Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

Đề tài: "Chính sách và chiến lược việc làm cho lao động nông thôn ĐBSCL" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (542.53 KB, 48 trang )

Luận văn
Đề tài: "Chính sách và chiến lược
việc làm cho lao động nông thôn
ĐBSCL"
Trang 1
Mục lục
Trang 2
CHƯƠNG 1
MỞ ĐẦU
1.1ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) hiện nay đạt trên 18 triệu người, trong
đó có khoảng 78,85% dân số sinh sống ở vùng nông thôn
(1)
. Với đặc điểm dân số
đông và trẻ nên có nguồn lao động phong phú, dồi dào, đặc điểm này là thế mạnh
trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung và ĐBSCL nói riêng. Phần
lớn người lao động vùng ĐBSCL tập trung ở vùng nông thôn, chủ yếu sản xuất
nông nghiệp, do nền sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ nên đã dẫn đến vấn
đề dư thừa rất lớn thời gian lao động trong khu vực nông thôn.
Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng với việc
ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật vào trong lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp, thực tế này đã làm giảm rõ rệt nhu cầu sử dụng lao động của nông thôn
hiện nay. Bên cạnh đó, nguồn tài nguyên đất đai ngày càng hạn chế do nhu cầu đô
thị hóa và nhiều mục đích khác cũng góp phần làm cho tình trạng lao động nông
thôn không ổn định.
Dân số ĐBSCL hiện chiếm khoảng 21% dân số của cả nước nhưng cơ sở
dạy nghề chỉ chiếm có 14% của cả nước và đa số chủ yếu tập trung ở các
đô thị; trong đó chỉ có 55% các huyện có trung tâm dạy nghề. Hiện nay,
tuy đã thành lập một số trường dạy nghề lớn và đa số các tỉnh đều đã có
cơ sở dạy nghề nhưng nếu xét về quy mô đào tạo, số lượng ngành nghề,
chất lượng hiệu quả đào tạo còn hạn chế; chưa đáp ứng nhu cầu lao động


có chuyên môn kỹ thuật làm việc cho các khu công nghiệp, nhất là máy
móc thực hành chưa đáp ứng nhu cầu thực tế và chưa theo kịp sự phát
triển về khoa học – công nghệ hiện nay… Theo đánh giá của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội (LĐTB&XH), trong những năm qua, việc
đào tạo và dạy nghề ở ĐBSCL đã có bước phát triển, đưa tỷ lệ lao động
đã qua đào tạo của vùng ĐBSCL từ 14,13% năm 2005 lên 20,58% vào
cuối năm 2008. (Đầu tư Mê Kông, 2009).
Đồng bằng sông Cửu Long là khu vực có thị trường lao động và việc làm vẫn còn
nhiều vấn đề nan giải, đặc biệt là lao động và dạy nghề cho khu vực nông thôn.
Toàn vùng ĐBSCL hiện có 3,31% lao động thất nghiệp (trong đó lao động nông

1)
Niên giám Thống Kê 2009, Cục Thống kê Cần Thơ
Trang 3
thôn là 2,97%), tỷ lệ thiếu việc làm là 9,33% (trong đó khu vực nông thôn là
10,49%). Thị trường lao động nông thôn tại vùng ĐBSCL phát triển chậm hơn
nhiều so với các vùng khác trong cả nước, chất lượng nguồn nhân lực của lao động
nông thôn cũng khá thấp, có đến 80% lao động nông thôn chưa qua đào tạo. (Niên
giám thống kê năm 2009, cục thống kê Cần Thơ).
Tri Tôn là một huyện miền núi, biên giới, dân tộc, đồng thời cũng là một trong
những huyện đầu nguồn của tỉnh An Giang, diện tích tự nhiên khoảng 59.805 ha,
trong đó đất nông nghiệp chiếm 74,48%, đất lâm nghiệp chiếm khoảng 8,89%, còn
lại là đất ở và đất chuyên dùng. Toàn huyện Tri Tôn có hơn 32.720 hộ trên 124.000
người, trong đó huyện Tri Tôn có gần 50% đồng bào dân tộc Khmer sinh sống. Địa
hình đa dạng, vừa có đồi núi, vừa có đồng bằng với nhiều kênh mương lớn nhỏ
ngang dọc. (Bộ Tài Nguyên và Môi Trường, 2007).
Tri Tôn là một huyện nông nghiệp, mật độ dân số thấp nhất tỉnh nhưng diện tích
đất tự nhiên rộng nhất. Là địa phương tập trung đồng bào dân tộc Khmer đông nhất
của tỉnh An Giang, nhiều nơi vẫn còn sản xuất theo phương thức lạc hậu nên đời
sống của đa số nông dân hãy còn nghèo khó. Nhiều năm qua, các cấp chính quyền

và ngành nông nghiệp luôn nỗ lực phấn đấu mở rộng diện tích đất canh tác cũng
như đầu tư mạnh tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất, nên năng suất và sản
lượng lúa đã dần được nâng cao, đời sống nông dân đã được cải thiện đáng kể. Tuy
nhiên phần lớn đời sống của người lao động nông thôn trong vùng vẫn còn gặp rất
nhiều khó khăn.
Cụ thể như vấn đề nước sạch, vệ sinh và môi trường kém, nhất là người Khmer
nghèo và cận nghèo; người lao động quen với tập quán sản xuất nông nghiệp
truyền thống, năng suất và chất lượng thấp, thiếu vốn sản xuất, thu nhập không
ổn định, vấn đề tiếp cận khoa học kỹ thuật còn hạn chế nên khó có thể nâng
cao tay nghề.
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu
thế chủ động gia nhập vào kinh tế của khu vực và thế giới, người lao động có cơ
hội tìm kiếm việc làm nhiều hơn, người lao động có thể vươn lên nắm bắt cơ hội
và tự do làm việc theo năng lực của mình. Tuy nhiên, cũng có những thách thức
đặt ra cho người lao động nông thôn, đó là yêu cầu về chất lượng nguồn lao động,
người lao động không biết nghề hoặc chưa có trình độ chuyên môn cao thì rất khó
tìm được việc làm. Mặt khác, ngày nay kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì
nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nhóm nông dân. Chính vì thế chính sách và
Trang 4
chiến lược việc làm cho người lao động nông thôn vùng ĐBSCL vẫn luôn là vấn
đề cần thiết nhằm góp phần hỗ trợ cho người lao động nông thôn.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả và tác động của các chính sách và chiến lược việc làm cho
người lao động nông thôn của vùng ĐBSCL: trường hợp huyện Tri Tôn tỉnh An
Giang. Qua đó xác định những chính sách và chiến lược có hiệu quả nhằm phát
huy cao hơn nữa lợi ích thiết thực cho người lao động nông thôn huyện Tri Tôn;
đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của nông thôn ĐBSCL nói chung.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể

1) Nghiên cứu đặc điểm của nguồn lao động khu vực nông thôn huyện Tri Tôn
và nhu cầu việc làm hiện nay.
2) Nghiên cứu các chính sách và chiến lược hỗ trợ cho người lao động nông
thôn vùng ĐBSCL và trường hợp của huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
3) Đánh giá hiệu quả của chính sách và chiến lược, bên cạnh đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm phát huy những hiệu quả đạt được.
1.3 CÂU HỎI ĐẶT RA CHO VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
(1) Thế mạnh và hạn chế của lao động ở vùng nông thôn ĐBSCL nói chung và
huyện Tri Tôn là gì?
(2) Thực trạng về vấn đề lao động, việc làm ở ĐBSCL và huyện Tri Tôn hiện nay
như thế nào?
(3) Làm thế nào để giải quyết tốt việc làm cho lao động nông thôn khu vực
ĐBSCL và trường hợp cụ thể của huyện Tri Tôn?
(4) Chính sách và chiến lược gì đã và đang hỗ trợ cho đối tượng lao động nông
thôn vùng ĐBSCL, đặc biệt tại huyện Tri Tôn?
(5) Tác động và hiệu quả đạt được của những chính sách và chiến lược đó đến đời
sống của người lao động ra sao?
Trang 5
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu về các chính sách và chiến lược hỗ trợ cho người lao
động nông thôn vùng ĐBSCL: trường hợp của huyện Tri Tôn tỉnh An Giang. Đề
tài tập trung nghiên cứu các chỉ tiêu: Giáo dục – Đào tạo, đào tạo nghề và một số
chiến lược hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực.
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Khu vực nông thôn tại huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
1.5 Ý NGHĨA KHOA HỌC ĐỀ TÀI
Đề tài là công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, là cơ sở
để đánh giá nguồn nhân lực, hoạch định các chính sách và chiến lược hiệu quả hơn
cho người lao động thuần nông hoặc phi nông nghiệp nông thôn.

1.6 CẤU TRÚC TIỂU LUẬN
Tiểu luận gồm có 5 chương, bao gồm các nội dung:
Chương 1 - Mở Đầu: Đặt vấn đề, mục tiêu nghiên cứu, câu hỏi đặt ra cho vấn đề
nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, ý nghĩa khoa học của đề tài. Các
chương còn lại được bố cục như sau:
Chương 2 - Lược khảo tài liệu: Giới thiệu tổng quan về vùng nghiên cứu, các vấn
đề liên quan đến Chính sách và chiến lược việc làm ở nông thôn ĐBSCL: trường
hợp huyện Tri Tôn tỉnh An Giang.
Chương 3 - Phương Pháp Luận Và Phương Pháp Nghiên Cứu: Mô tả phương
pháp tiếp cận vấn đề nghiên cứu và phương pháp phân tích các số liệu.
Chương 4 - Kết Quả Và Thảo Luận: Diễn đạt nội dung nghiên cứu, phân tích và
đánh giá số liệu, thảo luận kết quả nghiên cứu.
Chương 5 - Kết Luận Và Kiến Nghị: Trình bày ngắn gọn các kết luận đúc kết từ
các kết quả nghiên cứu theo mục tiêu và nội dung của chương 4; đồng thời đề xuất
giải pháp và kiến nghị một số phương án nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ cho các
chính sách đối với người lao động nông thôn ĐBSCL.
Trang 6
CHƯƠNG 2
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
2.1 TỔNG QUAN VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
2.1.1 Tổng quan Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là một trong những đồng bằng lớn, phì nhiêu của
khu vực Đông Nam Á và thế giới, là vùng sản xuất, xuất khẩu lương thực, vùng
cây ăn trái nhiệt đới lớn nhất Việt Nam. ĐBSCL cũng là vùng đất quan trọng
đối với Nam Bộ và cả nước trong phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao
thương với các nước trong khu vực và thế giới, là vùng kinh tế phát triển năng
động, đóng vai trò chính trong sản xuất nông nghiệp và xuất khẩu nông sản của
cả nước.
Đồng bằng sông Cửu Long gồm 13 tỉnh – thành phố, dân số hơn 18 triệu
người, chiếm hơn 20,6% dân số cả nước, số người ở độ tuổi lao động hơn 60%

dân số vùng, tương đương 10,5 triệu lao động. Đây là khu vực có lực lượng lao
động khá dồi dào, cần cù, có điều kiện tiếp cận khoa học kỹ thuật, thông tin và
kinh nghiệm quản lý,…Là điều kiện thuận lợi để nguồn nhân lực ĐBSCL ngày
càng nâng cao chất lượng và phát huy tiềm năng lao động của mình.
Về mặt yếu tố kinh tế - xã hội, vùng có nền kinh tế nông nghiệp mang nhiều
màu sắc, các loại hình kinh tế đa dạng như: kinh tế biển, kinh tế rừng, chủ yếu
là nông nghiệp vùng ngập lũ. Với những nét đặt trưng của vùng kinh tế này, nó
đòi hỏi tính năng động, sáng tạo đối với người dân ngay từ đầu, chủ động đối
mặt với khó khăn, tạo sức bật cho họ thoát khỏi vòng lẩn quẩn của nền kinh kế
tự cung tự cấp, không bảo thủ mà sẵn sàng đổi mới, linh hoạt trong cạnh tranh
và hợp tác để phát triển.
Đồng bằng sông Cửu Long được xem là "vùng trũng"
(
2)
về chất lượng giáo dục,
đào tạo nhân lực trong cả nước. Lý giải về thực trạng phát triển nguồn nhân lực
tại ĐBSCL trong những năm qua nhiều nhà nghiên cứu và quản lý đều thống
nhất cho rằng quy mô giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực chưa tương xứng với
tầm vóc và vị trí chiến lược của vùng; mạng lưới trường lớp, đội ngũ giáo viên,
cán bộ quản lý vừa thiếu, vừa yếu mà lại chưa đồng bộ về cơ cấu; chất lượng
giáo dục đại trà chưa cao; cơ sở vật chất nghèo, lạc hậu. Theo đánh giá của Bộ

2)
Minh Giảng, 2008
Trang 7
Giáo dục - Đào tạo, trong một thời gian dài, do chưa nhận thức đúng về vai trò
của giáo dục, đào tạo, dạy nghề trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nên
ngân sách đầu tư cho ngành giáo dục ở khu vực này chưa thỏa đáng dẫn đến
trình trạng mạng lưới trường lớp, phương tiện, thiết bị phục vụ giảng dạy luôn
thiếu thốn; tình trạng thiếu giáo viên còn phổ biến; tỷ lệ trẻ em đi học đúng tuổi

đến trường chưa cao, tỷ lệ bỏ học còn nhiều; tỷ lệ sinh viên tính trên 100.000
dân còn ít.
Rõ ràng nguồn nhân lực và việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực là điểm
yếu và cũng là điều rất khó khăn của ĐBSCL. Khó khăn này gây ảnh hưởng
không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn. Do vậy cần thiết có
những giải pháp phù hợp cho sự phát triển nguồn nhân lực của vùng.
2.1.2 Tổng quan tỉnh An Giang
An Giang là một tỉnh thuộc vùng ĐBSCL, phía Đông và phía Bắc giáp tỉnh
Đồng Tháp, phía Tây Bắc giáp Campuchia với đường biên giới dài gần 100
km, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông Nam giáp thành
phố Cần Thơ. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.506 km
2
, dân số toàn tỉnh khoảng
2.273.150 người, trong đó thành thị chiếm 38,4%, nông thôn chiếm 71,6% dân
số toàn tỉnh. Số người trong độ tuổi lao động hơn 1.456.212 người, chiếm trên
64,06% dân số toàn tỉnh An Giang. (Niên giám thống kê - Cục thống kê An
Giang, 2009).
Nằm ở vị trí thuận lợi cả đường thủy lẫn đường bộ, lại tiếp giáp vùng biên giới
Tây Nam của Tổ quốc, An Giang có nhiều điều kiện để phát triển kinh tế theo
hướng đa dạng. Với chính sách “mở” trong thu hút đầu tư cùng những lợi thế
khác, như: du lịch phát triển, hạ tầng giao thông đang được nâng cấp, hoàn
thiện; nhiều khu công nghiệp, trung tâm thương mại ra đời; khu vực kinh tế
biên giới phát triển năng động… An Giang đang trở thành “miền đất hứa” với
nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước.
2.1.3 Tổng quan huyện Tri Tôn
2.1.3.1 Đặc điểm tự nhiên
Huyện Tri Tôn, phía Đông giáp các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, phía Bắc
giáp huyện Tịnh Biên, phía Tây Bắc giáp Campuchia, phía Nam giáp tỉnh Kiên
Giang. Diện tích: 59.805 ha, địa hình đa dạng, vừa có đồi núi, vừa có đồng
bằng với nhiều kênh mương lớn nhỏ ngang dọc. Huyện Tri Tôn có thị trấn Tri

Tôn (huyện lị), thị trấn Ba Chúc và 13 xã: Châu Lăng, Lương Phi, Vĩnh Phước,
Trang 8
Lương An Trà, Lạc Quới, Vĩnh Gia, Núi Tô, An Tức, Ô Lâm, Cô Tô, Tà Đảnh,
Tân Tuyến. (Tri tôn Wikipedia, 2010).
2.1.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
Tổng thu nhập quốc dân (GDP) 6 tháng đầu năm 2010 tăng 10,64%, so cùng kỳ
tăng 2,02%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả 03 khu vực so cùng kỳ đều tăng, cụ
thể:
+ Khu vực I: Nông – Lâm - Ngư nghiệp: + 4,87%
+ Khu vực II: Công nghiệp - Xây dựng: + 12,82%
+ Khu vực III: Dịch vụ - Thương mại: + 15,68%.
Cơ cấu GDP của các khu vực kinh tế huyện Tri Tôn:
Hình 2.1: Biểu đồ cơ cấu GDP của các khu vực kinh tế huyện Tri Tôn
(Nguồn: Báo cáo Kinh tế - Xã hội Ủy ban nhân dân huyện Tri Tôn, 2010)
Dân số huyện Tri Tôn là 132.625 người (nông thôn chiếm 77% dân số), tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên là 12,43%. Tri Tôn có trên 40% đồng bào dân tộc Khmer
sinh sống tại huyện. (Niên giám thống kê tỉnh An Giang, 2009).
2.1.3.3 Nguồn nhân lực
Hiện nay, số người chưa đến tuổi lao động của huyện Tri Tôn có khoảng
26.082 người, đây là lực lượng lao động trẻ tiềm năng của huyện. Lực lượng
lao động tiềm năng này đang được đào tạo ở các cấp học và sẽ bổ sung vào
nguồn nhân lực có chất lượng của huyện. Số người trong độ tuổi lao động của
huyện trên 86.206 người, trong đó người lao động là người dân tộc Khmer trên
24.137 người, chiếm 28,52% lực lượng lao động của huyện. (Niên giám thống
kê huyện Tri Tôn, 2009).
Trang 9
Bảng 2.1: Tình hình Giáo dục – Đào tạo của huyện Tri Tôn
Năm học ĐVT
2005 -
2006

2006 -
2007
2007 -
2008
2008 -
2009
2009 -
2010
I. Mầm non, Nhà trẻ, Mẫu giáo
- Trường Trường 17 17 19 19 19
- Lớp Lớp 115 122 128 131 132
- Học sinh Người 3.425 3.578 3.777 3.776 3.972
- Giáo viên Người 142 136 144 139 133
II. Tiểu học
- Trường Trường 33 33 32 32 32
- Lớp Lớp 469 464 460 463 473
- Học sinh Người 13.043 12.605 12.209 12.214 12.596
- Giáo viên Người 534 548 524 547 545
III. Trung học cơ sở
- Trường Trường 15 15 15 15 15
- Lớp Lớp 223 214 200 197 202
- Học sinh Người 8.316 8.164 7.381 7.195 7.053
- Giáo viên Người 346 371 408 409 408
IV. Trung học phổ thông
- Trường Trường 4 3 3 3 3
- Lớp Lớp 72 69 63 65 66
- Học sinh Người 3.096 2.840 2.411 2.479 2.407
- Giáo viên Người 145 183 161 161 168
(Nguồn: Niên giám thống kê huyện Tri Tôn, 2009)
2.2. LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM NÔNG THÔN

2.2.1 Vai trò của việc làm đối với lao động nông thôn
Giải quyết việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với người lao động đặc biệt là
đối tượng lao động nông thôn. Việt Nam có hơn 70,4% người lao động xuất
thân từ nông thôn, về trình độ, chuyên môn kỹ thuật còn hạn chế. Do đó, giải
quyết việc làm cho người lao động nông thôn là vấn đề cần được quan tâm
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Tại nhiều làng quê, vấn đề dư thừa lao động trở nên đáng báo động. Tình trạng
thanh niên ở các làng quê không có việc làm thường xuyên chơi bời, lêu lổng,
dẫn đến sa ngã vào tệ nạn xã hội; nhiều thanh niên phải rời bỏ làng quê lên
thành phố vất vưởng tìm việc làm thuê; nhiều làng nghề truyền thống mai một
đẩy nhiều lao động nông thôn đến tình cảnh thất nghiệp Không có việc làm
hoặc việc làm bấp bênh, năng suất lao động thấp, hiệu quả sản xuất kém, dẫn
đến thu nhập không ổn định, khiến cho việc đầu tư tái sản xuất ở khu vực nông
thôn gặp nhiều khó khăn.
Tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội, nó thể
hiện vai trò của xã hội đối với người lao động, sự quan tâm của xã hội về đời
Trang 10
sống vật chất và tinh thần của người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp và hạn chế
được những phát sinh tiêu cực cho xã hội do thiếu việc làm gây ra.
2.2.2 Chất lượng nguồn lao động
Hiện nay, ĐBSCL có đến 85,67% lực lượng lao động chưa qua đào tạo.
Trong số lao động đã qua đào tạo thì chỉ có 0,65% có chứng chỉ, chỉ 1% có
bằng nghề, 0,48% có bằng sơ cấp, 2,39% có bằng trung học chuyên nghiệp,
2,57% có bằng cao đẳng, đại học và sau đại học (xếp thứ 8 trong 8 vùng)
và 7,24% có qua đào tạo nhưng không có bằng cấp chứng chỉ. Thêm vào
đó, đa số các cơ sở dạy nghề ở vùng ĐBSCL chủ yếu dạy nghề ngắn hạn
(sơ cấp) và chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp sử
dụng lao động. (Phương Nghi, 2009).
Theo báo cáo của Bộ LĐTB&XH (2009), về “Thực trạng và phương hướng
giải quyết việc làm cho vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL”, cho rằng: Chất

lượng lao động được cải thiện nhưng còn thấp so với cả nước, năm 2007, tỷ lệ
lao động qua đào tạo toàn vùng khoảng 30% (cả nước là 34,75%). Trình độ học
vấn của lao động trong vùng khá thấp so với cả nước, năm 2007, 66,8% lao
động trong vùng tốt nghiệp tiểu học trở xuống, 18,7% lao động tốt nghiệp trung
học cơ sở (THCS) và 14,5% lao động tốt nghiệp trung học phổ thông (THPT)
(tỷ lệ này của cả nước lần lượt là 44,4%, 31,1% và 24,5%). Đây thực sự là
thách thức lớn đối với vùng trong việc đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật lành
nghề của các doanh nghiệp cũng như đầu vào cho các cơ sở đào tạo nhằm nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực của vùng.
Đồng bằng sông Cửu Long luôn được đánh giá là vùng có nguồn nhân lực dồi
dào, nhưng tỷ lệ thất nghiệp lại cao nhất nhì cả nước. Dân số toàn vùng hiện
chiếm 22% nhưng cơ sở dạy nghề chỉ chiếm 14% cả nước, 77% dân số có trình
độ từ tiểu học trở xuống, ngược lại với đồng bằng Bắc bộ. ĐBSCL hiện có 280
cơ sở dạy nghề, cơ bản xoá được "vùng trắng" trường dạy nghề trên địa bàn
nhưng chất lượng còn hạn chế, chủ yếu là dạy nghề ngắn hạn. Trình độ thấp,
kéo theo tỷ lệ thất nghiệp và nguy cơ tái nghèo cao. (Bộ LĐTB & XH, 2008).
Theo Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang (2009), về “Phát triển nguồn nhân lực
ĐBSCL thời kỳ hội nhập”, đã cho rằng: Đại bộ phận người lao động làm nghề
nông nghiệp, thủy sản, sinh sống tại nông thôn. Những năm gần đây do sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế cùng với tốc độ đô thị hóa, một bộ phận lao động ở
nông thôn đã chuyển ra thành thị hoặc chuyển sang làm việc trong lĩnh vực
Trang 11
công nghiệp, dịch vụ. Song sự chuyển dịch này còn rất chậm, vì vậy lực lượng
lao động ở nông thôn làm nghề nông nghiệp vẫn chiếm tỉ trọng cao so với mức
bình quân của cả nước 78,2% (năm 2007 là 72,4%). ĐBSCL có qui mô nguồn
nhân lực lớn nhưng tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn rất thấp, kỹ năng nghề
nghiệp yếu kém; còn nhiều bất cập về mặt cơ cấu và bố trí sử dụng. Đồng thời
cũng nhận định rằng: có một nghịch lý là nông dân ĐBSCL là người hội nhập
sớm nhất của Việt Nam nhưng còn rất nghèo nên con em nông dân không thể
có tiền đi học được.

Theo Đoàn Hữu Lực và ctv (2009), chuyên đề: Diễn đàn hợp tác kinh tế
ĐBSCL – An Giang về “Thực trạng và giải pháp đào tạo nguồn nhân lực đồng
bằng sông Cửu Long trong thời kỳ hội nhập”, cho rằng: Chuyển dịch cơ cấu
kinh tế còn chậm, kết cấu hạ tầng nhìn chung còn lạc hậu, chưa đáp ứng yêu
cầu phát triển; môi trường đầu tư kém hấp dẫn, chưa thu hút được nhiều nhà
đầu tư trong và ngoài nước. Với số dân hơn 17 triệu người, trong đó gần 80%
gắn bó với kinh tế nông nghiệp tạo ra một lực lượng lao động tại chỗ đông đảo.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng được yêu cầu trong sản
xuất, kinh doanh và quản lý lại thiếu. Tình trạng thừa lao động phổ thông, thiếu
lao động có kỹ thuật, tay nghề cao là phổ biến tại các tỉnh trong Vùng. Đây là
thách thức lớn cho các nhà quản lý và doanh nghiệp.
Chất lượng nguồn nhân lực tại huyện Tri Tôn vẫn còn bộc lộ nhiều yếu điểm,
số người có trình độ chuyên môn làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp tại nông
thôn quá ít; khả năng tiếp cận và ứng dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất
còn hạn chế; nhận thức của người dân về các vấn đề kinh tế xã hội chưa thoát
khỏi lối tư duy tiểu nông, sản xuất nhỏ; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn còn ở
mức cao, tình trạng trẻ em bỏ học sớm có chiều hướng gia tăng.
Toàn huyện Tri Tôn có 32 trường tiểu học, 15 trường THCS, 3 trường THPT
đào tạo cho hơn 22.056 học sinh nhưng chất lượng đào tạo vẫn kém và tình
trạng học sinh bỏ học tương đối cao, cụ thể học sinh tiểu học 3,33%, THCS
4,35%, THPT 7,74%. Tỷ lệ học sinh đậu vào các trường đại học, cao đẳng
62,5%. Các lớp đào tạo nghề mở theo phương thức “bán cố định”, tùy theo
ngân sách, tài nguyên sẵn có, nhu cầu của lao động và thị trường lao động. Qua
thực tế đào tạo nghề cho lao động nữ ở xã Tà Đảnh và thị trấn Ba Chúc cho
thấy việc hỗ trợ tiền ăn cho học viên theo diện ưu đãi còn thấp, chưa đáp ứng
được bằng nhu cầu thu nhập thường ngày, trong khi đó đa số học viên phải lao
động kiếm sống hàng ngày. Vì vậy, nhiều học viên trong diện được ưu đãi học
Trang 12
nghề chưa an tâm tham gia lớp học và sớm rời bỏ các lớp đào tạo đi làm công
kiếm sống. (Châu Phong, 2010).

2.3 MỐI QUAN HỆ VỀ CUNG CẦU LAO ĐỘNG TRÊN THỊ TRƯỜNG
Thể hiện trên 3 trạng thái: Trạng thái cân bằng cung - cầu lao động, trạng thái
rối loạn cung - cầu lao động và trạng thái cân bằng mới
(
3)
(Hình 2.2). Trong thị
trường sức lao động quan hệ cung cầu thể hiện khá rõ, nếu mức tiền công quá
cao U
1
P
1
thì có hiện tượng cung lao động lớn hơn về cầu lao động, nghĩa là số
người muốn đi làm việc sẽ lớn hơn số người tìm được việc làm ở mức tiền
công này. Chính điều này đã tạo nên sự rối loạn trạng thái cung - cầu lao động
trên thị trường, một thực tế là mức tiền công càng cao sẽ tỷ lệ nghịch với cầu
lao động trên thị trường lao động.
Ngược lại khi mức tiền công thấp U
2
P
2
thì khả năng thu hút lao động sẽ lớn
hơn và xuất hiện về cầu lao động sẽ lớn hơn cung, mức tiền công này
không hấp dẫn người lao động. Vì thế mức tiền công này sẽ thiếu hụt lao
động làm việc.
Theo quy luật của thị trường lao động, giá cả tiền công luôn có xu hướng trở về
mức cân bằng U
0
P
0
để cung và cầu lao động được cân bằng. Tại giá trị cân

bằng, người lao động sẽ tìm được việc làm và mức tiền công thích hợp; mặt
khác nhu cầu về lao động tại mức này sẽ đáp ứng được nhu cầu tuyển dụng với
mức chi trả tiền công tương đối.
Đoạn D
1
S
1
là số người bị thất nghiệp trên thị trường lao động, đoạn S
2
D
2
là sự
thiếu hụt về lao động.
3)
Đinh Quang Thái, 2003
Trang 13
Quan hệ cung cầu lao động:
Trong đó: S
ld
: Đường Cung lao động;
E: Điểm cân bằng của cung – cầu lao động
D
ld
: Đường cầu lao động;
Cung - cầu lao động là hai vế của thị trường lao động, sử dụng nguồn lao
động có hiệu quả hoặc tận dụng nguồn lao động chỉ có thể đạt được khi cân
bằng cung – cầu lao động ở một mức độ nhất định. Mỗi vế của cung – cầu
lao động luôn biến đổi theo những nguyên nhân riêng và do tác động tương
hỗ giữa chúng. Trong mối tương tác này, tiền công có tác động mạnh mẽ
và trực tiếp nhất.

2.4 NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC NÔNG THÔN CỦA MỘT SỐ NƯỚC
2.4.1 Trung Quốc
Hiện nay, Trung Quốc có dân số trên 1,3 tỷ người, mà hai phần ba là nông dân,
tức là số nông dân có tới 900 triệu người, trong số đó 600 triệu sống bằng nghề
trồng trọt, trên những mảnh ruộng nhỏ li ti. Hàng năm có trên 10 triệu lao động
tham gia vào lực lượng lao động xã hội nên yêu cầu giải quyết việc làm trở nên
gay gắt hơn.
Trước đòi hỏi mang tính cấp thiết đó, ngay từ những năm 1978 Trung Quốc đã
thực hiện mở cửa cải cách nền kinh tế và thực hiện phương châm “Ly nông bất
ly hương” hay “Nhập xưởng bất nhập thành”, và đã thực hiện nhiều chính sách
phát triển, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phân công lao động nông
0 Thị trường
lao động
Tiền công
E
D
1
S
1
D
ld
S
ld
S
2
D
2
U
1

P
1
U
0
P
0
U
2
P
2
Hình 2.2: Mối quan hệ cung – cầu lao động
Trang 14
thôn, rút ngắn khoảng cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, coi phát
triển công nghiệp nông thôn là con đường để giải quyết việc làm.
Những kết quả bất ngờ về phát triển kinh tế và giải quyết việc làm ở Trung
Quốc đạt được trong những năm đổi mới vừa qua, quá trình này đều gắn kết
với phát triển công nghiệp ở nông thôn. Từ thực tiễn phát triển công nghiệp và
giải quyết việc làm ở nông thôn Trung Quốc trong thời gian qua, có thể rút ra
một số bài học kinh nghiệm như sau:
Thứ nhất: Trung Quốc thực hiện chính sách chuyên môn hóa và đa dạng hóa
sản xuất kinh doanh, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông thôn,
thực hiện phi tập thể hóa trong sản xuất nông nghiệp thông qua áp dụng hình
thức khoán sản phẩm, nhờ đó khuyến khích nông dân đầu tư dài hạn phát triển
cả sản xuất nông nghiệp và mở các hoạt động phi nông nghiệp trong nông thôn.
Thứ hai: Nhà nước tăng thu mua nông sản với giá hợp lý, giảm giá hàng công
nghiệp, qua đó tăng sức mua của người nông dân và thúc đẩy các hoạt động sản
xuất kinh doanh phi nông nghiệp ở nông thôn. Cùng với chính sách khuyến
khích phát triển sản xuất đa dạng hóa theo hướng phát triển những sản phẩm có
giá trị kinh tế hơn, phù hợp với yêu cầu thị trường đã có ảnh hưởng lớn đối với
thu nhập trong khu vực nông thôn.

Theo kết quả điều tra của cơ quan chức năng Trung Quốc, thu nhập thực tế
bình quân đầu người ở nông thôn đã tăng lên. Chính sức mua trong khu vực
nông thôn đã tăng lên nhanh chóng, làm tăng cầu về các loại hàng hóa tiêu
dùng từ hàng hóa thực phẩm, hàng hóa thiết yếu đến tiêu dùng những sản phẩm
có độ co dãn theo thu nhập cao hơn: ô tô, tham quan - du lịch,… Tăng thu nhập
và sức mua của người dân nông thôn đã tạo ra cầu cho các doanh nghiệp công
nghiệp ở nông thôn phát triển nhằm thu hút thêm nhiều lao động.
Thứ ba: Tạo môi trường thuận lợi để phát triển công nghiệp.
Thứ tư: Thiết lập một hệ thống cung cấp tài chính có hiệu quả cho doanh
nghiệp nông thôn, giảm chi phí giao dịch để huy động vốn cho công nghiệp
nông thôn.
Thứ năm: Duy trì và mở rộng mối quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp nông
thôn và doanh nghiệp nhà nước.
Trang 15
2.4.2 Malaysia
Liên bang Malaysia có diện tích tự nhiên 329.800 km
2
, dân số khoảng 27 triệu
người (2010), mật độ dân số 74 người/ km
2
. Hiện nay lao động đang được thu
hút mạnh vào các ngành phi nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ nên sức ép về
dân số và đất đai là không lớn. Ngày nay, Malaysia không đủ lao động nên phải
nhập khẩu lao động từ nước ngoài, nhưng trong thời gian đầu của quá trình
công nghiệp hóa, Malaysia đã phải giải quyết vấn đề dư thừa lao động nông
thôn như nhiều quốc gia khác. Hiện nay ngoài việc tạo việc làm cho lực lượng
lao động nông thôn trong nước, Malaysia còn phải nhập thêm lao động từ nước
ngoài. Từ kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn Malaysia
cho thấy:
Thứ nhất: Thời gian đầu của quá trình công nghiệp hóa, Malaysia chú trọng

phát triển nông nghiệp, trong đó đặc biệt chú trọng tới phát triển cây công
nghiệp dài ngày. Cùng với phát triển nông nghiệp, Malaysia tập trung phát triển
công nghiệp chế biến, vừa giải quyết đầu ra cho sản xuất nông nghiệp vừa giải
quyết việc làm và thu nhập cho người lao động nông thôn.
Thứ hai: Khai phá những vùng đất mới để phát triển sản xuất nông nghiệp theo
định hướng của chính phủ để giải quyết việc làm mới cho lao động dư thừa
ngay trong khu vực nông thôn. Nhà nước đầu tư cơ sở hạ tầng và phúc lợi xã
hội, kèm theo cung ứng vốn, vật tư, thông tin, hướng dẫn khoa học kỹ thuật,…
để người dân yên tâm sản xuất; đồng thời nhà nước phát huy tính chủ động
sáng tạo của người dân, mặt khác gắn trách nhiệm giữa nhà nước và người dân,
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thứ ba: Thu hút cả đầu tư trong nước và nước ngoài vào phát triển công nghiệp
mà trước hết là công nghiệp chế biến nhằm giải quyết lao động và dịch chuyển
lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp, dịch vụ. Trong
thời gian này, Malaysia thu hút vốn đầu tư nước ngoài bằng các chính sách ưu
đãi. Thông qua các biện pháp này Malaysia đã giải quyết được vấn đề:
o Tạo việc làm cho số lao động dư thừa;
o Đào tạo công nhân nâng cao tay nghề và trình độ quản lý cho người lao
động;
o Tận dụng cơ sở vật chất của các công ty nước ngoài đầu tư vào Malaysia
khi đã hết hạn hợp đồng và thành tựu tiến bộ khoa học kỹ thuật của họ;
Trang 16
Thứ tư: Khi nền kinh tế đất nước đã chuyển sang toàn dụng lao động, Malaysia
chuyển sang sử dụng nhiều vốn và khai thác công nghệ hiện đại, ứng dụng kỹ
thuật, công nghệ mới, cung cấp lao động đã qua đào tạo cho phát triển công
nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ.
2.4.3 Một số bài học kinh nghiệm từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn
Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về lao động và giải quyết việc làm
của Trung Quốc và Malaysia có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm và vận
dụng cho giải quyết việc làm trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở vùng

ĐBSCL nói chung và của huyện Tri Tôn nói riêng. Các bài học đó là:
Thứ nhất: Nhà nước cần phải có những chính sách vĩ mô về vai trò quản lý của
Nhà nước để chống thất nghiệp, thiếu việc làm, giải quyết việc làm cho người
lao động. Từ đó đề ra những giải pháp và chính sách đúng đắn, đồng bộ, đồng
thời phù hợp với người lao động nông thôn và điều kiện để thực thi. Những
chính sách và giải pháp đó hướng vào phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế đi
đôi với giải quyết việc làm.
Thứ hai: Phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện: đẩy
mạnh thâm canh, tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với sự phát triển đa dạng các
ngành nghề sử dụng nhiều lao động và có khả năng thu hút lao động, phân
công lao động, tạo việc làm tại chỗ ở nông thôn.
Thứ ba: Đa dạng hóa các hình thức giải quyết việc làm: khôi phục các làng
nghề truyền thống có giá trị kinh tế, đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công nghiệp,
nâng cao đời sống của người lao động. Xã hội hóa giải quyết việc làm, huy
động tổng hợp các nguồn lực và sự tham gia rộng rãi của các tổ chức, đoàn thể
chính trị - xã hội và toàn thể nhân dân.
Thứ tư: Đào tạo nghề và nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp
cho người lao động nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động hiện nay,
nhất là là các lĩnh vực thu hút nhiều lao động, các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn,
yêu cầu chất lượng cao từ nguồn nhân lực.
Thứ năm: Phát triển các trung tâm dịch vụ lao động, cơ sở giới thiệu việc làm,
các tổ chức xuất khẩu lao động.
Trang 17
Thứ sáu: Trên cơ sở phát huy nội lực trong nước, mở rộng hợp tác quốc tế
nhằm tận dụng sự hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý cho giải quyết
việc làm.
Tùy theo điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của mỗi địa phương mà vận dụng
bài toán giải quyết việc làm khác nhau. Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay, xu
thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, ĐBSCL nói chung và huyện Tri

Tôn nói riêng cần có những biện pháp thích hợp với các chính sách và chiến
lược mang tính đột phá cho người lao động nông thôn.
2.5 HỆ THỐNG CÁC CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN LƯỢC ĐỐI VỚI LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN HUYỆN TRI TÔN
 Hệ thống các chính sách hỗ trợ cho người lao động nông thôn huyện Tri Tôn
(Bảng 2.2).
 Các chiến lược vì mục tiêu phát triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước:
(i) Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”
(
4)
Trong những năm qua, đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã được quan tâm
từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là những địa phương có nhiều diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi để làm công nghiệp. Tuy nhiên, một thực tế là các
cơ sở dạy nghề mọc lên rất nhiều, nhưng hầu hết chỉ thu hút được người dân
vào đào tạo mà không giải quyết được đầu ra cho lao động nông thôn. Theo
khảo sát trong tổng số khoảng 1 triệu lao động nông thôn được đào tạo thì chỉ
có khoảng 3% số lao động này trực tiếp làm nông nghiệp và hiệu quả còn thấp.
Ngay cả những lao động nông thôn tìm kiếm được việc làm tại các khu công
nghiệp, các nhà máy nhưng sau một thời gian làm việc đã không trụ được, hoặc
không đáp ứng được yêu cầu của công việc. Nguyên nhân là do các cơ sở đào
tạo nghề mới dừng lại ở việc đào tạo theo năng lực sẵn có của mình mà không
theo nhu cầu học nghề của lao động nông thôn và yêu cầu của thị trường lao
động. Giáo trình đào tạo, thời gian đào tạo chưa phù hợp
4)
Ngọc Ước, 2010
Trang 18
Bảng 2.2: Hệ thống chính sách hỗ trợ cho đối tượng lao động nông thôn
Tên chính sách
Ngày ban

hành
Mục đích
Nghị định số
127/2008/NĐ-CP của
Chính phủ
12/12/2008
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Bảo hiểm
xã hội về bảo hiểm thất nghiệp.
Quyết định 157/2007/QĐ-
TTg của Thủ tướng Chính
phủ
27/09/2007
Các đối tượng học sinh, sinh viên diện
mồ côi, hộ nghèo, hộ cận nghèo và gia
đình gặp khó khăn về tài chính do
thiên tai, bệnh tật, hỏa hoạn được vay
vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội
để trang trải chi phí học tập (Chương
trình tín dụng cho học sinh, sinh viên).
Thông tư số 04/2009/TT-
BLĐTBXH của Bộ
LĐTB-XH
22/01/2009
Hướng dẫn thi hành một số điều của
Nghị định số 127/2008/NĐ-CP ngày
12/12/2008 của Chính phủ qui định
chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của luật bảo hiểm xã hộ về thất
nghiệp.

Chỉ thị số 41/CT-TW của
Bộ Chính trị
22/9/1998 Về công tác xuất khẩu lao động
(XKLĐ) và chuyên gia
Công văn số
204/SLĐTBXH của Sở
LDTB-XH tỉnh An Giang
15/4/2009
Thu thập thông tin cơ bản về lao động
việc làm của Doanh nghiệp.
Dự án 90/DA.UBND
huyện Tri Tôn 26/6/2009
Về công tác dạy nghề đối với người
Dân tộc Khmer
(Nguồn: Phòng LĐTB&XH huyện Tri Tôn và Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, 2009)
Trước thực trạng trên, ngày 27-11-2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết
định 1956/QÐ-TTg phê duyệt Ðề án "Ðào tạo nghề cho lao động nông thôn
đến năm 2020" (gọi tắt là Ðề án 1956). Ðây là chương trình tổng thể về phát
triển kinh tế - xã hội, chú trọng phát triển nguồn nhân lực ở nông thôn. Đề án
nhằm đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, thúc đẩy đưa công
nghiệp vào nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao
động nông thôn.
Theo lộ trình, Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (từ năm 2009 đến năm 2011) dạy nghề cho khoảng 800.000 người
và thí điểm các mô hình dạy nghề cho lao động nông thôn với khoảng 18.000
người với 50 nghề đào tạo; đặt hàng dạy nghề cho khoảng 12.000 người thuộc
diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh
tác có khó khăn về kinh tế. Tỷ lệ có việc làm sau khi học nghề theo các mô
hình này tối thiểu đạt 80%; Giai đoạn 2 (2011 – 2015) sẽ đào tạo nghề cho 5,2
Trang 19

triệu lao động nông thôn; Giai đoạn 3 (2016 – 2020) sẽ đào tạo cho khoảng 6
triệu lao động nông thôn. Mục tiêu là tỷ lệ lao động nông thôn có việc làm sau
khi được đào tạo tối thiểu phải đạt 70 - 80%.
Chính sách cụ thể như sau: lao động nông thôn thuộc diện được hưởng chính
sách ưu đãi như người có công với Cách mạng, hộ nghèo, người dân tộc thiểu số,
người tàn tật, người bị thu hồi đất canh tác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn
hạn (trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 3 triệu
đồng/người/khóa học; hỗ trợ tiền ăn với mức 15.000 đồng/ngày học/người; hỗ
trợ tiền đi lại theo giá vé giao thông công cộng với mức tối đa không quá
200.000 đồng/người/khoá học đối với người học nghề xa nơi cư trú từ 15 km trở
lên, lao động nông thôn khác được hỗ trợ chi phí học nghề ngắn hạn (trình độ sơ
cấp nghề và dạy nghề dưới 3 tháng) với mức tối đa 2 triệu đồng/người/khóa học.
Ngoài ra Đề án còn tạo điều kiện cho lao động nông thôn học nghề được vay
vốn để học theo quy định hiện hành về tín dụng đối với học sinh, sinh viên. Lao
động nông thôn làm việc ổn định ở nông thôn sau khi học nghề được ngân sách
hỗ trợ 100% lãi suất đối với khoản vay để học nghề và được vay vốn từ Quỹ
quốc gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự
tạo việc làm.
(ii) Dự thảo chiến lược giáo dục 2009 – 2020
(
5)
Giáo dục và đào tạo nhằm góp phần tạo nên một thế hệ người lao động có tri
thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê phán, sáng tạo, có kỹ
năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề nghiệp để làm việc hiệu
quả trong môi trường toàn cầu hóa vừa hợp tác vừa cạnh tranh.
Chất lượng giáo dục còn thấp so với yêu cầu phát triển của đất nước trong thời
kỳ mới. Sự phát triển quy mô giáo dục ở các cấp học, ngành nghề và trình độ
đào tạo trong những năm qua đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân,
nhưng chất lượng giáo dục chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
của đất nước và còn thấp so với trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực

và trên thế giới. Trong giáo dục chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa phát triển
số lượng với nâng cao chất lượng. Trong nhiều năm gần đây, quy mô giáo dục
đại học phát triển, số lượng các trường cao đẳng, đại học tăng mạnh trong khi
các điều kiện về đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất - kỹ thuật nhà trường chưa
phát triển đủ để đảm bảo được chất lượng đào tạo của các cơ sở này.
5)
Tố Như, 2009
Trang 20
Yêu cầu phát triển kinh tế trong thập niên tới không chỉ đòi hỏi số lượng mà
còn đòi hỏi chất lượng cao của nguồn nhân lực. Để tiếp tục tăng trưởng vượt
qua ngưỡng các nước có thu nhập thấp, Việt Nam phải cấu trúc lại nền kinh tế,
phát triển các loại sản phẩm, dịch vụ có giá trị gia tăng và hàm lượng công
nghệ cao. Quá trình này đòi hỏi đất nước phải có đủ nhân lực có trình độ. Mặc
dù 62,7% dân số nước ta trong độ tuổi lao động, nhưng trình độ của lực lượng
lao động này còn thấp so với nhiều nước trong khu vực, cả về kiến thức lẫn kỹ
năng nghề nghiệp. Đất nước còn thiếu nhân lực trình độ cao ở nhiều lĩnh vực.
Cơ cấu đội ngũ lao động qua đào tạo chưa hợp lý. Nhu cầu nhân lực qua đào
tạo ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng với cơ cấu hợp lý tạo nên sức
ép rất lớn đối với giáo dục.
Trước thực trạng trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành “Dự thảo phát triển
giáo dục 2009 – 2020”. Quá trình thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục
2009 - 2020 được chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn một (2009-2010): Điều chỉnh một số chỉ tiêu và tiếp tục
thực hiện Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010. Tập trung vào một số
trọng điểm: Đẩy mạnh cuộc vận động đổi mới phương pháp dạy học; chấn
chỉnh nề nếp và kỷ cương trong các hoạt động giáo dục để xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, cải cách hành chính trong hệ thống quản lý giáo
dục từ trung ương đến địa phương.
- Giai đoạn hai (2011-2015): Triển khai chương trình giáo dục mầm non
mới, chuẩn bị chương trình giáo dục phổ thông mới, đồng thời tăng cường sử

dụng các chương trình đào tạo tiên tiến quốc tế ở các cơ sở đào tạo nghề nghiệp
và đại học. Tổ chức đánh giá quốc gia và tham gia chương trình đánh giá quốc
tế về kết quả học tập. Đổi mới mạnh mẽ công tác đào tạo sư phạm, công tác bồi
dưỡng nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
- Giai đoạn ba (2016-2020): Đẩy mạnh việc xây dựng các trường đại
học đạt tiêu chuẩn quốc tế. Thực hiện những điều chỉnh cần thiết về các mục
tiêu, chỉ tiêu chiến lược và đánh giá kết quả thực hiện chiến lược giáo dục
2.6 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHÍNH SÁCH VÀ CHIẾN
LƯỢC VIỆC LÀM CỦA LAO ĐỘNG NÔNG THÔN
2.6.1 Nhân tố bên ngoài
Trang 21
Môi trường bên ngoài đang thay đổi rất nhanh và thậm chí còn nhanh hơn khi
Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việc Việt Nam gia
nhập WTO chính là sự tiếp nối thành quả của quá trình hội nhập kinh tế quốc
tế, có tác động thúc đẩy nhanh hơn quá trình đổi mới theo hướng kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế.
Mặc dù khi chính thức gia nhập WTO, nước ta chưa phải mở cửa thị trường lao
động do không có điều khoản nào của WTO yêu cầu chúng ta về vấn đề này,
nhưng sự cạnh tranh chắc chắn sẽ tăng lên bởi các gói dịch vụ do các nhà đầu
tư nước ngoài cung cấp có kèm điều kiện sử dụng lao động. Thực tế ở các khu
sản xuất công nghiệp hiện nay, nhất là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài cho thấy, lao động Việt Nam đang phải nhường những vị trí có thu nhập
cao cho người nước ngoài. Lý do là cùng với thu nhập hấp dẫn, cũng đặt ra
những yêu cầu rất cao về trình độ năng lực trong sản xuất trực tiếp cũng như
trong quản lý mà lao động Việt Nam không có khả năng đáp ứng hoặc đáp ứng
ở mức độ quá thấp.
Theo thống kê tại Nhà máy xi măng Nghi Sơn (Thanh Hoá), tổng quỹ lương
của 20 người Nhật bằng tổng quỹ lương của gần 2.000 người Việt Nam đang
làm việc ở đây. Con số này cho thấy, nếu xét về số lượng, đầu tư nước ngoài đã
tạo ra nhiều chỗ làm việc mới, nhưng nhìn vào chất lượng thì sự hưởng lợi của

người lao động Việt Nam từ sự đầu tư này là chưa đáng kể. (Thái Thị Hồng
Minh, 2008).
Để lao động Việt Nam “hội nhập” với thị trường lao động thế giới và giành lợi
thế trên thị trường trong nước không thể chỉ dựa vào đặc tính giá nhân công rẻ
mà phải kèm theo yếu tố chất lượng. Về lâu dài, để thực hiện mục tiêu này,
phát triển giáo dục nói chung được coi là một “Quốc sách”. Tuy nhiên, trước
mắt, để những người trong độ tuổi lao động đang thất nghiệp nhanh chóng đáp
ứng được yêu cầu của thị trường, có được việc làm thì gánh nặng đang đặt lên
vai ngành dạy nghề và các nhà hoạch định chính sách.
2.6.2 Nhân tố bên trong
2.6.2.1 Nhân tố về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Trang 22
Nếu nơi nào có điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên thiên sẵn có phong phú
và đa dạng, nơi đó sẽ thu hút nhiều dự án, nhiều chương trình phát triển kinh tế
- xã hội, và như vậy khu vực này sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để thực thi chính
sách một cách hiệu quả hơn. Ngược lại không có điều kiện tự nhiên thuận lợi
và tài nguyên sẵn có sẽ mất nhiều thời gian và chi phí để thực thi chính sách.
2.6.2.2 Kinh phí thực hiện
Giải quyết việc làm ở nông thôn đang là vấn đề bức xúc và là bài toán khó giải
đối với hầu hết các địa phương. Hiện nay, có một thực trạng là một số địa
phương vẫn coi việc người lao động đi làm ở các tỉnh, thành khác là hướng giải
quyết việc làm và tăng nguồn thu cho gia đình, địa phương.
Tuy nhiên, đây mới chỉ là giải pháp “tình thế”. Về lâu dài, cần phải có giải
pháp để người lao động có việc làm tại địa phương, “ly nông bất ly hương”. Để
làm được điều đó, bên cạnh việc tập trung vốn, đầu tư khoa học - kỹ thuật vào
gieo trồng tăng thu nhập trên một diện tích đất nông nghiệp. Mặt khác cần phải
đầu tư cho bản thân người lao động một trình độ chuyên môn nhất định để có
thể làm việc. Điều này trong dài hạn cần một khoản chi phí lớn mới có thể hoàn
thành được.
2.6.2.3 Nhu cầu của lao động và thị trường lao động

Có thể nói nhu cầu học nghề đang rất lớn nhưng thực tế, nhiều bộ, ngành, các
cấp và cả người lao động cũng chưa nhận thức, chưa thực sự quan tâm tới việc
học nghề. Trong khi đó, các cơ chế, chính sách về dạy nghề ngắn hạn cho lao
động nông thôn chưa được quan tâm đúng mức, dẫn tới sự chồng chéo, kém
hiệu quả và bất cập như bị giới hạn về đối tượng, thời gian đào tạo và mức hỗ
trợ chi phí đào tạo thấp. Cùng với đó là công tác dự báo của thị trường lao động
quá thiếu, không đầy đủ và kịp thời khiến người lao động lúng túng trong việc
lựa chọn nghề, tìm kiếm việc làm sau khi học nghề. Do đó kinh phí đào tạo
nghề từ ngân sách Nhà nước ngày càng tăng nhưng chất lượng chưa được cải
thiện tương xứng.
Đào tạo nhân lực theo nhu cầu của người lao động và doanh nghiệp là vấn đề
hết sức cần thiết trong thực tế hiện nay, nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào
tạo và nhu cầu sử dụng lao động. Đào tạo theo nhu cầu của người học cũng như
các đơn vị tuyển dụng, lao động sau khi học xong nghề đều có việc làm tương
đối ổn định, có cơ hội phát triển nghề nghiệp mà mình đã chọn.
Trang 23
Ngoài ra còn nhiều yếu tố tác động đến chính sách việc làm cho lao động nông
thôn như: cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho công tác dạy và học, đội
ngũ quản lý và giảng viên dạy nghề…
Trang 24
CHƯƠNG 3
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 CƠ SỞ PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
3.1.1 Khái nhiệm chung
 Nông thôn
Nông thôn là một phân hệ xã hội đặc thù với những đặc trưng cơ bản: (i), chủ
thể đại diện của nó là những người nông dân (họ chiếm đa số trong dân số của
tiểu khu vực xã hội này), gắn chặt với hoạt động truyền thống là hoạt động sản
xuất nông nghiệp; (ii), bao gồm những tụ điểm quần cư thường có qui mô nhỏ
về mặt số lượng; (iii), mật độ dân cư thấp; (iv), ở nông thôn có một môi trường

tự nhiên ưu trội; (v), nông thôn có một lối sống đặc thù - lối sống nông thôn;
(vi), có tính cố kết cộng đồng cao; (vii), cung cách ứng xử xã hội nặng về tục lệ
nhiều hơn là tính pháp lý; (viii), văn hóa nông thôn – một loại hình văn hóa đặc
thù mang đậm nét dân gian, nét truyền thống dân tộc. (Tống Văn Chung 2000,
trang 154, Xã hội học nông thôn).
 Lao động nông thôn
Lao động nông thôn là những người thuộc lực lượng lao động và hoạt động
trong lĩnh vực kinh tế nông thôn.(Đinh Quang Thái, 2008).
 Chính sách
Theo Phạm Vân Đình và ctv (2008), Chính Sách Nông Nghiệp cho rằng:
Chính sách là tập hợp các quyết sách của Chính phủ được thể hiện ở hệ thống
qui định trong các văn bản pháp quy nhằm từng bước tháo gỡ những khó khăn
trong thực tiễn, điều khiển nền kinh tế hướng tới những mục tiêu nhất định,
đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
Chính sách được hiểu là phương cách, đường lối hoặc phương hướng dẫn dắt
hành động trong việc phân bổ và sử dụng nguồn lực.
 Chiến lược
Chiến lược là kế hoạch kiểm soát và sử dụng nguồn lực của tổ chức như con
người, tài sản, tài chính… nhằm mục đích nâng cao và bảo đảm những quyền
lợi thiết yếu của mình. Mặt khác, chiến lược là những gì mà một tổ chức phải
Trang 25

×