237,6 2005,9 1611,3 1986,3
2005 1052,6 185,3 425,5 3787,1 1443,1 6716,2
2008 1125,9 162,2 557,7 4531,2 1323,9 9395,8
c. Tập đoàn cây thực phẩm.
Hiện nay, chúng ta đã nhập nội, lai tạo từ nhiều giống cây nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới, nên tập
đoàn cây này tăng cả về số và chất lượng. Giá trị sản xuất cây thực phẩm tăng khá nhanh, năm 1990 là
3.477,0 tỉ đồng, năm 1999 là 6.179,6 tỉ đồng và năm 2008 là 10.560,4 tỉ đồng. Vùng rau lớn nhất là ĐB
sông Hồng với đủ loại từ nhiệt đới - cận nhiệt - ôn đới. Ở Sa Pa, Đà Lạt là các loại rau cận nhiệt và ôn đới.
3.1.2. Ngành trồng cây công nghiệp (cây CN)

a. Khái quát chung
Cây công nghiệp còn gọi là cây kĩ thuật để chỉ mục đích và tính chất của việc gieo trồng nhằm cung
cấp nguyên liệu cho CNCB’ nông sản. Là loại cây có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển KT-XH. Các
SP của nó là nguồn nguyên liệu cung cấp cho CNCB’, là nguồn xuất khẩu khẩu quan trọng.
Cây công nghiệp ở nước ta tăng (cả về diện tích và sản lượng), năm 1980, diện tích là 627,7 nghìn
ha, năm 2005 tăng lên 2,49 triệu ha và năm 2008 tăng lên 4,39 triệu ha. Trong đó cây công nghiệp lâu năm
chiếm 82,8% tổng diện tích cây công nghiệp nhờ vào ĐKTN thuận lợi, việc hình thành các vùng chuyên
canh lớn và nhu cầu cho xuất khẩu tăng, còn cây công nghiệp hàng năm lên xuống thất thường, thiếu vững
chắc.
Bảng
3.6. Diện tích cây công nghiệp thời kỳ 1985 – 2008 (nghìn ha)
Tổng số Cây công nghiệp lâu năm Cây công nghiệp hàng năm
1985 956.5 404.9 551.6
1990 1199.3 657.3 542.0
1995 1619.0 902.3 716.7
2000 2229.4 1451.3 778.1
2005 2495.1 1633.6 861.5
2008 2688.5 1882.7 805.8
Cây công nghiệp được chia thành 2 nhóm: Nhóm cây công nghiệp hàng năm (hay còn gọi là cây
công nghiệp ngắn ngày), chu kỳ gieo trồng - thu hoạch là 1 năm (đay, cói, bông, lạc, đậu tương, mía ).
Nhóm cây công nghiệp lâu năm (dài ngày) trồng một lần, thu hoạch nhiều chu kỳ. Trong nhóm này lại chia
ra làm 2 phân kỳ: phân kỳ kiến thiết cơ bản (từ lúc trồng đến lúc cho thu hoạch) và phân kỳ kinh doanh (từ
lúc cho thu hoạch trở đi), cây ăn quả xếp trong nhóm này.
Ngoài ra, còn có cách phân loại khác: Nhóm cây lấy sợi (bông, đay, cói); Nhóm cây kích thích (cà
phê, thuốc lá, chè); Nhóm cây lấy dầu (lạc, vừng, đậu tương, dừa); Nhóm cây lấy nhựa (cao su, thông, bồ
đề, cánh kiến); Nhóm cây lấy đường (mía, thốt nốt).
b. Nhóm cây công nghiệp hàng năm
- Cây mía: là cây lấy đường có thể trồng được ở tất cả mọi nơi. Năm 2008, diện tích là 266,3 ngàn
ha, sản lượng 16128,0 ngàn tấn. Vùng trồng nhiều mía nhất là ĐB sông Cửu Long (24,1% diện tích, 31,50%
sản lượng cả nước), Bắc Trung Bộ (23,20%, 21,80%), DH Nam Trung Bộ (18,70%, 15,10%), Tây Nguyên

(12,60%, 11,00%), Đông Nam Bộ (11,60%, 11,50%). Các tỉnh trồng nhiều nhất là Thanh Hoá (32,3 ngàn),
Nghệ An (29,9 ngàn), Gia lai (19,3 ngàn ha), Tây Ninh (18,9 ngàn ha), Phú Yên (18,1 ngàn), Khánh Hoà
(16,9 ngàn), Cần Thơ (15,9 ngàn), Long An (15,4 ngàn),…
- Cây lạc có 2 loại (3 tháng, 6 tháng). Cây lạc có nguồn gốc ở vùng nhiệt đới ở Bắc Áchentina và
Nam Bôlivia, đòi hỏi nhiệt độ TB ~ cao, ổn định và đủ ẩm. Năm 2008, diện tích lạc cả nước là 256,0 ngàn
ha, sản lượng 529,2 ngàn tấn. Các vùng trồng nhiều nhất B.Trung Bộ (28,8% diện tích & 27,70% sản lượng
cả nước), Đông Bắc (17,4% % & 14,7% ), DH Nam Trung Bộ (13,1% & 10,9%), ĐB sông Hồng (12,3% &
14,70%), Đông Nam Bộ (11,6% & 16,0%). Các tỉnh có diện tích và sản lượng cao nhất là: Tây Ninh (73,9
ngàn tấn), Nghệ An (52,1), Hà Tĩnh (44,6), Thanh Hoá (28,8), Bắc Giang (25,8), Nam Định (25,7)
- Cây đậu tương: là cây cho hạt làm thực phẩm, ép lấy dầu, còn khô dầu dùng cho chăn nuôi, hạt có
chất đạm cao nhất trong các loại đậu. Đây là cây điển hình của vùng châu Á gió mùa. Đậu tương cũng có
nhiều loại thích nghi với nhiều vùng khí hậu khác nhau từ ôn đới đến nhiệt đới, cây ưa ẩm nhưng không đòi
hỏi nhiều nhiệt. Ở nước ta, đậu tương được trên phạm vi rộng suốt từ Bắc vào Nam. Năm 2008, diện tích
của cả nước là 191,5 ngàn ha, sản lượng 268,6 ngàn tấn. Tỉnh có diện tích và sản lượng cao nhất là Hà Nội
(34,8 ngàn ha và 43,9 ngàn tấn)), Hà Giang (19,9 ngàn ha và 20,9 ngàn tấn), Đắc Nông ( 15,7 ngàn ha và
32,6 ngàn tấn).
- Cây thuốc lá: là cây thích hợp với loại đất giàu N, P, K, Ca, nhiều mùn với nhiệt độ 18
0
- 27
0
C. Ở
nước ta, các khu vực MN’ và TD thuộc một số vùng có nhiều thuận lợi để trồng thuốc lá. Diện tích trồng
thuốc lá không ổn định. Năm 1985 diện tích 42,6 ngàn ha và sản lượng 38,4 ngàn tấn, thì đến năm 2008
giảm xuống còn 16,4 ngàn ha và 28,7 ngàn tấn. Vùng trồng nhiều nhất Đông Nam Bộ (57,4% diện tích và
52,7% sản lượng cả nước), Đông Bắc (21,2% , 22,7%), DH Nam Trung Bộ (8,0%, 8,5%). Tỉnh trồng nhiều
nhất Tây Ninh, Đồng Nai, Lạng Sơn.
- Cây bông: là nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp kéo sợi, dệt vải. Cây bông ưa khí hậu nóng,
nhiệt độ thích hợp nhất là 25
0
-30

0
C; ngừng sinh trưởng khi nhiệt độ dưới 17
0
C, có thể chết nếu nhiệt độ dưới
5
0
C kéo dài, cây cần nhiều ẩm lượng mưa từ 800 - 1.000mm là đủ, mùa ra quả cần nhiều mưa, nhưng lúc
quả chín cần thời tiết tuyệt đối khô hanh. Vì vậy ở nước ta, chỉ một số vùng là thích hợp với cây bông. Diện
tích bông năm 2005 là 25,8 ngàn ha, sản lượng 33,5 ngàn tấn. Tỉnh trồng nhiều bông nhất là Đắc Lắc, Bình
Thuận.
Bảng 3.7. Diện tích và sản lượng một số cây công nghiệp hàng năm 1985 – 2008
Diện tích (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn)
1985 2000 2005 2008 1985 2000 2005 2008
Bông 13,8 18,6 25,8 5,2 4,5 18,8 33,5 6,9
Đay 22,0 5,5 5,6 3,4 47,1 11,3 12,6 8,8
Cói 15,3 9,3 12,5 11,7 92,8 61,4 80,5 84,7
Mía
143,2 302,3 266,3 271,1 5559,7
15044,
3
14948,7 16128,0
Lạc 212,7 244,9 269,6 256,0 202,4 355,3 489,3 533,8
Đậu tương 102,0 124,1 204,1 191,5 79,1 149,3 292,7 268,6
Thuốc lá 42,6 24,4 16,8 16,4 38,4 27,1 26,0 28,7
Ngoài ra, một số cây CN hàng năm cũng đang được phát triển ở các vùng khác nhau nhu cây dâu
tằm (Tây Nguyên), đay (ĐB sông Hồng, ĐB sông Cửu Long), cói (ĐB sông Hồng).
c. Ngành trồng cây công nghiệp lâu năm
Về mặt kinh tế, đây là cây trồng lấy nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, chu kỳ kinh doanh nhiều
năm. Sinh trưởng và phát triển trong điều kiện sinh thái nhất định, vì vậy phải lựa chọn địa bàn phân bố phù
hợp thì mới cho năng suất và chất lượng cao. Do mục tiêu là làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,

nhưng sản phẩm cũng dễ bị hư hỏng; vì vậy việc bố trí hợp lý từ khâu gieo trồng - thu hoạch - bảo quản -
vận chuyển nối liền với công nghiệp chế biến để đảm bảo chất lượng của nguyên liệu.
Với điều kiện sinh thái khác nhau cho từng loại cây cùng với sự phân hóa khí hậu đã tạo nên những
tiền đề để có thể trồng được từ giống cây có nguồn gốc nhiệt đới, cận nhiệt và ôn đới. Mỗi cây trồng đòi hỏi
điều kiện sinh thái nhất định (nếu một số loại cây có sự tương đối đồng nhất về điều kiện sinh thái; thì đất
với tính chất lý - hóa khác nhau lại có ý nghĩa to lớn trong việc phân hóa cây trồng). Ví dụ, cây chè và cao
su đòi hỏi độ pH là 4,0-4,5; cây cao su lại sống được trên đất kiềm, còn cây chè lại kỵ canxi.
Điều kiện sinh thái của một số loại cây công nghiệp lâu năm.
Loại
cây
Các điều kiện sinh thái
Đánh giá chung
Khí hậu Đất đai
Chè
Nhiệt độ 15-30
0C
, độ ẩm
~80%, mưa đều quanh năm
Chua, pH: 4,0 - 4,5, tơi, xốp,
đất cao, nước ngầm 1,2m
Cần nhiệt của cận nhiệt.
Cần ẩm của nhiệt đới.
Hồi
Nhiệt độ (giống như chè), 2
mùa khô, mưa rõ rệt
Hơi chua đến kiềm, pH 5,0 -
6,5, nước ngầm sâu, tơi xốp
Nếu mưa ít thì hoa ít
tinh dầu.


phê
Nhiệt độ 20-30
0
C, độ ẩm

80%, 2 mùa khô, mưa rõ rệt.
Kiềm, sinh trưởng tốt trên
đất ba dan
Không chịu lạnh, bị bệnh,
cần có cây che bóng
Cao
su
Nhiệt độ 20- 40
0C
, độ ẩm

80%, không chịu được gió
mạnh, mưa đều càng tốt.
Chua đến hơi kiềm, pH 5,0 -
6,5, nước ngầm sâu, thoát
nước, đất thoáng
Nên phân bố từ 18
0
B
vào phía Nam
● Một số loại cây chính
- Cao su: Là loại cây lấy mủ ở miền rừng cận nhiệt đới (Nam Mỹ, Trung Mỹ, châu Phi nhiệt đới và
vùng rừng Đông Nam Á). Cây này được biết đến vào cuối thế kỷ XIX, khi CN ô tô ra đời và đòi hỏi nhiều
săm lốp, thì cao su mới được phát triển. Ở nước ta, cao su được trồng từ cuối TK 19 ở Thủ Dầu Một và
Khánh Hoà; các đồn điền được hình thành ở Đ.Nam Bộ và Tây Nguyên. Năm 1920: diện tích 7,2 ngàn ha;

năm 1963 tăng lên 14,0 ngàn ha. Trong chiến tranh, một số rừng cao su già cỗi, một số khác bị tàn phá (năm
1975 chỉ còn 8.000 ha). Từ năm 1980 trở lại đây diện tích & sản lượng tăng nhanh, năm 1990 (211,7 ngàn
ha & sản lượng 57,9 ngàn tấn), đến 2005 (482,7 ngàn ha - 481,6 ngàn tấn) và năm 2008 (631,5 ngàn ha -
659,6 ngàn tấn). Vùng trồng nhiều nhất Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh),
chiếm khoảng 80% diện tích cho sản phẩm (mủ) cả nước. Ngoài ra, cao su đang phát triển mạnh ở Tây
Nguyên (Gia Lai). Ở Bắc Trung Bộ (Quảng Trị và Phủ Quì, Nghệ An) Đây là loại cây mang lại hiệu quả
kinh tế tổng hợp (gỗ, nhựa ), nước ta diện tích trồng cao su còn nhiều. Vì vậy, cần tìm kiếm và mở rộng thị
trường…
- Cà phê: Là loại cây ưa nhiệt (trên 15
0
C), cần ẩm (lượng mưa > 1.250 mm/năm), là cây lấy hạt, có
thể trồng từ vĩ tuyến 20
0
B trở vào. Cà phê nhập vào nước ta có 3 loại là: Cà phê chè (Coffea Arabica) nguồn
gốc từ Êtiôpi; Cà phê vối (coffea Robusta) nguồn gốc từ Công Gô; Cà phê mít (coffea excelea) nguồn gốc
Libêria. Trong 3 giống này, cà phê chè ưa khí hậu chí tuyến (cây này xuất xứ ở các vùng núi cao, nếu đưa
xuống trồng ở các thung lũng có biên độ nhiệt hàng ngày lớn, cây hay có bệnh rỉ sắt).
Diện tích cà phê tăng khá nhanh: năm 1976 là 18,8 ngàn ha, 1985 tăng lên 44,7 ngàn ha, năm 2005
tăng lên 497,4 ngàn ha và đến năm 2008 là 530,9 ngàn ha. Sản lượng năm 1990 là 92,0 ngàn tấn thì đến năm
2005 tăng lên 752,1 ngàn tấn và năm 2008 là 1.055,8 ngàn tấn. Vùng trồng nhiều nhất là Tây Nguyên và
Đông Nam Bộ. Các tỉnh có diện tích nhiều nhất là Đắc Lắc (3/4 diện tích cả nước), Lâm Đồng, Đồng Nai,
Bình Dương, Bình Phước…
Cây cà phê mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhu cầu thị trường TG lớn (mặc dù giá cả có nhiều biến
động; nhưng thị trường xuất khẩu vẫn được mở rộng). Năm 1985, xuất khẩu mới đạt 9,2 ngàn tấn thì đến
1990 tăng lên 89,6 ngàn tấn, năm 2002 là 719,0 ngàn tấn và năm 2005 là 912,7 ngàn tấn và năm 2008 là
1.059,5 ngàn tấn (*). Diện tích trồng cà phê trong những năm qua tăng quá nhanh đã làm cung vượt quá cầu.
Khi giá cà phê trên TG giảm mạnh đã làm cho người sản xuất gặp nhiều khó khăn. Hướng phát triển trong
những năm tới là ổn định diện tích và tập trung vào loại cà phê có chất lượng (cà phê chè).
- Cây chè: Là loại cây bụi của miền nhiệt đới và cận nhiệt gió mùa, có mùa đông lạnh và khô, có thể
chịu được lạnh tới -10

0
C (đặc biệt là giống chè Shan Ấn Độ chịu lạnh rất giỏi). Chè Trung Quốc lá to (còn
gọi là chè trung du ở trung du phía Bắc) và chè Shan (ở MNPB’ và Lâm Đồng). Chè là cây có biên độ sinh
thái rộng, mưa rải đều thì kéo dài thời gian cho búp. Biên độ dao động nhiệt ngày - đêm cao thì chè tích luỹ
được nhiều dầu thơm. Vì vậy, cây chè phát triển tốt nhất là từ vĩ độ 18
0
B trở ra. Trước kia, cây chè chỉ được
trồng ở Phú Thọ và Buôn Hồ (Đắc Lắc) kinh doanh theo hình thức đồn điền. Năm 1930 chỉ có 8.000 ha và
sản lượng 6.000 tấn. Hiện nay cây chè được trồng rộng rãi khắp cả nước; năm 1976 cả nước có 38,7 ngàn
ha, sản lượng 18,0 ngàn tấn chè khô, năm 1985 tăng lên 50,8 ngàn ha và 28,2 ngàn tấn, năm 2005 tăng lên
122,5 ngàn ha và 570,0 ngàn tấn và năm 2008 (129,3 ngàn ha – 760,5 ngàn tấn), xuất khẩu đạt 104,5 ngàn
tấn. Vùng chè lớn nhất là MNTDPB’, Tây Nguyên và một số nơi (Nghệ An, Thanh Hoá, ). Lâm Đồng là
tỉnh có diện tích chè lớn nhất cả nước
Bảng 3.8. Diện tích gieo trồng và sản lượng một số cây công nghiệp lâu năm từ 1985 - 2008
Diện tích (nghìn ha) Sản lượng (nghìn tấn)
1985 2000 2005 2008 1985 2000 2005 2008
Chè búp 50,8 87,7 122,5 129,3 28,2 314,7 570,0 760,5
Cà phê 44,7 561,9 497,4 530,9 12,3 802,5 752,1 1055,8
Cao su 180,2 412,0 482,7 631,5 47,9 290,8 481,6 659,6
Hồ tiêu 2,2 27,9 49,1 50,0 1,3 39,2 80,3 98,3
Điều 195,6 348,1 402,7 67,6 240,2 308,5
Dừa 127,0 161,3 132,0 138,3 611,8 884,8 977,2 1086,0
3.1.3. Ngành trồng cây ăn quả
Ngành này được phát triển khá sớm với nhiều sản phẩm nổi tiếng như cam Xã Đoài, bưởi Đoan
Hùng, Phúc Trạch, Biên Hoà, nhãn Hưng Yên, xoài Lái Thiêu (Bình Dương), đào Sa Pa, mận Lạng Sơn
Tuy nhiên, ngành này phát triển chậm và thiếu ổn định. Năm 1990, cả nước mới có 281,2 ngàn ha cây ăn
quả các loại, năm 2005 là 767,4 ngàn ha và 2008 là 775,3 ngàn ha. Các vùng trồng cây ăn quả hàng hoá:
xoài ở Đông Nam Bộ, ĐB sông Cửu Long; cam Phủ Quì (Nghệ An); mận Bắc Hà (Lào Cai); vải thiều Lục
Ngạn (Bắc Giang)
3.2. NGÀNH CHĂN NUÔI

3.2.1. Đặc điểm chung
Trước đây, ngành này chưa được coi là ngành sản xuất độc lập, chủ yếu là ngành hỗ trợ cho trồng
trọt. Khi chăn nuôi người ta chỉ nghĩ đến sức kéo, vận tải cùng các chợ bán trâu, bò, ngựa còn nuôi gia
cầm là chỉ dùng khi cơ nhỡ, hay dùng trong việc cưới xin, ma chay, giỗ tết nhu cầu này không đủ để kích
thích sản xuất hàng hoá. Khi cơ chế thị trường mở ra, người dân đã quen với sản xuất nông phẩm hàng hoá,
thì hình thức chăn nuôi đã thay đổi (chăn nuôi công nghiệp đã phổ biến đến các hộ gia đình), sản phẩm cung
cấp cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu ngày càng tăng. Trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn
nuôi, thì giá trị sản xuất của chăn nuôi gia súc chiếm tỉ trọng lớn nhất (
±
70,0%), gia cầm có xu hướng
giảm, các sản phẩm không qua giết thịt có xu hướng tăng, nhưng chưa ổn định. Tỉ trọng giá trị sản xuất chăn
nuôi trong nông nghiệp cũng chỉ dao động ở gần 20,0% (năm 1990 là 16,63%, 2000 là 16,51%, 2008 là
19,75%).
Bảng 3.9. Cơ cấu giá trị SX ngành chăn nuôi theo vật nuôi và theo sản phẩm 1990 - 2008 (%).
Các ngành chăn nuôi 1990 1995 2000 2005 2008
Tổng giá trị 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Gia súc 63,87 69,92 61,41 71,17 70,39
Gia cầm 19,26 17,50 17,81 13,47 14.21
Sản phẩm không qua giết thịt 12,92 14,19 15,14 13,29 13,54
Sản phẩm khác 3,95 3,39 2,64 2,06 1,86
Bảng 3.10. Sản lượng sản phẩm chăn nuôi chủ yếu từ 2000 – 2008
Đơn vị tính 2000 2003 2005 2008
Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng Tấn 48415 5306 59800 71543
Sản lượng thịt bò hơi xuất chuồng " 93819 107540 142163 227196
Sản lượng sữa tươi " 51458 126697 197679 262160
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng Nghìn tấn 1418.1 1795.0 2288.3 2771
Sản lượng thịt gia cầm hơi giết, bán " 292.9 372.7 321.9 417.0
Trứng gia cầm Triệu quả 3771.0 4852.0 3948.5 4937.6
Sản lượng mật ong Tấn 5958 12758 13591 9960
Sản lượng kén tằm " 7153 11582 11475 7746

3.2.2. Chăn nuôi gia súc lớn
- Chăn nuôi trâu: Trâu là vật nuôi rất gần gũi với người nông dân, chủ yếu dùng làm sức kéo trong
nông nghiệp, lấy thịt, sữa. Nước ta có nhiều giống trâu tốt như trâu Nghệ An, Tuyên Quang, gần đây chúng
ta nhập giống trâu Mura có kết quả tốt. Về số lượng (2008) là 2,89 triệu con, nhiều nhất Đông Bắc (1,2 triệu
con – 42,1%), Bắc Trung Bộ (25,3%), Tây Bắc (16,2%); tỉnh nuôi nhiều nhất là Nghệ An 296,5 ngàn con
(10,2% cả nước), Thanh Hoá (227,3 ngàn con), Lạng Sơn (160,9 ngàn), Sơn La (158,6 ngàn), Hà Giang
(146,4 ngàn), Tuyên Quang (145,1 ngàn).
- Ngành chăn nuôi bò: Bò là vật nuôi đã được thuần dưỡng cách đây 25.000 năm, dùng làm sức kéo,
lấy thịt, sữa. Tùy theo từng điều kiện cụ thể, mỗi địa phương lại có hướng CMH’ khác nhau: Ba Vì (Hà
Tây) chăn nuôi bò giống kết hợp lấy thịt, sữa; Mộc Châu (Sơn La) bò sữa và sinh sản; Đức Trọng (Lâm
Đồng) nuôi lấy sữa và sinh sản; ngoại ô các TP lớn Hà Nội, TP HCM (chủ yếu là lấy sữa); đồng bằng Bắc
Bộ dùng sức kéo; DH miền Trung (cày kéo, sinh sản, lấy thịt). Tổng đàn bò cả nước năm 2008 là 6,33 triệu
con; DH Nam Trung Bộ (1,43 triệu con–22,7%), Bắc Trung Bộ (1,18 triệu con–18,6%), Tây Nguyên (721,3
ngàn con–11,4%), ĐB sông Cửu Long (713,5 ngàn con–11,3%). Các tỉnh nuôi nhiều nhất là Nghệ An
(408,9 ngàn con), Thanh Hóa (351,3 ngàn), Gia Lai (327,6 ngàn), Bình Định (307,5 ngàn)
- Ngựa: nuôi phổ biến ở miền núi dùng vận chuyển hàng hoá. Đàn ngựa có xu hướng giảm. Năm
1985 cả nước có ~ 132,7 ngàn con, đến năm 2008 giảm xuống còn 121,0 ngàn con. Các giống ngựa tốt có ở
Hát Lót (Sơn La), Nước Hai (Cao Bằng).
Địa bàn chăn nuôi gia súc không có nhiều thay đổi đã tạo nên một số mâu thuẫn: Hai đồng bằng lớn
có nhu cầu về sức kéo, thì 60% đàn trâu lại tập trung ở TDMNPB’, nhu cầu tiêu thụ SP thịt tập trung ở vùng
đông dân cũng là một vấn đề cần đặt ra trong thời gian tới.
Bảng 3.11. Số lượng đàn gia súc, gia cầm thời kỳ 1990 - 2008. (Nghìn con)
Trâu Bò Lợn Ngựa Dê, cừu Gia cầm
1990 2854,1 3116,9 12260,5 141,3 372,3 107400,0
1995 2962,8 3638,9 16306,4 126,8 550,5 163000,0
2000 2897,2 4127,9 20193,8 126.5 543,9 196100,0
2005 2922,2 5540,7 27435.0 110.5 1314.1 219900,0
2008 2897,7 6337,7 26701,6 121,0 1483,5 247300,0
3.2.3. Chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm
- Đàn lợn: chăn nuôi lợn gắn liền với các vùng sản xuất lương thực. Đàn lợn tăng khá nhanh và vững

chắc. Năm 2008, cả nước có trên 26,7 triệu con (tăng 2,3 lần so với 1985). Các vùng nuôi nhiều nhất là ĐB
sông Hồng (6,79 triệu con – 25,4% cả nước), Đông Bắc (18,7%), Bắc Trung Bộ (13,3%), ĐB sông Cửu
Long (13,6%). Các tỉnh – thành phố có số đầu lợn nhiều nhất Hà Nội (1,66 triệu con), Nghệ An (1,17 triệu),
Thanh Hoá (1,14 triệu), Đồng Nai (1,08 triệu), Nam Định (1,02 triệu), Bắc Giang (1,05 triệu).
- Dê, cừu: là loại mắn đẻ, cho năng suất cao. Riêng về cừu, chủ yếu để lấy lông, ở nước ta còn đang
thử nghiệm, nhưng ít hiệu quả. Đàn dê chăn thả chủ yếu ở các vùng núi đá. Đàn cừu chủ yếu nuôi ở vùng
cao nguyên. Năm 1990 tổng đàn dê cừu là 372,3 ngàn con, đến năm 2008 tăng lên 1,48 triệu con (tăng 4,0
lần).
- Chăn nuôi gia cầm: Chăn nuôi gia cầm thường gắn liền với việc tận dụng nguồn lao động phụ, phế
liệu của ngành trồng trọt, là ngành đem lại hiệu quả kinh tế cao (do chu kỳ sinh trưởng ngắn). Nhờ phát triển
CNCB’ thức ăn kết hợp với nhu cầu ngày càng cao của thị trường, đàn gia cầm liên tục tăng. Năm 2008 là
247,3 triệu con. Đàn gà, được nuôi ở đồng bằng, TDMN’; ven các TP lớn có hình thức nuôi công nghiệp.
Đàn vịt, nhiều nhất ở ĐB sông Cửu Long. Ngan, ngỗng được nuôi ở nhiều vùng, nhưng nhiều nhất thuộc về
ĐB sông Hồng và DHMT. Vào cuối năm 2002 đầu năm 2003 dịch cúm gia cầm bùng phát (tiêu hủy tới 35,0
triệu con). Vì vậy việc phát triển đàn gia cầm nên dự kiến là 340-350 triệu con vào năm 2010, trong đó đẩy
mạnh liên doanh chăn nuôi gà ở các TP HCM, Đồng Nai, Ninh Bình, Hải Dương
(Theo ĐỊA LÝ KINH TẾ - XÃ HỘI VIỆT NAM- Nguyễn Duy Hòa)

×