Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

LỖ TẤN - THÁNH NHÂN SỐ MỘT CỦA TRUNG QUỐC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.08 KB, 5 trang )

Thánh nhân số Một Trung Quốc là ai ?


Trong cuộc tọa đàm tại Vũ Hán ngày 20-11-1971, Mao Trạch Đông từng
nói: “Tôi khuyên các đồng chí nên đọc tạp văn của Lỗ Tấn. Lỗ Tấn là đệ
nhất thánh nhân của Trung Quốc. Thánh nhân số một của Trung Quốc
không phải là Khổng Phu Tử, cũng không phải là tôi; tôi là hiền nhân, là
học trò của thánh nhân.” Tại sao Mao Trạch Đông tôn sùng Lỗ Tấn như
vậy ? Nên xem xét mối quan hệ giữa Mao Trạch Đông với Lỗ Tấn như thế
nào ? – bài này sẽ thử giải đáp vấn đề đó.

“Thánh nhân” vốn là nhân cách lý tưởng mà giới trí thức Trung Quốc (TQ)
thời xưa mưu cầu theo đuổi; Mao Trạch Đông thời kỳ đầu cũng vậy, song
ông có sự lý giải riêng của mình. Đọc sách “Các bài viết của Mao Trạch
Đông thời kỳ đầu” có thể thấy hồi năm 1917 khi đang học ở trường Sư phạm
số 1 Hồ Nam ông đã suy nghĩ vấn đề này. Trong bài “Nghiên cứu thể dục”
ông viết: thánh nhân là nhà tư tưởng lớn nhất. Trong “Thư gửi Lê Cẩm Hy”
ông lại trình bày rõ hơn, cho rằng thánh nhân tức là người có được “đại bản”
(nắm được nguồn gốc chính của sự vật), còn hiền nhân thì thấp một bậc, là
“người có được một chút đại bản”. Vì thánh nhân nắm được chân lý cho nên
có thể “làm lay động lòng thiên hạ”, sinh ra hiệu quả “lay chuyển thiên hạ”.
Hồi đó Mao Trạch Đông cũng như các nhà trí thức khác, nói chung cho rằng
Khổng Tử, Mạnh Tử là thánh nhân. Trong “Phê phán và chú thích Nguyên lý
luân lý học”, Mao Trạch Đông lại viết: thánh nhân hình thành từ sự chống
lại cái đại ác. Các nhận thức ấy của Mao Trạch Đông tuy còn bị giới hạn bởi
truyền thống song đã chứa đựng tinh thần mưu cầu chân lý và tấm lòng cứu
nước cứu dân.

Nhận thức của con người bao giờ cũng thay đổi theo hoàn cảnh khách
quan. Tiếng súng Cách mạng tháng Mười đem lại chân lý chủ nghĩa Mác Lê
cho TQ. Dưới sự cảm hóa và kêu gọi của cuộc cách mạng ấy, Bắc Kinh nổ


ra phong trào Ngũ Tứ. Trước đó, Mao Trạch Đông làm việc ở Thư viện
trường ĐH Bắc Kinh; chịu ảnh hưởng của Lý Đại Chiêu và những người
khác, ông “phát triển theo hướng chủ nghĩa Mác Lê”, vì thế quan niệm thánh
nhân vốn có của ông không thể không thay đổi. Sau đó Mao Trạch Đông trở
về Hồ Nam lãnh đạo phong trào học sinh, làm báo “Tương Giang bình
luận”. Trong bài “Sự thành lập Kiện Học hội”, ông viết: “Những người như
chúng tôi chống Khổng Tử có rất nhiều lý do khác. Riêng việc (Khổng học)
độc quyền bá chiếm TQ, làm cho tư tưởng của chúng tôi không được tự do,
buồn khổ làm nô lệ cho thần tượng này suốt hai nghìn năm, thì cũng đã
không thể không phản đối.” Cùng với sự truyền bá tư tưởng mới, thánh nhân
Khổng Tử theo quan niệm cũ đã lùi vào sau sân khấu lịch sử, song thánh
nhân với tư cách là một nhân cách lý tưởng người đời theo đuổi thì không
thể hoàn toàn bị Mao Trạch Đông vứt bỏ, mà chỉ thay nội hàm. Dưới điều
kiện lịch sử mới, cái gốc chủ yếu (của mọi sự vật) là chủ nghĩa Mác Lê, còn
thánh nhân dĩ nhiên là người nắm được chủ nghĩa đó. Với một người đi theo
con đường cách mạng như Mao Trạch Đông thì những suy nghĩ ấy là kiến
thức hiển nhiên và tất phải thu nhận được.

Hôm giỗ đầu của Lỗ Tấn (19-10-1937), tại Diên An, Mao Trạch Đông đọc
bài diễn thuyết “Bàn về Lỗ Tấn”. Ông nói: “Theo tôi, phải coi Lỗ Tấn là
thánh nhân bậc thứ nhất ở TQ. Khổng Phu Tử là thánh nhân của xã hội
phong kiến, còn Lỗ Tấn là thánh nhân của TQ hiện nay.” Việc suy tôn Lỗ
Tấn làm thánh nhân, xét về “Tinh thần Lỗ Tấn” có nguyên do là “Tư tưởng,
hành động và trước tác của ông đều là chủ nghĩa Mác Lê cả”, cũng tức là
ông nắm được “đại bản đại nguyên”. Đặc điểm đầu tiên của Lỗ Tấn là có
viễn kiến chính trị phù hợp tiêu chuẩn “Thánh nhân thông tỏ trời đất, nhìn
thấu quá khứ, hiện tại, tương lai”. Đặc điểm thứ hai là tinh thần đấu tranh,
đặc điểm thứ ba là tinh thần hy sinh, cũng đều nhất trí với điều kiện xuất
hiện thánh nhân “chống lại cái cực ác mà thành”.


Việc Mao Trạch Đông thời Diên An tôn sùng Lỗ Tấn như thế là có nhiều lý
do.
Trước tiên, sau khi dẫn Hồng quân trung ương làm cuộc Trường chinh
thắng lợi, đến được Thiểm Bắc ít lâu Mao Trạch Đông đã nhận được điện
của Lỗ Tấn và Mao Thuẫn liên danh gửi tới chúc mừng. Trong “Thư trả lời
phái Trotsky”, Lỗ Tấn cũng ba lần nhắc tới Mao Trạch Đông, tỏ ý tán thành
Mặt trận thống nhất dân tộc chống Nhật do Mao Trạch Đông đề xuất. Trong
thư này, ông viết: “Tôi coi việc được làm đồng chí (của Mao Trạch Đông) là
một vinh dự”. Những lời ấy là sự cổ vũ lớn đối với Mao Trạch Đông và
những người cộng sản TQ đang bị Quốc dân đảng bao vây càn quét.

Thứ hai, việc giương cao ngọn cờ lớn văn hóa Lỗ Tấn rõ ràng sẽ tăng được
sức mạnh văn hóa tinh thần của lực lượng bên phía đảng Cộng sản TQ, cũng
tức là tăng sức mạnh chống Quốc dân đảng trên mặt văn hóa. Về sau, trong
bài “Bàn về chủ nghĩa dân chủ mới”, Mao Trạch Đông nói thời kỳ nội chiến
10 năm có “sự thâm nhập cách mạng nông thôn và thâm nhập cách mạng
văn hóa”, “Trong cuộc bao vây càn quét ấy, người cộng sản TQ Lỗ Tấn trở
thành vĩ nhân của cuộc cách mạng văn hóa TQ”. Mao Trạch Đông cũng coi
Lỗ Tấn là đồng chí. Lẽ đương nhiên ông xác lập phương hướng của Lỗ Tấn
là “phương hướng văn hóa mới của dân tộc TQ”. Nhận định tác dụng của Lỗ
Tấn như vậy dĩ nhiên sẽ đi tới sự đánh giá cao và lại rất công bằng “Lỗ Tấn
là chủ tướng của cách mạng văn hóa TQ, ông không những là nhà văn vĩ đại
mà còn là nhà tư tưởng vĩ đại và nhà cách mạng vĩ đại”.

Một điểm rất quan trọng nữa là các bài viết của Lỗ Tấn đã thuyết phục
được Mao Trạch Đông, một đại gia viết lách có cách đánh giá độc đáo đối
với Lỗ Tấn. Nói chung người bình thường đều hiểu được giá trị văn học của
tiểu thuyết, tản văn, thơ thể cũ của Lỗ Tấn; nhưng e rằng các nhà bình luận
văn nghệ nói chung rất khó hiểu được giá trị chủ nghĩa Mác Lê thể hiện
trong các bài tạp văn của ông, nhất là tạp văn thời kỳ cuối. Cần thừa nhận ý

nghĩa khai sáng của việc Mao Trạch Đông tôn sùng các bài tạp văn thời kỳ
cuối của Lỗ Tấn. Có lẽ chính vì thế mà Mao Trạch Đông đặc biệt coi trọng
chủ trương sáng tác của Lỗ Tấn. Thời gian Chỉnh phong Diên An 1942,
trong các báo cáo “Chống đảng bát cổ” (bát cổ: lối văn khuôn sáo), Mao
Trạch Đông nhiều lần nhắc tới Lỗ Tấn; trong 4 bài viết ông đề nghị mọi
người phải đọc thì bài của Lỗ Tấn được xếp sau bài của Lê Nin và Dimitrov,
trước bài của Mao Trạch Đông; đồng thời ông có giải thích tỉ mỉ. Qua đó có
thể thấy ông giới thiệu Lỗ Tấn với toàn Đảng CSTQ như một bậc thầy.

Thời gian từ mùa xuân năm 1956 tới mùa xuân năm 1957, trong các bài nói
với giới văn hóa hoặc nói trong nội bộ Đảng xung quanh việc quán triệt
phương châm “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua tiếng”, Mao Trạch Đông
nhiều lần nhắc tới Lỗ Tấn. Ngày 8-3-1957, khi nói chuyện với giới văn hóa,
ông giả thiết trường hợp Lỗ Tấn bây giờ còn sống: “Theo tôi, nếu Lỗ Tấn
vẫn còn thì ông sẽ viết tạp văn, chứ tiểu thuyết thì có lẽ không viết nổi nữa;
chắc ông sẽ là chủ tịch Hội Nhà văn; lúc họp hành ông sẽ phát biểu; nếu ông
mà nói hoặc viết thì sẽ giải quyết được 33 vấn đề ta đang bàn. Ông ấy nhất
định có ý kiến để nói, nhất định sẽ phát biểu, hơn nữa sẽ nói rất dũng cảm.”
Trên thực tế, thời kỳ ấy Mao Trạch Đông coi Lỗ Tấn là tấm gương của các
nhà văn ưu tú mà nước TQ mới nên có.

Khi nói chuyện với giới âm nhạc về vấn đề dân tộc hóa nghệ thuật, ông nói:
“Tiểu thuyết của Lỗ Tấn vừa khác với nước ngoài vừa khác với tiểu thuyết
TQ thời xưa; đó là tiểu thuyết của TQ hiện đại”, đã đân tộc hóa. Mao Trạch
Đông còn vạch ra sự thiếu chính xác trong quan điểm của Lỗ Tấn về Kinh
kịch. Nhưng đề tài ông nói nhiều nhất vẫn là tạp văn thời kỳ cuối của Lỗ
Tấn. Ông nói “Tạp văn ấy có sức mạnh là nhờ có thế giới quan chủ nghĩa
Mác.” Khi tiếp các đại diện của giới xuất bản, ông nói: “Tôi muốn đưa Lỗ
Tấn ra để các đồng chí học hỏi ông.” Tại hội nghị công tác tuyên truyền toàn
quốc, khi bàn về biện pháp tránh tính phiến diện, Mao Trạch Đông nói: “Các

bài tạp văn thời kỳ cuối của Lỗ Tấn có sức mạnh sâu sắc nhất, không có tính
phiến diện; đó là vì khi ấy Lỗ Tấn đã nắm được phép biện chứng”, đồng thời
ông còn nhắc tới việc một số bài viết của Lê Nin cũng có thể gọi là tạp văn,
tức coi Lỗ Tấn ngang với Lê Nin.

Ngày 8-7-1966, trong bức thư viết từ hang Giọt Nước ở Thiệu Sơn, Mao
Trạch Đông viết: “Nguyễn Tịch người triều đại Tấn chống lại Lưu Bang,
ông đi từ Lạc Dương đến Thành Cao, than rằng: thế gian này không có anh
hùng, khiến cho thằng đầy tớ nhóc ấy (tức Lưu Bang) thành danh. Lỗ Tấn
cũng từng nói như thế về tạp văn của mình. Trái tim tôi hòa với trái tim Lỗ
Tấn.” Điều đó cho thấy Mao Trạch Đông coi Lỗ Tấn là bạn tri âm của mình.,
vì thế ông lại nói: “Tôi thích tính thẳng thắn của Lỗ Tấn. Ông nói, tự mổ xẻ
mình thường là nghiêm nhặt hơn mổ xẻ người khác. Sau khi vấp ngã vài lần,
tôi cũng thường như vậy.” Rõ ràng địa vị của Lỗ Tấn đã được nâng cao
trong con mắt của Mao Trạch Đông.

Mao Trạch Đông cuối đời vẫn ưa “đọc Lỗ Tấn”, niềm thích thú ấy không
giảm đi do ốm yếu bệnh tật mà ngược lại càng tăng lên. Khi cân nhắc vấn đề
sử dụng một số lượng lớn cán bộ cũ, ông từng nói: phải đả phá tư tưởng sai
lầm siêu hình “vàng phải là vàng mười, người phải là người hoàn hảo”, chắc
là ông đã mượn cách nói của Lỗ Tấn trong bài “Chuẩn phong nguyệt đàm -
về vấn đề phiên dịch (hạ)”. Mao Trạch Đông còn kêu gọi cán bộ các cấp hãy
“đọc một chút Lỗ Tấn”.

Mao Trạch Đông luôn tôn sùng Lỗ Tấn, cho dù nguyên nhân và dụng ý của
việc ấy trong các thời kỳ lịch sử khác nhau thì khác nhau * nhưng tư tưởng
tôn sùng Lỗ Tấn thì trước sau vẫn thế. Trong sách “Văn nhân Mao Trạch
Đông”, khi bàn tới vấn đề này Trần Tấn có viết một câu: “Tâm hồn tương
thông mà chưa gặp nhau bao giờ thì có lẽ càng tăng thêm sức quyến rũ với
đối phương”. Câu này rất có ý vị sâu xa. /.



Các ghi chú trong ngoặc đơn và ở cuối bài là của người dịch.
* Sau giải phóng, có lần Mao nói đại ý Lỗ Tấn bây giờ mà còn thì không bị
tù cũng bị quy là phái hữu. Điều đó chứng tỏ Mao nhìn thấy bản chất của Lỗ
Tấn là yêu tự do dân chủ, chống đối chuyên chế.
Nguồn: CCTV.com 2007.09.14
来源:中来来

×