ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
&0&
Môn: Kỹ Thuật Trồng Trọt
GVHD: Nguyễn Thị Cách
BÀI TẬP NHÓM
Chủ Đề:
Nhóm Thực Hiện: (N2)
1. Phan Thanh Huấn
2. Phan Hành
3. Nguyễn Thị Diễm
Hồng
4. Doãn Thị Hồng
5. Ngô Quang Hưng
6. Nguyễn Thị Hương
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
&0&
Môn: Kỹ Thuật Trồng Trọt
GVHD: Nguyễn Thị Cách
BÀI TẬP NHÓM
Chủ Đề:
Nhóm Thực Hiện: (N2)
1.Phan Thanh Huấn
2.Phan Hành
3.Nguyễn Thị Diễm Hồng
4.Doãn Thị Hồng
5.Ngô Quang Hưng
6.Nguyễn Thị Hương
NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
II.GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÂY CÀ PHÊ
1.Nguồn gốc,xuất sứ và lịch sử phát triển cây cà phê ở Việt nam
2.Một số giống cà phê phổ biến ở Việt Nam
III. NGUYÊN LÝ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM SINH
TRƯỞNG CỦA CÂY CÀ PHÊ
1.Cấu tạo chung của cây cà phê.
2.Đặc điểm về sinh lý và thực vật của cây cà phê.
3.Các yếu tố tác động đến sự sinh trưởng và phát triển của cây cà phê.
IV. KỸ THUẬT SẢN XUẤT CÂY CÀ PHÊ
1. Kỹ thuật trồng và chăm sóc
Chọn cây con
Làm đất
Cách trồng
Quy trình chăm sóc cây cà phê
……
2. Kỹ thuật sản xuất cà phê ở Đăklăk
V. HƯỚNG PHÁT TRIỂN
VI.KẾT LUẬN
I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Nước ta là một nước thuộc vùng nhiệt đới rất thuận lợi để phát triển
cây cà phê, vả lại giá cà phê liên tục tăng trong những năm qua nên nhiều
diện tích đất được chuyển đổi để trồng cây cà phê làm sản lượng cà phê ở
nước ta tăng lên rất lớn.
Trong những năm vừa qua, sản xuất cà phê của Việt Nam được coi là
nước thuộc nhóm các nước sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Đến nay, sản
phẩm cà phê nhân đã xuất sang 71 quốc gia và vùng lãnh thổ; trong đó, đặc
biệt nhất là việc một số nước sản xuất cà phê tương đối lớn ở Mỹ Latinh như
Ecuador, Mexico, Pêru, Nicaragua , cũng đã mua sản phẩm của Việt Nam
[20]. Theo thống kê của Hiệp hội Cà phê - Ca cao Việt Nam (Vicofa) : Kim
ngạch xuất khẩu cà phê nước ta gần 1 tỷ USD/niên vụ và sẽ vượt ngưỡng 1
tỷ USD.
Điều đó khẳng định rằng nếu cây cà phê được quan tâm, phát triển đúng
hướng thì sẽ tạo ra một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước. Nhận thấy
tầm quan trọng này chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài:
II.GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC VỀ CÂY CÀ PHÊ
1.Nguồn gốc,xuất sứ và lịch sử phát triển cây cà phê ở Việt nam :
Cà phê - loài cây bắt nguồn từ Ethiopia
Cây cà phê được đưa vào trồng ở Việt Nam từ năm 1870, trước hết là ở
một số nhà thờ tại Hà Nam, Quảng Bình, Kontum Song mãi tới đầu thế kỷ
hai mươi trở đi thì cây cà phê mới được trồng trên quy mô tương đối lớn của
các chủ đồn điền người Pháp tại
Phủ Quỳ - Nghệ An và sau đó là ở
Đắc Lắc và Lâm Đồng, nhưng
tổng diện tích không quá vài ngàn
hecta. Sau cách mạng tháng 8, diện
tích cà phê ở miền Bắc được phát
triển thêm tại một số nông trường
quốc doanh và thời kỳ có diện tích
cao nhất là trên 10.000 HA VÀO
NẮM 1963 - 1964. ở miền Nam
trước ngày giải phóng, vào năm 1975 diện tích cà phê có khoảng 10.000 ha.
Tại Đắc Lắc có khoảng 7.000 ha, Lâm Đồng 1.700 ha và Đồng Nai 1.100 ha.
Cà phê trồng ở miền Bắc trong những năm trước đây chủ yếu là cà phê chè
(Coffea arabica), năng suất thường đạt từ 400 - 600 kg/ha, có một số điển
hình thâm canh tốt đã đạt trên 1 tấn/ha. Hạn chế lớn nhất đối với việc trồng
cà phê chè ở miền Bắc là tác hại của sâu bệnh. Sâu đục thân (Xylotrechus
quadripes) và bệnh gỉ sắt cà phê (Hemileia vastatrix), là hai đối tượng sâu
bệnh hại nguy hiểm nhất. Do điều kiện sinh thái không phù hợp, đặc biệt là
có một mùa đông giá lạnh kéo dài, vì vậy cây cà phê vối khó có khả năng
phát triển ở miền Bắc, nhiều vùng đã trồng cà phê vối sau phải hủy bỏ vì
kém hiệu quả.
2.Một số giống cà phê phổ biến ở Việt Nam
Có ba loại gống cà phê:
Cà phê chè: Coffea arabica L.
Cà phê vối: Coffea canephora.
Cà phê mít: Coffea excelsa
Mỗi giống có nhiều chủng loại khác nhau như trong cà phê chè có các
chủng: Typica, Bourbon, Moka, Mundonovo, Caturra, Catuai, Catimor.v.v
Trong cà phê vối có rất nhiều chủng loại khác nhau về kích thước lá, độ gợn
sóng của phiến lá, màu sắc lá và quả, hình dạng quả, song chủng loại được
trồng rất phổ biến ở nhiều nước là Robusta. Đặc trưng của cà phê Typica là
đọt non có màu nâu tím, còn các chủng khác như Bourbon, Mundonovo thì
đọt non có màu xanh. Tùy theo từng giống mà chúng đòi hỏi các điều kiện
ngoại cảnh khác nhau, cho nên việc bố trí cơ cấu giống vào trồng trong một
vùng phải dựa trên các yêu cầu riêng của chúng. Có như vậy mới phát huy
được hiệu quả của từng giống.
III.NGUYÊN LÝ VÀ CÁC ĐẶC ĐIỂM SINH TRƯỞNG CỦA CÂY CÀ
PHÊ
1.Cấu tạo chung của cây cà phê.
Cà phê là tên một chi thực vật thuộc họ Thiến thảo (Rubiaceae). Họ này bao
gồm khoảng 500 chi khác nhau với trên 6.000 loài cây nhiệt đới.
Chi cà phê bao gồm nhiều loài cây lâu năm khác nhau. Tuy nhiên, không
phải loài nào cũng chứa caffein trong hạt, một số loài khác xa với những cây
cà phê ta thường thấy.
Cấu tạo của một cây cà phê
Nó là 1 cây bụi luôn xanh hoặc cây nhỏ có thể cao lên tới 5m (16 ft) khi
chưa được tỉa bớt.
Lá của nó màu xanh đậm và bóng lóang, thường dài 10-15 cm (3.9-5.9 in) và
rộng 6.0 cm (2.4 in).
Nó phát ra những bó thơm ngát, trong khi những bông hoa trắng nở ra cùng
một lúc.
Trái của cây hình oval, dài khỏang 1.5 cm, và có màu xanh lá khi chưa chín
muồi, nhưng chín dần thành màu vàng, sau đó đỏ thắm và trở thành đen lại.
Mỗi trái thường có 2 hạt nhưng đến 5-10% trái chỉ có 1; nó được gọi là
peaberry. Trái nở từ 7-9 tháng.
Thân
Cây cà phê chè có thể cao tới 6 m, cà
phê vối tới 10 m. Tuy nhiên ở các trang
trại cà phê người ta thường phải cắt tỉa để
giữ được độ cao từ 2-4 m, thuận lợi cho
việc thu hoạch. Cây cà phê có cành thon
dài, lá cuống ngắn, xanh đậm, hình oval.
Mặt trên lá có màu xanh thẫm, mặt dưới
xanh nhạt hơn. Chiều dài của lá khoảng
8-15 cm, rộng 4-6 cm. Rễ cây cà phê là
loại rễ cọc, cắm sâu vào lòng đất từ 1 đến
2,5 m với rất nhiều rễ phụ tỏa ra xung
quanh làm nhiệm vụ hút chất dinh dưỡng
nuôi cây.
Hoa
Hoa cà phê
Hoa cà phê màu trắng, có năm
cánh, thường nở thành chùm đôi
hoặc chùm ba. Màu hoa và hương
hoa dễ làm ta liên tưởng tới hoa
nhài. Hoa chỉ nở trong vòng 3 đến
4 ngày và thời gian thụ phấn chỉ
vài ba tiếng. Một cây cà phê
trưởng thành có từ 30.000 đến
40.000 bông hoa.
Ngay từ khi cây cà phê ra hoa kết
quả người ta đã có những đánh giá
đầu tiên về vụ mùa cà phê. Ở các nước sản xuất cà phê lớn điều này đặc biệt
quan trọng trong việc đưa ra những nhận định về giá cả và thị trường. Tuy
vậy những đợt rét đậm hoặc hạn hán có thể làm đảo lộn mọi sự tính toán và
đẩy thị trường vào tình thế hoàn toàn khác.
Quả
Cà phê là loài cây tự thụ
phấn, do đó gió và côn trùng
có ảnh hưởng lớn tới quá
trình sinh sản của cây. Sau
khi thụ phấn từ 7 đến 9
tháng cây sẽ cho quả hình
bầu dục, bề ngoài giống như
quả anh đào. Trong thời
gian chín, màu sắc của quả
thay đổi từ xanh sang vàng
rồi cuối cùng là đỏ. Quả có
màu đen khi đã chín nẫu. Do
thời gian đâm hoa kết trái
lâu như vậy mà một vụ cà phê kéo dài gần một năm trời và có thể xảy ra
trường hợp trên một cây vừa có hoa, vừa có quả.
Thông thường một quả cà phê chứa hai hạt. Chúng được bao bọc bởi
lớp thịt quả bên ngoài. Hai hạt cà phê nằm ép sát vào nhau. Mặt tiếp xúc
giữa chúng là mặt phẳng, mặt hướng ra bên ngoài có hình vòng cung. Mỗi
hạt còn được bảo vệ bởi hai lớp màng mỏng: một lớp màu trắng, bám chặt
lấy vỏ hạt; một lớp màu vàng rời rạc hơn bọc ở bên ngoài. Hạt có thể có
hình tròn hoặc dài, lúc còn tươi có màu xám vàng, xám xanh hoặc xanh.
Thỉnh thoảng cũng gặp nhưng quả chỉ có một hạt (do chỉ có một nhân
hoặc do hai hạt bị dính lại thành một).
- Cấu tạo của quả: cấu tạo của một quả cà phê bao gồm các bộ phận
sau đây: (hình 1)
Hình 1: Cấu tạo quả cà phê.
Thời gian mang quả trên cây từ lúc bắt đầu hình thành quả non đến
khi quả chín:
+ Cà phê chè: từ 7 - 8 tháng.
+ Cà phê vối: từ 9 - 10 tháng.
2.Đặc điểm về sinh lý và thực vật của cây cà phê.
Yêu cầu sinh thái
- Phạm vi nhiệt độ biến động từ 15 - 30oC, nhưng lý tưởng nhất có nhiệt độ
trung bình từ 19 - 24oC
- Có lượng mưa năm từ 1500 - 2000mm
- Độ cao so với mặt biển từ 800 - 2500m, có một mùa khô hạn nhẹ kéo dài
từ 2 - 3 tháng
- Ưa ánh sáng tán xạ, có cây che bóng.
Một số đặc điểm sinh thái của cây cà phê
- Nở hoa: Thường cuối vụ thu hoạch cây đã có quá trình phân hóa
mầm non. Mầm hoa tiếp tục phát triển vào sau vụ thu hoạch. Nếu mầm
hoa phát triển đã hoàn chỉnh (dạng mỏ sẻ) khi được tưới nước hay có
lượng mưa trên dưới 15 mm thì sau đó 5 - 7 ngày hoa sẽ nở, thời gian này
có thể dài hơn nếu trước đó hoa chưa phát triển đầy đủ. Cà phê chè tự thụ
phấn (trên dưới 90%) còn cà phê vối thì thụ phấn chéo (dị hoa thụ phấn).
Do đặc điểm thụ phấn chéo của cà phê vối vì vậy khi chúng ta sử dụng hạt
cà phê vối để làm giống thì khó tạo ra một vườn cà phê thuần chủng.
Ngày nay một số nước đã trồng cà phê vối bằng các cành giâm thông qua
biện pháp nhân giống vô tính. Ưu điểm của nhân giống vô tính là tạo ra
các vườn cà phê vối thuần chủng, mang các đặc điểm tốt của các cây mẹ
đã được chọn lọc như: năng suất cao, phẩm chất tốt, cỡ hạt to, chịu hạn,
chống chịu sâu bệnh Ở nước ta biện pháp này đang được thử nghiệm
trên diện tích rộng trong sản xuất.
- Nảy mầm của hạt: Hạt giống sau khi chế biến nếu được ngâm cho
bão hòa nước (từ 20 - 24 giờ) sau đem ủ giữ nhiệt độ từ 30 - 32
o
C thì sau
đó từ 3 - 5 ngày đã nhú mầm khi để cả vỏ trấu hoặc bóc vỏ trấu. Nếu bóc
vỏ trấu thì thời gian nảy mầm nhanh hơn so với không bóc vỏ.
- Độ ẩm cây héo của cây cà phê:
Độ ẩm cây héo của cây cà phê là giới hạn độ ẩm trong đất, cây không
còn khả năng hút được nước đưa đến hiện tượng làm cho cây cà phê bị
héo.
* Độ ẩm cây héo đối với cây cà phê con trong vườn ương 26 - 27%.
* Độ ẩm cây héo đối với cây cà phê tuổi kinh doanh: 28 - 30%.
* Giới hạn độ ẩm trong đất cần phải tưới nước cho cà phê tuổi kinh
doanh: 30 - 34%.
- Phân bố tầng rễ: Bề mặt
của bộ rễ nói chung phát triển ra
tới mép ngoài của tán lá. Lượng
rễ phát triển tập trung chủ yếu ở
tầng đất canh tác sâu từ 0 - 30
cm, chiếm tới 85% trọng lượng
và thể tích của bộ rễ. Rễ cọc (rễ
chính) có khả năng xuyên sâu tới
trên dưới một mét, cà phê mít rễ
cọc có khả năng xuống sâu hơn.
Sự phát triển và phân bố của bộ
rễ cà phê có quan hệ tới kỹ thuật
trồng mới (trồng âm để đưa bộ rễ xuống sâu dưới mặt đất tránh vùng khô
hạn ở lớp đất mặt), kỹ thuật bón phân (bón phân theo mép ngoài của tán,
kỹ thuật tủ gốc giữ ẩm và tưới nước).
- Sự phát triển cành lá:
Trong điều kiện thích hợp để phát triển được thêm một cặp cành hay
một đôi lá phải cần một thời gian từ 25 - 30 ngày. Cây con sau khi trồng
được một năm có khả năng phát triển từ 12 - 14 cặp cành, sau khi trồng
18 tháng cây đã đủ chiều cao để hãm ngọn (những nơi chăm sóc tốt khả
năng sinh trưởng này còn lớn hơn). Sự ra cành của cà phê trên thân theo
quy luật đối xứng (mỗi một đốt có một cặp cành đối xứng ) cá biệt có
những chủng cà phê chè tại một đốt trên thân cho ba cành phân bố đều
quanh thân.
Tùy theo từng chủng, từng vùng sinh thái mà trên cành cấp một có
phát triển các cành cấp hai. Nếu được cắt tỉa hợp lý thì cây cà phê vối có
nhiều hệ cành quả thứ cấp. Cấu tạo của một cây cà phê có những bộ phận
chủ yếu sau đây (hình 2):
Cành cấp một mọc trực tiếp từ
thân, thường thẳng góc với thân hoặc
tạo thành một góc nhỏ hơn 90
0
tùy
từng giống và chủng cà phê. Các cành
thứ cấp phát triển trên cành cấp 1,
cành cấp 2, cấp 3, cấp 4 v.v Chồi
vượt được mọc từ thân và song song
với thân. Nếu uốn thân cũng tạo thành
các chồi vượt mọc thẳng góc với thân.
Hình 2: Sự phân bố các loại cành
của cây cà phê
Từ các chồi vượt có thể giữ lại để tạo thành các thân mới trong kỹ
thuật nuôi nhiều thân trên một gốc hay một thân bổ sung thay thế các chồi
cũ già cỗi. việc nắm chắc quy luật ra cành của cà phê có một ý nghĩa đặc
biệt để điều khiển chúng phục vụ cho kỹ thuật tạo hình. Trong thực tế ở
Việt Nam, cà phê vối có khả năng phát triển tới cành cấp 8 (hình 3).
Cần chú ý tới quy luật ra quả của cà phê vối khác với cà phê chè. Các
đốt của cà phê vối sau khi đã ra quả thì năm sau ở các đốt đó không còn
có hoa, quả nữa. ngược lại ở cà phê chè tại những đốt đã cho quả năm
trước thì năm sau lại tiếp tục cho hoa quả (hiện tượng lại hoa trên đốt cũ).
Nắm được quy luật này để có biện pháp cắt tỉa, điều khiển sự phát triển
cành quả thứ cấp của cà phê vối từ trên những cành đã cho quả từ những
năm trước.
3.Các yếu tố tác động đến sự sinh trưởng và phát triển của cây cà phê.
Đất đai
Cà phê có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau, trong đó đất ba-zan
là một trong những loại đất lý tưởng để trồng cà phê, vì các đặc điểm
lý hóa tính tốt, và tầng dày của loại đất này. Yêu cầu cơ bản của đất
trồng cà phê là có tầng sâu từ 70 cm trở lên, có độ thoát nước tốt
(không bị úng, lầy). Các loại đất thường thấy ở Việt Nam ở trên các
vùng cao như granit, sa phiến thạch, phù sa cổ, gờ nai, đá vôi, dốc tụ
đều trồng được cà phê. Ở cà phê vườn có khả năng trồng được cả ở
nơi có đá lộ đầu, ở những nơi đất dốc vẫn trồng được cà phê nếu làm
tốt công trình chống xói mòn. Dù trồng ở trên loại đất nào nhưng vai
trò của con người có tính quyết định trong việc duy trì, bảo vệ nâng
cao độ phì nhiêu của đất. Ngay cả trên đất ba-zan, nếu cà phê không
được chăm sóc tốt vẫn dẫn tới hiện tượng cây mọc còi cọc, năng suất
thấp. Ngược lại ở những nơi không phải là đất ba-zan nếu đảm bảo
được đủ lượng phân hữu cơ, vô cơ, giải quyết tốt cây đậu đỗ, phân
xanh trồng xen, tủ gốc tốt cùng các biện pháp thâm canh tổng hợp
khác như tưới nước vẫn có khả năng tạo nên các vườn cà phê có năng
suất cao.
Khí hậu
Không phải vùng nào ở trên trái đất cũng trồng được cà phê. Ngoài
yếu tố đất đai, cây cà phê còn đòi hỏi một số yêu cầu về nhiệt độ, ẩm
độ, lượng mưa, ánh sáng, gió. Vì vậy, khi chọn vùng trồng cà phê phải
chú ý tới các yếu tố rất quan trọng này.
- Nhiệt độ: Nói chung trong phạm vi nhiệt độ tương đối rộng từ 50C
đến 320C cây cà phê vẫn có khả năng tồn tại, sinh trưởng và phát
triển. Song phạm vi nhiệt độ phù hợp đối với từng giống cà phê có
khác nhau.
- Cà phê ưa nơi mát và hơi lạnh. Phạm vi thích hợp từ 180C - 250C,
thích hợp nhất từ 20 - 220C. Do yêu cầu về nhiệt độ như vậy nên cà
phê chè thường được trồng ở miền núi có độ cao từ 600 - 2.500 m
(nguyên quán cà phê chè là ở Ethiopie nơi có độ cao trên dưới 2.000
m). Các nước trồng cà phê chè có phẩm vị thơm ngon như: Kenya,
Tanzania, Ethiopie, Côlombia thường được trồng ở nơi có độ cao từ
800 m trở lên. Ngược lại cà phê vối thích ở nơi nóng ẩm. Phạm vi
nhiệt độ thích hợp từ 22 - 260C, song giới hạn nhiệt độ thích hợp nhất
từ 24 - 260C. Nhiệt độ giảm xuống tới 00C làm thui cháy các đọt non,
nếu kéo dài làm cháy cả lá già đặc biệt là vùng hay xuất hiện sương
muối. Gió rét và gió nóng đều bất lợi đối với sinh trưởng của cây cà
phê.
- Lượng mưa:
Lượng mưa cần thiết đối với cây cà phê chè thường 1.300 mm - 1.900 mm,
còn đối với cà phê vối cần từ 1.300 - 2.500 mm. Nếu lượng mưa được phân
bổ tương đối đều trong năm có một mùa khô hạn ngắn vào cuối và sau vụ
thu hoạch, nhiệt độ thấp thì thuận lợi cho quá trình phân hóa mầm hoa của
cây cà phê. Đối với cà phê mít có yêu cầu về nhiệt độ và lượng mưa tương
tự như cà phê vối. Song cây cà phê mít có bộ rễ ăn sâu, vì vậy có thể trồng ở
những nơi có lượng mưa ít hơn.
Nhìn chung, ở nước ta lượng mưa phân bố không đều. Lượng mưa tập trung
khoảng 70 - 80% vào trong mùa mưa gây ra hiện tượng thừa nước. Mùa khô
thường kéo dài từ 3 - 5 tháng, nhưng lượng nước mưa chỉ chiếm từ 20 -
30%, do vậy có nhiều nơi cây cà phê thiếu nước nghiêm trọng đặc biệt là các
tỉnh ở Tây Nguyên và miền Đông Nam Bộ. Để khắc phục hiện tượng này,
vấn đề tủ gốc giữ ẩm, đai rừng phòng hộ, cây che bóng và tưới nước có một
ý nghĩa quan trọng.
- Ấm độ:
Ẩm độ của không khí phải trên 70% mới thuận lợi cho sinh trưởng và phát
triển của cây cà phê. Đặc biệt là giai đoạn cà phê nở hoa cần phải có ẩm độ
cao, do đó tưới nước bằng biện pháp phun mưa rất thích hợp cho quá trình
nở hoa của cà phê. Ẩm độ quá thấp cộng với điều kiện khô hạn, nhiệt độ cao
dẫn tới hậu quả làm cho các mầm, nụ hoa bị thui, quả non bị rụng.
- Ánh sáng:
Cà phê chè là loại cây thích ánh sáng tán xạ (nguồn gốc mọc trong rừng
thưa tại châu Phi), ánh sáng trực xạ làm cho cây bị kích thích ra hoa quá độ
dẫn tới hiện tượng khô cành, khô quả, vườn cây xuống dốc nhanh, ánh sáng
tán xạ có tác dụng điều hòa sự ra hoa, phù hợp với cơ chế quang hợp tạo
thành và tích lũy chất hữu cơ có lợi cho cây cà phê, giữ cho vườn cây lâu
bền, năng suất ổn định. Cà phê vối là cây thích ánh sáng trực xạ yếu (nguyên
quán cà phê vối mọc rải rác ven bìa RỪNG Ở CHẤU PHI). Ở những nơi có
ánh sáng trực xạ với cường độ mạnh thì cây cà phê vối cần lượng cây che
bóng để điều hòa ánh sáng, điều hòa quá trình quang hợp của vườn cây.
- Gió:
Gió lạnh, gió nóng, gió khô đều có hại đến sinh trưởng của cây cà phê. Gió
quá mạnh làm cho lá bị rách, rụng lá, các lá non bị thui đen, gió nóng làm
cho lá bị khô héo. Gió làm tăng nhanh quá trình bốc thoát hơi nước của cây
và đất đặc biệt là trong mùa khô. Vì vậy cần giải quyết trồng tốt hệ đai rừng
chắn gió chính và phụ; cây che bóng để hạn chế tác hại của gió. Đai rừng
chắn gió và cây che bóng còn có tác dụng hạn chế hình thành và tác hại của
sương muối, ở những vùng có gió nóng, đai rừng còn có tác dụng điều hòa
nhiệt độ trong lô trồng.
IV. KỸ THUẬT SẢN XUẤT CÂY CÀ PHÊ
Kỹ thuật trồng và chăm sóc
Chọn cây con
Chỉ tiêu sinh trưởng Cà phê
vối
Cà phê chè
Giống thấp
cây (1)
Giống cao
cây (2)
- Tuổi cây (tháng) 6 - 7 6 - 7 6 - 7
- Chiều cao (cm) Trên 25 Trên 20 Trên 25
- Số cặp lá thật - 5 - 5 - 5
- Đường kính gốc
(mm)
- 4 - 3 - 3
- Sâu bệnh Không Không Không
- Dị hình - - -
Đất trồng cà phê
Cà phê là loại cây công nghiệp lâu năm, có bộ rễ ăn sâu tới trên 1 m, vì vậy
phải chọn các loại đất sau đây :
- Có tầng đất sâu từ 70 cm trở lên
- Đất có cấu tượng tốt, tơi xốp, giàu chất hữu cơ
- Không bị úng nước trong mùa mưa (thoát nước tốt)
- Các loại đất thuộc nhóm đất đỏ như đất bazan là loại đất rất quý để trồng
cà phê. ở Việt Nam loại đất này có nhiều nhất ở các tỉnh Tây nguyên, mièn
Đông Nam bộ, Quảng Trị, Nghệ An, . . .
- Ngoài đất bazan ra còn nhiều loại đất khác có khả năng trồng cà phê như :
đất phù sa cổ, đất dốc tụ, đất sa phiến thạch, đất đá vôi, . . . miễn là chúng có
các đặc điểm đã nêu ở trên và có điều kiện sinh thái phù hợp (chế độ mưa,
chế độ nhiệt, . .).
- Hàm lượng chất hữu cơ trong đất có từ 3% trở lên (đối với đất đỏ bazan) và
trên 2,5% đối với các loại đất khác là phù hợp đối với cà phê.
Mật độ, khoảng cách trồng
- Ở những nơi đất không có độ phì cao thì trồng với mật độ 6666 cây/ha,
tương ứng với khoảng cách : hàng cách hàng : 1,5 m, cây cách cây : 1m
- ở những nơi đất tốt trồng với mật độ 3333 cây/ha, tương ứng với khoảng
cách : hàng cách hàng : 2 m, cây cách cây : 1,5m
- ở những nơi đất trung bình có thể trồng với mật độ 5000 cây/ha : hàng
cách hàng : 2 m, cây cách cây : 1 m
- Khi trồng mới chỉ trồng 1 cây/hố, sau đó có thể nuôi thêm 1 đến 2 thân
mới để có từ 2-3 thân/hố.
- Để có năng suất cao giống cà phê Catimor chỉ hãm ngọn ở chiều cao
1,8m hoặc không hãm ngọn.
Làm đất
Cà phê là một cây công nghiệp lâu năm, có bộ rễ ăn sâu vì vậy công
tác khai hoang làm đất phải được thực
hiện một cách chu đáo.
Sau khi đã khai hoang giải phóng
mặt bằng, dùng cày một lưỡi cày sâu
Giống cà phê Khoảng cách (m) Mật độ (hố/ha) Số
cây
Catimor 2 x 1,5 3.300 1
Catimor 2 x 10 5.000 1
Catimor 1,8 x 1,2 4.600 1
Cà phê chè cao
cây
3 x 2,0 1.330 1
(Typica, Bourbon) 3 x 2,0 1.660 1
Cà phê vối 3 x 2,5 1.330 1 - 2
3 x 3 1.110 1 - 2
Cà phê mít 4 x 3 830 1
lật đất từ 40 - 50 cm. Vườn cà phê phải thiết kế hoàn chỉnh ngay từ đầu
đảm bảo các yêu cầu sau đây:
+ Đảm bảo cho việc bảo vệ đất, chống xói mòn.
+ Đảm bảo cho vấn đề cơ giới hóa trong các khâu cày, bừa, chăm sóc,
phát cỏ, vận chuyển, tưới nước, phun thuốc trừ sâu bệnh và cỏ dại.
+ Đảm bảo cho việc thâm canh tăng năng suất, hạn chế những yếu tố
bất thuận của tự nhiên như: gió, rét, nóng, hạn
Quy trình chăm sóc cây cà phê
Che túp: Tác dụng của che túp là để chống gió, chống rét, chống
hạn . Ở những nơi sau thời gian trồng mới thường có tiểu hạn thì phải tiến
hành che túp. Trong mùa mưa không cần phải che túp, song trong mùa
khô và mùa đông thì che túp có tác dụng chống gió, chống hạn chống rét.
Có thể dùng túp che kín xung quanh cây cà phê hoặc làm các tấm chắn
đặt vào phía hướng gió chính thổi tới. Cần chú ý tới độ cao, để không làm
ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng của cây cà phê nằm trong túp. Ở
những nơi đã trồng được các cây phân xanh để che gió, che bóng tạm
thời, có đai rừng chắn gió, có tủ gốc tốt thì không nhất thiết phải che túp.
che túp trong mùa khô, hoặc sau khi trồng bị tiểu hạn để chống nắng, chống
gió.
Trồng dặm: sau trồng mới 15-20 ngày, kiểm tra trồng dặm kịp thời các
cây chết, cây còi cọc.
Trồng xen, trồng cây phủ đất: - Khi cà phê mới trồng, đất còn trống,
bộ tán cây cà phê còn nhỏ vì vậy phải trồng xen để hạn chế sự thiêu hủy chất
hữu cơ trên bề mặt đất do cường độ ánh sáng lớn và nhiệt độ mặt đất rất cao.
Trồng trong thời kỳ kiến thiết cơ bản để phủ đất gồm cây họ đậu, cây phân
xanh: trồng cách cây cà phê ít nhất 50-60 cm.
Nên trồng xen các loại cây đậu đỗ để cải tạo đất, tăng hàm lượng mùn, tăng
các chất dinh dưỡng cho đất, đồng thời nó cũng làm tăng độ ẩm trong đất và
giảm nhiệt độ bề mặt đất.
Trồng cây che bóng: -
Cây che bóng cho cà phê hạn chế được ánh sáng trực xạ, điều hòa nhiệt độ,
giảm cường độ mưa, hạn chế sự hủy hoại cấu tượng đất
- Cây che bóng có tác dụng hút nước và chất dinh dưỡng từ các tầng sâu
của đất, điều hòa được ẩm độ trong lô cà phê, hạn chế được sương muối ở
những vùng có mùa đông giá lạnh.
- Cây che bóng làm giảm tốc độ gió và tăng độ phì đất nhờ lượng cành lá
rụng xuống lô cà phê.
Những loại cây che bóng
- Cây che bóng tạm thời : muồng hoa vàng, cốt khí, điền thanh, dậu
săng, . . Chú ý không trồng gần gốc cà phê vì dễ gây ra hiện tượng tranh
chấp nước. Khi bộ phận cây che bóng tạm thời giao tán với cây cà phê thì
phải chặt, phát các cành tiếp giáp với cây cà phê để tránh sự cọ xát làm rách
hay khô lá cà phê.
- Cây che bóng lâu dài : Keo dậu Cuba, cây bồ kết đại, cây muồng, . . .
Khoảng cách trồng (6 x 6) m và trồng theo nanh sấu ở trên hàng cà phê. Khi
vào thời kỳ kinh doanh sẽ chặt bớt chỉ để lại mật độ (6x12)m, nếu có đai
rừng dày thì có thể tiả thưa còn (12 x 12) m ở những nơi có khí hậu mát mẻ.
Cây che bóng thường cao từ trên 8 m. Cây cao tới đâu tỉa rong cành đến đó,
có lợi cho sự điều hòa ánh áng và tạo được tầng không khí đệm phù hợp ở
trong lô cà phê. Chú ý không để bộ tán của cây che bóng trùm lên tán cây cà
phê.
Tủ gốc giữ ẩm
Nguyên liệu tủ gốc
Dùng các nguyên liệu như rơm, rạ, lá mía, cỏ khô, cây phân xanh, cây ngô,
thân cây đậu đỗ để tủ gốc cho cây cà phê có những lợi ích sau :
- Tăng hàm lượng mùn cho đất
- Tăng độ ẩm trong đất và bề mặt đất
- Giảm nhiệt độ trong đất
- Chống cỏ dại
- Tăng thêm các chất dinh dưỡng, đặc biệt là hàm lượng lân và kali dễ tiêu
- Tăng độ xốp và sức chứa ẩm của đất, . . .
- Tiết kiệm được lượng nước tưới, kéo dài thời gian giữa 2 lần tưới
- Tạo điều kiện cho các vi sinh vật có ích hoạt động
- Giảm xói mòn, rửa trôi đất
Cách tủ
- Thông thường thì tủ xung quanh gốc cà phê, nhưng nếu có đủ nguyên liệu
thì tủ theo băng hay che phủ cả bề mặt đất thì càng tốt vì ngoài tác dụng
nhiều mặt như đã nêu ở câu trên, còn có một lợi ích khác là gĩư được ẩm
trong đất, đặc biệt là trong mùa khô, lượng nước tưới có thể dùng ít hơn,
hoặc khoảng cách giữa 2 lần tưới sẽ dài hơn, tiết kiệm được nước tưới. Chú
ý chống cháy trong mùa khô và dùng đất đè lên thảm phủ để chống gió làm
bay nguyên liệu tủ.
- Có thể dùng các tấm ni lông có màng mỏng (chuyên để phủ đất) để phủ
lên bề mặt của đất. Biện pháp này là nhằm chống lại sự bốc thoát hơi nước
từ trong đất đồng thời để chống lại sự sinh trưởng của cỏ dại trên lô trồng
Thời vụ trồng
Nguyên tắc chung của thời vụ trồng thích hợp là vào đầu mùa mưa
khi đất đã đảm bảo được độ ẩm. Thời vụ trồng đối với các tỉnh ở Tây
Nguyên phù hợp nhất là trong tháng 6. Nếu năm mưa sớm cây con đã đủ
tiêu chuẩn trồng thì có thể trồng vào tháng 5. Những năm mưa muộn có
thể trồng sau tháng 7. Những vùng có chế độ mưa chấm dứt vào cuối năm
thì có thể trồng muộn hơn. Trong kinh tế vườn có thể trồng muộn vào
cuối mùa mưa nếu trong mùa khô có đủ nước tưới và có tủ gốc dày.
Phân bón:
Lượng phân bón: Khi chuẩn bị trồng mới bón mỗi hố: 10-20 kg
phân hữu cơ + 0,5 lân, trộn phân - lấp hố.Khi trồng mới bón thêm 25g
urê + 25g KCl.Định lượng phân bón cho một ha: Với mật độ trồng
1.100 - 1.300 cây/ha:
Chú ý: cần thay đổi chủng loại phân, không nhất thiết chỉ SA và Kali
Clorua.
- Phân lân bón một lần cùng với phân hữu cơ, hoặc ép xanh.
- Với những vườn cây bội thu cần bón tăng cường thêm bằng 30%
lượng phân cả năm.
Cách bón:
- Phân hữu cơ: đào hố theo hình vành khăn theo mép tán rộng 30cm sâu
30cm cứ hai ba năm bón một lần. Kết hợp với phân lân.
- Phân hóa học: Đạm và Kali trộn đều bón xung quanh gốc theo mép tán
lá sâu 5-10 cm bón xong lấp ngay.
Tưới nước
Trong mùa khô hạn khi
thấy cây cà phê có hiện tượng
thiếu nước thì cần phải tiến
hành cung cấp nước kịp thời.
Hai hình thức chủ yếu để cung
cấp nước cho cây cà phê đó là:
tưới trực tiếp vào gốc và tưới
phun mưa.
a) Tưới gốc:
Tiến hành tưới gốc cho cây cà phê trong thời kỳ kiến thiết cơ bản trên
cơ sở tủ gốc, và trồng cây che gió, che bóng tạm thời. Mỗi gốc tưới từ 40
- 60 lít nước/lần tưới. Khoảng cách giữa 2 lần tưới từ 20 - 30 ngày
b) Tưới phun nước:
Cà phê ở vụ ra hoa bói rộ (thường sau khi trồng 16 - 18 tháng) và khi
chuyển vào thời kỳ kinh doanh thì cần áp dụng kỹ thuật tưới phun mưa.
Đối với các vùng khô hạn, sau khi các mầm hoa đã phân hóa và phát triển
khá hoàn chỉnh (hoa đã ở dạng mỏ sẻ nhỏ có màu xanh hoặc xám xanh)
thì tiến hành tưới lần đầu với lượng nước từ 700 - 800 m
3
/ha. Các lần sau
tưới từ 500 - 600 m
3
/ha. Khoảng cách giữa các lần tưới tùy thuộc vào mức
độ che phủ, chắn gió và loại đất mà biến động từ 15 - 20 ngày.
Kỹ thuật sản xuất cà phê ở Đăklăk
:
_Địa hình của tỉnh nói chung và
vùng nói riêng rất đa dạng và phong
phú, nằm ở phía Tây và cuối dãy
Trường Sơn, là một cao nguyên rộng
lớn, địa hình dốc thoải, lượn sóng,
khá bằng phẳng xen kẽ với các đồng
bằng thấp ven theo các sông chính.
Địa hình của tỉnh có hướng thấp dần
từ Đông Nam sang Tây Bắc.
_Khí hậu toàn tỉnh được chia thành
hai tiểu vùng khí hậu.
Nhìn chung đặc điểm khí hậu vừa bị
chi phối của khí hậu nhiệt đới gió mùa, vừa mang tính chất khí hậu cao
nguyên với nhiệt độ ôn hoà gần như quanh năm, đã tạo ra các vùng sinh thái
nông nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng, nhất là các loại cây công
nghiệp dài ngày có giá trị kinh tế cao như cà phê, tiêu, cao su…
_ Hệ thống sông, suối trên địa bàn tỉnh khá phong phú, phân bố tương đối
đồng đều.
_ Với lượng mưa bình quân 1.900 mm, thì Đắk Lắk có 28,6 tỷ m³ nước,
trong đó: lượng nước mưa chuyển vào dòng chảy khoảng 14,5 tỷ m³.
Đất đai ở Đắk Lắk khá thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp (dễ khai thác, đầu
tư cải tạo thấp, độ an toàn sinh thái cao). Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh là
1312,5 nghìn ha.
Thời vụ trồng
Vào đầu mùa mưa khi đất đã đảm bảo được độ ẩm. Thời vụ trồng đối
với tỉnhĐăklăk là vào tháng 6. Nếu năm mưa sớm cây con đã đủ tiêu
chuẩn trồng thì có thể trồng vào tháng 5. Những năm mưa muộn có thể
trồng sau tháng 7. Những vùng có chế độ mưa chấm dứt vào cuối năm thì
có thể trồng muộn hơn. Trong kinh tế vườn có thể trồng muộn vào cuối
mùa mưa nếu trong mùa khô có đủ nước tưới và có tủ gốc dày.
Chọn lọc giống
Sử dụng các loại giống đã được nhà nước công nhận do cơ sở được
phân công sản xuất cung cấp giống. ngoài ra người nông dân cũng dùng
giống tự ươm của gia đình.
Đào hố trồng cà phê thường mỗi hố rộng 50cm,sâu 60cm.
TRồng xen các loại cây như Đậu phụng, đậu tương, đậu hồng đáo,
đậu mèo ngồi, các loại đậu đỗ khác, đậu lông, thẹn không gai, Flemingia
congusta, muồng hoa vàng v.v Cây trồng xen có thể trồng vào đầu mùa
mưa ở giai đoạn trước khi trồng cà phê hoặc: trồng vào cùng giai đoạn với
lúc trồng cà phê.
Trong mùa mưa có thể trồng được 2 vụ, họ dùng Cây, cành, lá của
cây trồng xen ở vụ 2 sẽ dùng làm nguyên liệu tủ gốc vào cuối mùa mưa,
đầu mùa khô. Gieo cây phân xanh, đậu đỗ trồng xen thành băng nằm giữa
hai hàng cà phê hoặc trên hàng giữa 2 cây cà phê.
Tưới nước
Mỗi gốc tưới từ 40 - 60 lít nước/lần tưới. Khoảng cách giữa 2 lần tưới từ
20 - 30 ngày.
Thời gian thu hoạch thường kéo dài trong 4 tháng, tính từ cuối tháng 10
đến hết tháng
Ngay sau thu hoạch là thời gian nông dân trồng cà phê bắt đầu tưới
nước cho cây và bón phân, chia thành nhiều đợt ngắn. Giai đoạn này kéo dài
đến tháng 4 hàng năm.
Trước khi bón phân làm cỏ sạch, phân đem trộn trước, sau đó rải đều
vào vùng xung quanh mép ngoài của tán lá. Lấy cuốc xăm lấp kín phân
trong lớp mặt để tránh bốc hơi hoặc phân bị trôi khi gặp mưa lớn.
V.HƯỚNG PHÁT TRIỂN:
Cà phê là một trong những loại cây cho sản phẩm xuất khẩu lớn của Việt
Nam . Các sản phẩm ngày càng có giá trị và chất lượng cao góp nâng cao
thương hiệu và phần cải thiện đời sống cho con người . Đồng thời, nó cũng
có liên quan chặt chẽ trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội, môi trường
sinh thái và vấn đề phát triển bền vững.
Sản xuất cà phê phải theo tiêu chí của thương hiệu Quốc tế, ổn định về
năng suất, sản lượng, chất lượng; phát triển cà phê phải gắn chặt với phát
triển kinh tế văn hoá - xã hội, du lịch, bảo vệ môi trường
Cùng việc học tập các sàn giao dịch lớn trên thế giới, cần tiến hành xây
dựng đề án phát triển hệ thống phân phối cà-phê trong nước, áp dụng các
phương thức mua bán hiện đại như giao dịch kỳ hạn… phòng ngừa rủi ro khi
có biến động giá trên thị trường. Ngoài việc tăng thị phần và nâng cao chất
lượng cà-phê chế biến, cần xây dựng và phát triển mạng lưới bán hàng. Bởi
cà-phê Việt Nam không thể đủ uy tín để chinh phục người tiêu dùng các
nước, một khi chưa chinh phục được chính người tiêu dùng trong nước.
Vì vậy các doanh nghiệp trong nước cần mở rộng mạng lưới tiêu thụ cà-
phê; tạo hệ thống liên kết trong kinh doanh cà-phê trên thị trường trong
nước. Ðây sẽ là một trong những định hướng chiến lược kinh doanh chủ yếu
của các doanh nghiệp cà-phê Việt Nam và giúp cho cây cà-phê ở nước ta
phát triển bền vững.
KẾT LUẬN
Qua quá trình tìm hiểu và phân tích các nguyên lý,các đặc tính sinh
học,đặc điểm sinh trưởng của cây cà phê chúng ta có thể nắm rõ hơn các quá
trình sinh trưởng và phát triển của cây cà phê cùng với sự tác động của các
yếu tố của điều kiện ngoại cảnh để từ đó có thể tiến hành trồng trọt,chăm sóc
và phát triển cây cà phê tốt hơn.
Ngoài ra việc nắm vững các kỹ thuật sản xuất cây cà phê sẽ giúp cho
người nông dân trồng cà phê ngày càng am hiểu,có kinh nghiệm ,tay nghề
tiến bộ hơn để phát triển cây cà phê có năng suất và chất lượng cao hơn.
o@@@o