Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP CANH TÁC NGÔ, LÚA NƯƠNG BỀN VỮNG TRÊN ĐẤT DỐC TẠI XÃ IA DOM HUYỆN ĐỨC CƠ TỈNH GIA LAI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 97 trang )


BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN






LƯƠNG ĐỨC TRÍ







NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP CANH TÁC
NGÔ, LÚA NƯƠNG BỀN VỮNG TRÊN ĐẤT DỐC
TẠI XÃ IA DOM HUYỆN ĐỨC CƠ TỈNH GIA LAI









LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP













Buôn Ma Thuột năm 2009

BỘ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY NGUYÊN





LƯƠNG ĐỨC TRÍ







NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP CANH TÁC
NGÔ, LÚA NƯƠNG BỀN VỮNG TRÊN ĐẤT DỐC

TẠI XÃ IA DOM HUYỆN ĐỨC CƠ TỈNH GIA LAI


Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 4.01.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP


Người hướng dẫn khoa học: TS. Trình Công Tư












Buôn Ma Thuột năm 2009
1
MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn ñề:
Đất dốc chiếm một vị trí hết sức quan trọng trong nền nông nghiệp

của cả nước. Đây là vùng có môi trường sinh thái rất mỏng manh. Do ảnh
hưởng của ñịa hình, khí hậu, hoạt ñộng canh tác bất hợp lí của con người…ñã
gây nên hiện tượng xói mòn, rửa trôi và hàng loạt các quá trình thổ nhưỡng
bất thuận khác ñã biến những vùng ñất vốn dĩ rất màu mỡ thành hoang hoá,
bạc màu giảm sút sức sản xuất.
Ở Việt nam, ñất ñồi núi chiếm 3/4 diện tích lãnh thổ, là ñịa bàn cư
trú của hơn 28 triệu người thuộc 54 dân tộc anh em. Do sức ép dân số, ñất dốc
vùng sâu vùng xa thậm chí kể cả rừng cấm ñầu nguồn cũng ñã và ñang bị xâm
hại (Thái Phiên 1998)[15].
Phần lớn diện tích ñất có ñộ dốc dưới 15
o
ñã ñược sử dụng cho sản
xuất nông nghiệp hoặc nông lâm kết hợp. Do thiếu ñất sản xuất nên nông dân
miền núi vẫn phải canh tác trên ñất có ñộ dốc lớn hơn 25
o
chịu xói mòn rất
mạnh và thời gian canh tác bị rút ngắn, thường chỉ trồng ñược 2-3 vụ cây
lương thực ngắn ngày với năng suất thấp, cuộc sống của nông dân trong vùng
rất khó khăn ( Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm 2002)[16], (Lê Quốc Doanh, Hà
Đình Tuấn, Andre Chabanne 2006)[2]
Ia Dom là một xã vùng sâu, giáp biên giới Cam Pu Chia. Đây là
vùng ñất có nhiều ñồi núi, ñịa hình phân cắt, quá trình xói mòn ñang ñe dọa,
ñộ phì nhiêu không ñồng ñều giữa các vùng trong xã. Lượng mưa khá cao
trong năm, song phân bố tập trung theo mùa, thường gây nên hạn hán trong
mùa khô, ngập lụt trong mùa mưa, ảnh hưởng rất lớn ñến chất lượng mùa
màng. Trong khi ñây là vùng có dân trí thấp, kinh nghiệm trong sản xuất nông
nghiệp cũng như thâm canh cây trồng chưa cao.
2
Lúa nương và ngô là những loại cây trồng chủ ñạo, ñem lại nguồn
thu nhập chính cho người dân tại xã Ia Dom. Song kỹ thuật canh tác 2 loại

cây trồng này còn nhiều hạn chế. Người dân ở ñây chủ yếu sử dụng giống ñịa
phương có ñộ lẫn tạp cao, không ñầu tư ñúng mức về phân bón, áp dụng chưa
thoả ñáng các biện pháp kỹ thuật bảo vệ và nâng cao ñộ phì nhiêu ñất nên
năng suất thu ñược thường thấp, bấp bênh, ñất ñai bị xói mòn, rửa trôi mạnh,
ñộ phì nhiêu nhanh chóng sụt giảm, có trường hợp chỉ qua 3 - 5 năm canh tác
ñất ñã bị thoái hoá ñến mức mất sức sản xuất.
Nhằm từng bước khai thác hợp lý và có hiệu quả tiềm năng ñất dốc
tại ñịa phương, ổn ñịnh ñời sống xã hội và gìn giữ môi trường, chúng tôi tiến
hành ñề tài: “Nghiên cứu biện pháp canh tác Ngô, lúa nương bền vững
trên ñất dốc tại xã Ia Dom huyện Đức Cơ tỉnh Gia Lai”.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Xác ñịnh các biện pháp kỹ thuật canh tác nâng cao năng suất, hiệu
quả sản xuất ngô và lúa nương trên ñất dốc xã Ia Dom
- Xác ñịnh biện pháp canh tác bảo vệ, ổn ñịnh ñộ phì nhiêu ñất dốc
trồng ngô và lúa nương tại xã Ia Dom
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của ñề tài:
3.1. Ý nghĩa khoa học :
- Bổ sung thêm luận cứ khoa học cho việc khai thác và sử dụng có
hiệu quả tài nguyên ñất dốc.
- Làm phong phú thêm tư liệu về nghiên cứu và sử dụng ñất dốc ở
Việt Nam nói chung và vùng Tây Nguyên nói riêng.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn:
Chỉ ra ñược các giải pháp canh tác ngô và lúa nương phù hợp trên
ñất dốc, trên cơ sở ñó cải thiện và ổn ñịnh ñời sống của cư dân và bảo vệ môi
trường thiên nhiên miền núi.
3
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU


1.1. Cơ sở khoa học của ñề tài:
Các tác nhân gây xói mòn ñất là do ñịa hình dốc, kết hợp với ñộ che
phủ lớp mặt kém và cường ñộ mưa lớn. Khi hạt mưa rơi trực tiếp xuống mặt
ñất, ñộng năng của hạt mưa sẽ phá vỡ các hạt kết khỏi ñất và chuyển dịch ñi
nơi khác theo dòng chảy (Beasley R. P. 1972) [27]. Như vậy ñất bị xói mòn,
rửa trôi ngày càng trầm trọng, nếu chúng ta không có biện pháp tích cực ngăn
chặn, hậu quả là ñất thoái hoá bạc màu, khô cằn trơ sỏi ñá, mất sức sản xuất.
Muốn giảm thiểu xói mòn ñất do mưa, trước hết mặt ñất phải ñược
che phủ ñể hạn chế tối ña hạt mưa rơi trực tiếp xuống mặt ñất và giảm tối ña
lượng nước chảy tràn bề mặt, ñồng thời cần phải có những biện pháp hữu hiệu
làm giảm ñộ cao của ñịa hình. Để thực hiện ñược ñiều ñó một cách hiệu quả,
khi canh tác cây trồng trên ñất dốc cần phải áp dụng những biện pháp kỹ thuật
tiến bộ và thâm canh, luân canh giúp cây sinh trưởng phát triển tốt, nâng cao
ñộ che phủ cho ñất ñồng thời kết hợp bằng biện pháp công trình hay những
băng chắn bằng sinh học ñể ngăn chặn dòng chảy bề mặt, hạn chế ñất bị xói
mòn.
Với cây lương thực như ngô và lúa nương, khả năng che phủ ñất
vốn dĩ ñã kém, kết hợp với phương thức trồng ñộc canh theo tập quán ñịa
phương ñã làm cho ñất bị xói mòn, rửa trôi ngày càng trầm trọng
Bên cạnh những tác ñộng xấu của thiên nhiên ñối với ñất ñồi núi
dốc, thì con người cũng là một trong những tác nhân gây không ít ñến sự sụt
giảm và thoái hoá ñất ñai thông qua quá trình sản xuất. Trong quá trình sản
xuất người ta chỉ biết khai thác dinh dưỡng trong ñất một cách triệt ñể, mà ít
4
nghĩ ñến việc trả lại dinh dưỡng cho ñất khi cây trồng ñã lấy ñi. Có chăng chỉ
trả lại bằng cách bón phân nhưng không thể bù ñắp ñược. Đặc biệt là những
vùng ñất ñồi núi dốc nơi ñồng bào dân tộc thiểu số canh tác hầu như người ta
không nghĩ ñến chuyện bón phân cho cây trồng, ñồng thời những phụ phế
phẩm của cây trồng cũng ñưa ra khỏi ruộng hoặc ñốt. Bên cạnh ñó không có
những biện pháp chống xói mòn bảo vệ ñất, vì vậy sự trả lại dinh dưỡng cho

ñất là rất khiêm tốn. Độ phì nhiêu ñất bị suy giảm dẫn ñến mất sức sản xuất.

Hướng tiếp cận tốt nhất ñể cải tạo và giữ gìn chất lượng ñất là áp
dụng các biện pháp luân canh, thâm canh, tái sử dụng tàn dư cây trồng và sử
dụng phân hữu cơ, kết hợp phân hoá học trong nông nghiệp, tăng cường áp
dụng các loại cây che phủ, nhất là cây họ ñậu ñể vừa bảo vệ vừa cải tạo ñất.
Cần quan tâm phát triển các kỹ thuật nhằm tăng ñộ che phủ mặt ñất và tính
liên tục của lớp phủ ñể chống xói mòn ñất, tăng cường các quá trình tái tạo
dinh dưỡng, tái tạo các tính chất cơ bản của ñất như cấu tượng ñất, hàm lượng
hữu cơ, ñộ xốp, hoạt tính sinh học, ñộ pH Tất cả những nỗ lực trên nhằm
tạo ñiều kiện tốt nhất cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, ñặc biệt ñối
với cây trồng trên ñất dốc (Lê Quốc Doanh, Hà Đình Tuấn, Andre Chabanne,
2006)[2]
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu và sử dụng ñất dốc trên thế giới:
Đất dốc chiếm một diện tích ñáng kể trong tổng diện tích ñất ñai
toàn cầu. Theo tài liệu của FAO thì diện tích ñất dốc trên toàn thế giới khoảng
973 triệu ha. Ở Châu á ñất dốc chiếm 35% tổng diện tích. Đất dốc việt nam
chiếm tỉ lệ khá cao 75%, Lào 73,7%, Hàn Quốc 49,8%, Malaysia
47,8% (Trích dẫn từ Nguyễn Duy Sơn, 2000)[21]. Vì vậy nghiên cứu có hệ
thống ñối với ñất dốc là ñòi hỏi cấp thiết.
Thực trạng ñã cho thấy, quá trình canh tác trên ñất ñồi núi dốc
không chỉ riêng Việt Nam mà trên toàn cầu nếu không có các biện pháp bảo
5
vệ ñất thì một thời gian không lâu ñất canh tác sẽ bị sụt giảm dinh dưỡng dẫn
ñến quá trình ñất bị thoái hoá bạc màu mất sức sản xuất.
Theo tính toán của Oldeman R.L. và ctv (1990) [36], trong vòng 45
năm (từ 1945 ñến 1990) có 1,97 tỷ hecta ñất bị thoái hoá, trong ñó có khoảng
330 triệu hecta thoái hoá nặng và ước chừng 9 triệu hecta bị thoái hoá trầm
trọng. Các châu lục có diện tích ñất thoái hoá lớn nhất là Châu á: 453 triệu
hecta, châu Phi: 321 triệu hecta, làm ảnh hưởng không nhỏ ñến sức sản xuất

lương thực trong nước cũng như trên toàn cầu.
Thống kê của Hary Eswaran, Rattan Lal và Paul F. Reich (1999)
[30] cho thấy: Bình quân hàng năm trên phạm vi toàn cầu mất ñi 75 tỷ tấn ñất
do xói mòn từ diện tích ñất canh tác và ñất không ñược che phủ. Trong các
châu lục, ñất bị xói mòn mạnh nhất là Châu á, Châu Phi và Nam Mỹ.
Theo tính toán của Lal R. and Stewart B.A., (1990) [32], bình quân
xói mòn ñất khoảng 30-40 tấn/ha/năm. Trong khi ñó khả năng hình thành ñất
từ ñá mẹ qua quá trình phong hoá nhiều nhất cũng không quá một tấn
/ha/năm. Đó là nguyên nhân chính làm mỏng dần tầng canh tác, ñất thoái hoá
trơ sỏi ñá, dẫn ñến sản xuất không hiệu quả. Xói mòn ñã làm giảm mạnh năng
suất cây trồng, như ở Châu Phi từ 2 ñến 40%, Châu á ước tính lương thực
hàng năm cũng bị giảm 36 triệu tấn/ năm, tương ñương với 5,4 tỷ ñôla. Chính
vì vậy mặc dù xói mòn ñất xảy ra từ hàng thế kỷ nay, nhưng hiện tại và tương
lai trong thế kỷ 21 vẫn sẽ là nội dung cần phải quan tâm nghiên cứu trên
phạm vi toàn cầu.
Để minh chứng cho sự quan tâm ñầu tư trí tuệ của các nhà khoa học
không chỉ riêng ở Việt nam mà trên toàn thế giới, cũng như chính phủ các
nước ñối với việc nghiên cứu các vấn ñề bức xúc vùng ñất dốc ñã ñưa lại
những kết quả rất khả quan. Qua những kết quả nghiên cứu cho thấy:
Ở Queensland ( Úc), phương pháp phủ ñất tốt nhất là ñể lại toàn bộ
phế phụ phẩm trên ñồng ruộng sau khi thu hoạch, xói mòn ñất giảm xuống chỉ
6
còn 20 tấn/ha/năm so với 130 ñất/ha/năm ở ñất không ñể lại phế phụ phẩm.
Đồng thời phủ ñất còn làm tăng ñộ ẩm tầng 0 - 30cm từ 16,6% lên 19,2% vào
tháng 8-9, và từ 15% ñến 20% vào tháng 2-3, bên cạnh ñó năng suất cây trồng
cũng tăng lên rõ rệt (Trương P. N. V.and Prove B. G 1988) [40].
Theo Coughlan K.J (1995) [29], trồng băng chắn theo ñường ñồng
mức, tận dụng sinh khối cây trồng phủ ñất, sẽ có những tác dụng: Tăng năng
suất lúa nương, ngô, sắn, giảm xói mòn một cách có hiệu quả, ngăn chặn sự
phát triển của cỏ dại, tăng nguồn hữu cơ cho ñất, giảm ñộ chặt và giữ ẩm cho

ñất. Coughlan còn cho rằng: khi có 10% ñộ che phủ, lượng ñất xói mòn giảm
từ 30-50% so với ñất trống. Khi tăng ñộ che phủ lên 30% lượng ñất ñược giữ
lại ñến 90%. Một ưu ñiểm nữa của băng chắn theo Sam Fujisaka, (1998) [38]
là làm cho ñộ dốc trong diện tích canh tác giảm dần theo từng năm. Từ năm
thứ nhất ñến năm thứ ba theo thứ tự 9%, 8%, và 7% do sự hình thành dần bậc
thang, vì ñất ñược giữ lại và tích tụ phía trên băng chắn. Do ñó, nhiều nghiên
cứu ñi ñến kết luận: Trồng xen băng chắn hạn chế ñược xói mòn ñất, bổ sung,
phục hồi và duy trì ñược ñộ phì nhiêu của ñất, làm tăng năng suất sắn, ngô,
lúa, mía
Theo Siegfried Lampe (1997) [18], việc sử dụng phân bón có hiệu
lực và cân ñối là chìa khoá cho việc ñưa ñến năng suất bền vững. Tác giả ñã
nhận ñịnh: Một cánh ñồng ñược bón phân sẽ nuôi dưỡng một bộ lá dày ñể
chống xói mòn, hấp thu CO
2
từ không khí nhiều hơn và giải phóng O
2
nhiều
hơn, ñã hạn chế rất lớn về tổn thất do xói mòn, rửa trôi và bay hơi của phân
khoáng. Đồng thời cây trồng ñược bón phân thì hiệu lực sử dụng nước cao
hơn rất nhiều so với cây không ñược bón phân, ñặc biệt là ñối với những vùng
canh tác trên ñất dốc dựa vào nước mưa là chính. Qua theo dõi thí nghiệm cây
lương thực, tác giả còn ñưa ra nhận xét: Bón phân không những làm tăng sinh
khối cây ngô một cách rõ rệt mà còn kéo dài tuổi thọ của lá trên cây, ñồng
thời năng suất tăng từ 20 - 36% và ổn ñịnh nhiều năm so với ñối chứng.
7
Thái Lan là một quốc gia khá thành công trong lĩnh vực sử dụng ñất
dốc. Các công thức ñộc canh lúa nương hiệu quả thấp ñược thay thế bằng ñậu
tương - lúa ñã làm cho tổng giá trị sản phẩm tăng gấp ñôi, mức ñộ xói mòn ít
hơn và ñộ phì nhiêu ñất cũng ñược cải thiện hơn.
Ở Mabini, Thái Lan người ta nghiên cứu các biện pháp trồng ngô

theo băng, kết hợp bón phân cho thấy: Hạn chế ñược lượng nước trôi và ñất
mất do xói mòn rất ñáng kể, năng suất cây trồng tăng 65 – 98% và hiệu quả
kinh tế thu ñược cũng cao hơn so với phương thức canh tác truyền thống của
nông dân (Maglinao, 1995)[33]
Các nghiên cứu ñối với ngô trồng trên ñất dốc ở miền nam Trung
Quốc theo Yin Dixin (1995)[44] kết luận: Trồng ngô theo biện pháp canh tác
truyền thống của nông dân ñịa phương thì ñất mất do xói mòn hàng năm là rất
lớn, tới 42tấn/ha/năm. Trong khi ñó trồng ngô theo băng kết hợp trồng xen
cây cốt khí và có bón phân thì lượng ñất trôi hàng năm giảm xuống còn
25tấn/ha/năm. ñồng thời ñộ phì nhiêu của ñất cũng sụt giảm rất ít, cây trồng
sinh trưởng phát triển tốt và cho năng suất cao hơn, tăng 38% - 75% so với
biện pháp canh tác của nông dân.
Ở các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Quốc): Sau khi làm ñất
xong, trồng sắn xen lạc, xen ngô hoặc ñậu tương. Với cơ cấu xen canh như
vậy, không chỉ tăng năng suất sắn, tăng thu nhập do ña dạng sản phẩm, mà
còn chống xói mòn rất hiệu quả, ñồng thời duy trì ñược ñộ phì ñất từ lượng
sinh khối của tàn dư thực vật trả lại ñất. Cũng tương tự, Trung tâm Nghiên
cứu cây trồng Rayong, Thái Lan có nhận xét: trồng sắn, ngô kết hợp trồng xen
2 hàng lạc, không chỉ tăng thu nhập cho người dân, mà còn giảm xói mòn ñất
ñến 30% (Tongglum A. và ctv, 1998) [39].
Theo Chenxuhui và cộng sự (1994)[28] trồng ngô, lúa nương không
sử dụng biện pháp bảo vệ thì mức ñộ xói mòn ñất rất mạnh, cùng ñộ dốc 20
o

lượng ñất mất lên tới 120 – 242 tấn/ha/năm ñối với ngô và 100 – 150
8
tấn/ha/năm ñối với lúa. Các công thức trồng ngô theo băng và kết hợp trồng
xen cây họ ñậu ñã hạn chế lượng ñất mất do xói mòn, xuống còn 65 – 135
tấn/ha/năm và năng suất ngô cao hơn 18 - 45%. Đối với lúa nương công thức
có bón phân kết hợp với biện pháp bảo vệ ñất, lượng ñất mất giảm xuống

ñáng kể, còn 45 – 85 tấn/ha/năm và năng suất tăng 42% so với công thức
không có các biện pháp bảo vệ ñất.
Cũng tương tự như vậy, khi ñánh giá về ñộ phì nhiêu ñất, Virginia
C. Cuevas và F. C. Diez (1988) [42] kết luận: Giải pháp dùng cây phân xanh
làm băng chắn bảo vệ ñất ñồi núi dốc, kết hợp cắt tỉa lượng sinh khối chất
xanh từ băng chắn vùi vào ñất, ñã duy trì ñược tốt nhất hàm lượng hữu cơ và
ñạm trong ñất, nên năng suất cây trồng cao nhất và ổn ñịnh qua 3 năm liên tục
( 3,7 tấn/ha ñối với lúa nương, 0,431 kg/m
2
ñối với tỏi). Do ñó, có thể nói
băng chắn hạn chế ñược xói mòn ñất, ñồng nghĩa với duy trì ñược ñộ phì
nhiêu của ñất, làm tăng năng suất cây trồng.
Khi nghiên cứu hệ thống canh tác trên ñất dốc Naik Sinukaban
(1994)[35] ñã rút ra ñược kết luận: Khi áp dụng các biện pháp canh tác trên
ñất dốc ñối với cây ngắn ngày như lúa nương, ngô, lạc thì cần phải kết hợp
trồng xen các giống cây phân xanh cây họ ñậu, hoặc sử dụng băng cỏ phủ ñất
và trồng theo ñường ñồng mức sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, năng suất cây
trồng chính sẽ tăng 25 - 50% và mức ñộ thiệt hại do xói mòn, rửa trôi cũng
giảm xuống, ñộ phì nhiêu của ñất ñược bảo vệ tốt hơn.
Việc nghiên cứu về bón phân cải thiện ñộ phi nhiêu của ñất dốc, làm
tăng năng suất cây trồng cũng thường xuyên ñược các nhà khoa học ñề cập.
Theo Ernt Mutert và Thomas Fairhust (1997)[4] nguyên nhân làm cho ñộ phì
nhiêu của ñất dốc kém là do ñộ ñộc của nhôm, mangan, sắt bên cạnh thiếu
lân, canxi, kali Phần lớn ñất dốc xẩy ra phong hoá mạnh và dễ bị rửa trôi
các chất dinh dưỡng. Vì vậy cần bổ sung các chất dinh dưỡng bị thiếu và duy
trì ñộ phì nhiêu của ñất bằng cách thông qua con ñường bón phân.
9
Theo Siegfried Lampe (1997)[18] Việc sử dụng phân bón không
ñầy ñủ trong sản xuất nông nghiệp thì hoàn toàn không thể ñáp ứng ñủ lương
thực cho con người và thức ăn gia súc. Sự gia tăng dân số ñã gây áp lực mạnh

ñến ñất ñai sản xuất cho nên việc canh tác trên ñất dốc và ñồi núi cũng như
các diện tích ñất xấu là không tránh khỏi. Vì vậy canh tác cần phải chú trọng
ñến việc bổ sung dinh dưỡng cho ñất thông qua con ñường bón phân, ñể dảm
bảo ñược sự bền vững của ñất và năng suất cây trồng.
Ở Lào với kết quả nghiên cứu vùng ñất ñộ dốc dao ñộng trong
khoảng từ 30-60%, cơ cấu cây trồng chính là lúa nương, kê và ngô, có bón
phân và sử dụng băng cây xanh chắn xói mòn theo ñường ñồng mức; lượng
ñất xói mòn ra khỏi lưu vực chỉ từ 0,58 – 0,72 tấn/ha/năm. Nhờ bảo vệ
rừng ñầu nguồn và áp dụng băng cây xanh chắn xói mòn, mà ñã tăng khả
năng giữ nước cho ñất canh tác trong lưu vực và giảm xói mòn ñất và năng
suất cây trồng tăng một cách ñáng kể (Ty Phommasack và ctv, 2000) [41].
Nhờ bố trí cơ cấu cây trồng hợp lý trên ñất dốc, Trung Quốc ñã làm
tăng ñược 43% sản lượng ngũ cốc. Các tỉnh Hắc Long Giang, Tế Lâm, Liêu
Ninh ñã làm tăng năng suất ngũ cốc lên ñến 15 tấn/ha, ñó là nhờ sử dụng biện
pháp xen canh ngô, lúa và dùng các loại phân bón thâm canh cây trồng.
Theo Viện Khoa học Nông nghiệp Nhiệt ñới Hải Nam, Trung Quốc
(CATAS) với ñất có ñộ dốc từ 15 - 25
o
trồng cây ngắn ngày như sắn, bắp, ñậu
ñỗ, lúa cạn cần áp dụng các biện pháp trồng xen một số cây họ ñậu, kết hợp
bón phân, năng suất tăng 5% -25%, xói mòn có thể giảm ñến 38% - 42% so
với biện pháp canh tác cổ truyền. Mặt khác, duy trì ñược ñộ phì nhiêu của ñất
thông qua con ñường phân giải phụ phế phẩm từ cây trồng xen (Wargiono J.
và ctv1998) [43]. Đồng thời tác giả cũng nhận xét rằng: Nếu thâm canh có
bón phân kể cả trồng xen cũng như không trồng xen, ñều có tác dụng giảm
xói mòn ñất và tăng năng suất cây trồng, vì bón phân làm cho cây phát triển
tốt, tăng khả năng che phủ, hạn chế ñược hạt mưa rơi trực tiếp xuống bề mặt
10
ñất. Wargiono J. và ctv cho rằng ngay cả khi bón phân cho sắn trồng thuần,
cho lúa - ñậu tương xen canh và cho ngô trồng thuần thì năng suất tăng 1,5 - 2

lần, ñồng thời xói mòn ñất cũng giảm so với không bón theo thứ tự là 35%,
11% và 19%, còn nếu bón phân cho hệ thống cây trồng xen lạc-sắn có băng
cỏ voi chắn xói mòn hiệu quả cao hơn rất nhiều.
Tại Philippin, người ta sử dụng biện pháp trồng cây hàng năm theo
băng kết hợp trồng một số cây làm hàng rào theo ñường ñồng mức. Kết quả
cho thấy ñây là biện pháp canh tác bảo vệ ñất chống xói mòn hiệu quả nhất
trên ñất ñồi, giảm lượng nước trôi và ñất xói mòn xuống còn 20 - 70% so với
kỹ thuật của nông dân là trồng dọc dốc. Độ phì nhiêu của ñất cũng ñược cải
thiện thông qua tàn dư hữu cơ từ hàng rào ñược cắt xén vùi vào ñất hàng năm,
năng suất lúa ngô, sắn cũng ñược tăng lên rất ñáng kể, từ 15 – 40%. Hàng rào
trồng theo ñường ñồng mức còn có tác dụng làm giảm ñộ dốc của ñất ñồi,
hình thành ruộng bậc thang dần (Hernandez. L. G. 1996)[31].
Mohd Noor Yusoff (1994)[43] cho rằng: Bón phân hữu cơ cho ñất
ñồi trồng cây ngắn ngày như bắp, lúa cạn hay cây lâu năm như cao su, ñồng
thời trồng xen cây họ ñậu ñã có tác dụng làm tăng ñộ xốp, giảm dung trọng
ñất cũng như vùi tàn dư cây trồng trên ruộng ñã làm tăng pH, giảm nhôm di
ñộng và tăng CEC rất ñáng kể, ñã ñưa năng suất cây trồng tăng 15% ñối với
cao su, 20% ñối với lúa cạn và 33% ñối với bắp.
Việc sử dụng phân bón không chỉ ảnh hưởng tới năng suất, phẩm
chất cây trồng mà còn ảnh hưởng ñến môi trường ñất cũng như tuổi thọ canh
tác của ñất.
Theo Ernst và Thomas Faihurst (1997) [4], canh tác trên ñất dốc, sự
làm giảm ñộ phì là do xói mòn, rửa trôi, ñồng thời cây trồng ñã lấy ñi chất
dinh dưỡng trong ñất ñể tạo nên sinh khối thực vật và sản phẩm của cây. Qua
kết quả nghiên cứu tác giả ñã ñưa ra nhận xét; Khi bón phân khoáng cho cây
trồng canh tác trên ñất dốc sẽ giảm ñược ñộ ñộc của nhôm, mangan và sắt
11
ñồng thời ổn ñịnh ñược lân, canxi, kali trong ñất. Không những phân bón hoá
học mà phân bón hữu cơ ñối với cây trồng và ñất hết sức quan trọng, nó tác
ñộng rất lớn ñến các tính chất khác nhau của ñất tạo cho ñất có môi trường

hoá, lý tính và cấu trúc thuận lợi cho sự sinh trưởng phát triển của cây trồng.
Chất hữu cơ trong ñất vừa là một chất ñệm tăng cường sự hấp thu các chất
dinh dưởng trong ñất, ñồng thời là nguồn năng lượng nuôi các hệ vi sinh vật
trong ñất từ ñó chúng tạo nên nguồn dinh dưỡng ñáng kể thông qua hoạt ñộng
của các hệ vi sinh vật. Vì vậy cây trồng sinh trưởng tốt và cho năng suất ổn
ñịnh nhiều năm.
1.3.Tổng quan tình hình nghiên cứu và sử dụng ñất dốc tại Việt Nam:
Đất ñồi núi việt nam là hợp phần quan trọng của quỹ ñất, chiếm 3/4
lãnh thổ toàn quốc, tập trung ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Tây Nguyên. Trong
những năm gần ñây các nghiên cứu về phương thức canh tác trên ñất dốc ñã
và ñang ñược chú trọng một cách ñáng kể. Ngoài việc phát triển cây dài ngày,
cây ăn quả còn có hướng chú trọng ñến phát triển tập trung thâm canh cây
ngắn ngày, nhằm tăng thu nhập trước mắt cho người dân tại chổ một phần
ñóng góp ñáng kể vào an ninh lương thực cho quốc gia.
Muốn có năng suất cao và ổn ñịnh lâu dài, trước hết phải bảo vệ ñất,
ñặc biệt là khi canh tác trên ñất dốc. Xu thế hiện nay của các nhà khoa học ñất
và các nhà canh tác học trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng là tập
trung nghiên cứu các biện pháp canh tác hợp lý, trên cơ sở kết hợp hài hoà
giữa kiến thức bản ñịa và công nghệ tiên tiến ñể bảo vệ ñất. Nhằm tiến tới một
nền nông nghiệp bền vững, có hiệu quả. Tuỳ từng ñiều kiện cụ thể của từng
vùng, từng ñịa phương mà ñưa ra những giải pháp cho phù hợp.
Những giải pháp ñược người dân chấp nhận thường ñơn giản, dễ
làm nhưng có hiệu quả. Vì có sự kết hợp hài hoà giữa ñiều kiện tự nhiên và
tính ñặc thù của từng vùng kinh tế ñể thiết lập các hệ thống canh tác phù
12
hợp. Đối với cây nông nghiệp ngắn ngày như lúa, ngô, sắn và ñậu ñỗ ñã có
nhiều nghiên cứu ñưa lại kết quả khả quan:
Lương Đức Loan và ctv (1979) [9] ñã ñưa ra những giải pháp
chống xói mòn ñất như giải pháp công trình, giải pháp trồng băng cây phân
xanh ngang dốc, giải pháp trồng xen, trồng gối, giải pháp tủ gốc. Tác giả cho

rằng giải pháp công trình là giải pháp hữu hiệu nhất, vì về cơ bản nó triệt
tiêu ñược dòng chảy, lượng ñất trôi hầu như không ñáng kể, nhưng nông dân
khó thực hiện, và ñó là một biện pháp tốn kém (một hecta mất 300-550
công), hơn thế nữa tầng mùn bị xáo trộn dẫn ñến ñại ña số trường hợp năng
suất cây trồng vụ ñầu ñều thấp, buộc phải ñầu tư phân hữu cơ, phân hóa học
mới có thu hoạch cao. Đào mương ñắp bờ cũng là một biện pháp hữu hiệu:
Đào mương lượng ñất xói mòn giảm 60% và năng suất lúa nương tăng 200%
so với ñối chứng. Giải pháp trồng băng cây phân xanh ngang dốc cho kết
quả khá tốt : Với hai loại cây phân xanh dùng ñể trồng là muồng lá tròn
(Crotalaria strata) và cỏ Stylo (Stylosanthes gracilis), lượng ñất xói mòn
giảm ñến 70% và năng suất lúa tăng 29% so với ñối chứng. Đặc biệt nếu
trồng cỏ stylo có xen dứa, hàng năm cắt cỏ ép xanh cho dứa, năng suất dứa
tăng 47%, tăng thu nhập cho người dân một cách ñáng kể.
Ở vùng ñồi núi ñất có ñộ dốc trên 10
o
thường chiếm 50 - 60% diện
tích ñất nông nghiệp hiện ñang ñược khai thác. Do ñó nghiên cứu khai thác
ñất nông nghiệp vùng ñồi núi thực chất là vấn ñề nghiên cứu khai thác trên
ñất dốc hay canh tác trên nương rẩy, nghiên cứu quan hệ giữa hệ thống cây
trồng trên ñất dốc với vấn ñề rửa trôi xói mòn ñất, nghiên cứu ứng dụng hệ
thống canh tác nông lâm nghiệp kết hợp trên ñất dốc (Trần Văn Thủy,
2005)[23].
Tác giả Cù Xuân Đồng (1997)[3] ñã ñề nghị: Nhằm bảo vệ ñất dốc
qua tác ñộng của xói mòn rửa trôi, khi canh tác cần sử dụng 2 nhóm biện pháp
chính: Nhóm biện pháp sinh học và nhóm các biện pháp công trình kỹ thuật.
13
Trong ñó cần ưu tiên nhóm biện pháp sinh học vì ñây là biện pháp dễ làm, ít
tốn kém mà mang lại hiệu quả cao. Tác giả còn ñưa ra các biện pháp sinh học
bao gồm: Trồng xen các băng cây họ ñậu giữa các hàng cây trồng chính, cần
trồng xen các loại cỏ có thảm phủ tốt không tranh chấp dinh dưỡng ñối với

cây trồng chính, cần luân canh hợp lý, phối hợp với cây có bộ rễ ăn sâu với
cây có bộ rễ ăn nông, xen cây lương thực với cây chăn nuôi.
Trong canh tác cây trồng trên ñất dốc ngoài việc sử dụng các biện
pháp công trình như mương bờ, ruộng bậc thang thì biện pháp sinh học luôn
ñược áp dụng. Phổ biến như trồng cây bờ lô, hàng rào cây phân xanh, tận
dụng phế phụ phẩm ñể che phủ ñất, cụ thể trồng ngô, sắn, lúa nương xen các
loại ñậu ñỗ vừa thu ñược các sản phẩm của cây trồng xen vừa dùng tàn dư
thân lá, rễ làm vật liệu giữ ẩm và làm phân bón. (Nguyễn thị Dần, 1996)[1].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Đậu Cao lộc(1998)[12], canh tác
trên ñất dốc ở Hoà Bình cho thấy trong các biện pháp sử dụng băng chắn cho
các cây ngắn ngày ñã làm giảm dòng chảy trên bề mặt xuống so với không có
băng chắn là 58 - 69%, lượng ñất xói mòn giảm xuống còn 48 – 51%. Biện
pháp ñầu tư phân bón cho cây trồng cũng có tác dụng làm giảm xói mòn ñất
xuống 10%. Trong các cây trồng: sắn, ngô, lạc, ñậu ñen, ñậu hồng ñáo, lúa
nương trồng băng cốt khí, muồng hoa vàng, lượng nước trôi và mất ñất ít nhất
và năng suất thu ñược tăng cao nhất. Trong 6 năm nghiên cứu lượng nước trôi
3.932m
3
/ha(33%) và ñất mất 21,8tấn/ha/năm (31%) so với các cây trồng
thuần và năng suất cây trồng chính tăng từ 25 – 48%.
Theo Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (1997)[14] ,canh tác lúa nương
rẫy trên ñồi bón ñầy ñủ các loại phân: Phân chuồng, N, P, K ñã làm tăng năng
suất lúa lên rất ñáng kể. Sử dụng phân bón kết hợp với các biện pháp canh tác
như trồng cây theo ñường ñồng mức, trồng băng chắn cây muồng hoa vàng,
cốt khí có tác ñộng rất tích cức ñến việc bảo vệ ñất xói mòn, rửa trôi và năng
suất cây trồng tăng lên từ 25 – 47%.
14
Nếu như trên ñất ñồng bằng thâm canh quá trình thuộc hóa ñất là xu
thế chủ ñạo thì trên ñất dốc do quá trình canh tác bất hợp lý diễn ra từ lâu
trong những ñiều kiện bất lợi, quá trình thoái hoá ñất xãy ra phổ biến. Hiện

tượng thoái hoá này chủ yếu do con người gây ra qua quá trinh canh tác và
thiếu chiến lược khai thác trên quan ñiểm bảo vệ ñất, bảo vệ môi trường sinh
thái cho ngày nay và cho mai sau (Nguyễn Tử Siêm 1999)[19].
Phương thức phát rẫy làm nương theo tập quán quảng canh, ñộc
canh dọc theo sườn dốc là nguyên nhân chủ yếu làm suy thoái nguồn rừng,
nghèo kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và biến những vùng ñất phì nhiêu
trở thành những vùng ñất thoái hoá, bạc màu trơ sỏi ñá do xói mòn, rửa trôi.
Với tập quán canh tác như vậy, chỉ sau 5 năm sử dụng ñất, hàm lượng hữu
cơ giảm một cách ñáng kể, ñặc biệt là trồng cây ngắn ngày (Thái Phiên,
Nguyễn Tử Siêm, 1991) [13].
Lương Đức Loan và ctv (1991)[11] cũng có nhận xét: Chỉ sau 4-5 năm
canh tác lúa nương, sắn và ngô, tổng lượng chất hữu cơ trong ñất giảm 70%
so với lượng hữu cơ ban ñầu mới khai hoang. Hàm lượng hữu cơ mất ñã kéo
theo sự thoái hoá về lý tính ñất, khả năng thấm của ñất giảm.
Ở Tây Nguyên, ñối với ñất trồng lúa, ngô và trồng sắn do hậu quả
của du canh, ñồng thời canh tác theo tập quán của người dân, ñất bị xói mòn
hàng năm từ 119-246 tấn/ha và năng suất cây trồng ngày một giảm (Nguyễn
Xuân Quát, 1994)[17].
Lương Đức Loan và ctv (1986)[10], nhận xét rằng nếu quảng canh lúa
nương, sau 2 - 3 năm, thậm chí sau hơn một vụ, tầng ñất mặt mất khả năng canh
tác bởi các chất dinh dưỡng bị rửa trôi. Các cation kiềm, kiềm thổ trôi dần, trong
khi ñó hàm lượng sắt, nhôm trao ñổi tích luỹ dần (từ 2,44- 4,09 meq/100g ñất
tăng lên 8-12 meq/100g ñất) dẫn ñến ñất bị chua hoá.
Để sản xuất nông nghiệp có hiệu quả và sử dụng lâu bền ñất ñồi
thoái hoá thì cần phải sử dụng các phương pháp canh tác tổng hợp như: Luân
15
canh, xen canh, ñầu tư phân bón, sử dụng cây phân xanh giống họ ñậu làm
băng chắn ñể bảo vệ ñất giảm dòng chảy, giảm cường ñộ xói mòn, ñồng thời
làm tăng năng suất cây trồng, tăng hiệu quả kinh tế, Trần Đức Toàn, Huỳnh
Đức Nhân và ctv (1998) [24].

Nghiên cứu một số biện pháp canh tác hợp lý cho các cây trồng
chính tại huyện Cư Mgar- Dak Lak, Lê Phú Hanh (2003)[5] ñã nhận xét: Trên
ñất dốc ñối với cây hàng năm nói chung và cây ngô, lạc nói riêng, nếu canh
tác không có biện pháp bảo vệ ñất tốt thì mức ñộ xói mòn rất lớn, lớn hơn
nhiều các loại cây lâu năm. Do vậy trong quá trình canh tác nên sử dụng các
biện pháp trồng xen băng phân xanh ñể hạn chế tối ña lượng ñất trôi và dinh
dưỡng mất ñi do xói mòn. Bên cạnh ñó cần phải biết sử dụng những giống có
năng suất cao, phẩm chất tốt và có chế ñộ bón phân hợp lý.
Theo Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên ( 1993 – 1995)[20], trên vùng
ñất dốc Tây nguyên có thể dùng các loại cây phân xanh bảo vệ và cải tạo ñất
chống xói mòn, ñó là cây cốt khí, cây muồng hoa vàng và ñậu mèo thái lan.
Tác giả ñã nhận ñịnh về các ñặc tính ưu việt của từng loại cây: Cây cốt khí,
cây muồng hoa vàng thích nghi với mọi ñiều kiện của khí hậu, cây chịu hạn
tốt, thời gian sinh trưởng phát triển dài, cho sinh khối lớn 30 – 36tấn/ha. Hàm
lượng dinh dưỡng trong thân, lá, rễ rất cao do vậy hàng năm có khả năng cung
cấp một lượng dinh dưỡng lớn cho ñất. Đối với cây ñậu mèo Thái Lan có tốc
ñộ sinh trưởng phát triển mạnh, khả năng che phủ ñất nhanh, cung cấp một
lượng chất xanh lớn, rễ cây có nhiều nốt sần do vi khuẩn cố ñịnh ñạm tạo nên.
Cây sinh trưởng tốt trong mùa mưa, mùa nắng cây khô héo tạo thành một lớp
thảm phủ hữu cơ dày. Cây có tác dụng bảo vệ ñất chống xói mòn, hạn chế cỏ
dại, khả năng giữ ẩm tốt, cải thiện tính chất lý, hoá ñất.
Lạc dại, ñậu mèo, cỏ Ghinê, ñậu stylo, Cassia có giá trị sử dụng
cao và cũng có khả năng che phủ tốt nên có thể sử dụng ñể tiêu diệt ñược các
loài cỏ dại khác. Trên cơ sở ñó làm tăng năng suất cây trồng. Năng suất ngô
16
ñạt trên 4tấn/ha mà không phải làm cỏ, làm ñất. Năng suất lúa nương vượt
trên 15%, so với canh tác bình thường. Dưới tán cây trồng chính, lạc dại, ñậu
mèo, cỏ Ghinê, ñậu stylo, cassia vẫn phát triển tốt và cho sinh khối cao.
Ngoài ra các cây ñó còn cung cấp nhiều ñạm và lượng sinh khối hữu cơ lớn
cho ñất nên năng suất cây trồng vụ sau sẽ cao hơn vụ trước và giảm ñầu tư

phân bón (Lê Quốc Doanh, Hà Đình Tuấn 2006)[2]
Đinh Ngọc Lan và ctv (2000) [8], khi nghiên cứu ảnh hưởng của
một số loại cây dùng làm băng phân xanh (vetiver, cốt khí, ñậu công) ñến
khả năng bảo vệ ñất ñã ñưa ra kết luận: Đối với cây nông nghiệp ngắn ngày
như sắn, ngô, lúa nương, trồng băng cây xanh theo ñường ñồng mức chắn
xói mòn ñều có hiệu quả. Tuy nhiên, băng cỏ vetiver tỏ ra hữu hiệu hơn cả,
ñặc biệt là băng kép cỏ vetiver kết hợp với cốt khí ñã làm giảm xói mòn ñất
54,5% so với ñối chứng và năng suất cây trồng (sắn) tăng ổn ñịnh từ 2-2,9
tấn/ha bởi không chỉ chắn xói mòn tốt, mà còn bổ sung một lượng dinh
dưỡng ñáng kể từ thân lá cốt khí sau mỗi lần cắt tỉa hàng năm. Đối với lúa
nương, băng cốt khí trồng theo ñường ñồng mức ñã làm giảm ñáng kể lượng
nước chảy tràn và lượng ñất mất. Tuy nhiên, trồng băng cốt khí kết hợp băm
nhỏ thân lá cốt khí tủ trên bề mặt ñất có tác dụng tốt hơn, với phương pháp
này ñã làm giảm dòng chảy ñến 64%, do vậy lượng ñất mất ñã giảm ñến
57%. Chính những ưu ñiểm ñó năng suất lúa nương tăng một cách ổn ñịnh
từ 15- 20%.
Trong nghiên cứu canh tác truyền thống trên ñất dốc, với vấn ñề
sử dụng bền vững, Thái phiên, Mai Văn Trịnh, Elizabeth (1998) [15] nhận
xét: Các hình thức canh tác nương rẫy không có biện pháp cải tạo, bón phân,
bảo vệ ñất…làm ñất bị rửa trôi, xói mòn, năng suất cây trồng ngày một
giảm, sức sản xuất của ñất giảm sút. Vì vậy tác giả ñã kết luận: Trước sự
giảm sút về năng suất cây trồng, ñất ngày một bị nghèo kiệt thì người dân
cần áp dụng bón phân, ñồng thời kết hợp với những biện pháp chống xói
17
mòn, cụ thể ñối với ngô bón 30kg N/ha + 20kg K
2
O, năng suất ngô tăng lên
2,5tấn/ha so với không bón.
Đối với cây ngắn ngày, canh tác trên ñất dốc áp dụng các kỹ thuật
tiến bộ ñồng thời bón phân cho cây trồng chính, kết hợp trồng băng cây phân

xanh bảo vệ ñất ñã ñưa năng suất tăng từ 30 – 90% ñối với cây ngắn ngày như
lúa, ngô, lạc ñồng thời làm giảm lượng ñất xói mòn từ 20 – 60% so với
phương thức canh tác của nông dân. Như vậy vừa bón phân vừa trồng băng
cây xanh chống xói mòn là biện pháp kỹ thuật cho năng suất cây trồng và hiệu
quả kinh tế cao nhất (Trần thị Tâm, Thái Phiên, La Nguyễn 1998)[22].
Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm (2002)[16] có nhận xét: Biện pháp
sinh học tạo ra lớp phủ cây trồng có ý nghĩa quyết ñịnh trong việc giảm lượng
nước bị trôi và lượng ñất bị xói mòn xuống 50 - 60% so với ñối chứng. Năng
suất ngô, lúa tăng 15 - 25%, mặc dù hàng rào cây xanh họ ñậu chiếm khoảng
10% diện tích. Việc trả lại chất hữu cơ thông qua chất xanh cắt tỉa từ hàng rào
cây xanh và từ phụ phẩm cây trồng có tác dụng lớn vì có thể làm nguyên liệu
phủ ñất, tăng cường hữu cơ cho ñất, cải thiện ñộ phì nhiêu, chống xói mòn.
Nguyễn Thế Hùng và ctv (1999)[7], cho rằng kết hợp bón phân và
trồng băng chắn cây phân xanh, không chỉ tăng năng suất cho cây trồng mà
còn hạn chế ñược xói mòn, kể cả trồng lúa nương, sắn thuần nếu kết hợp bón
phân cũng làm cho cây phát triển nhanh, tốc ñộ ra lá cũng như tuổi thọ của lá
cao hơn nhiều so với ñối chứng không bón. Có nghĩa là bón phân làm cho tỷ
lệ che phủ cao hơn và duy trì lâu hơn, ñã làm giảm xói mòn một cách ñáng kể.
Nghiên cứu mô hình canh tác trên ñất dốc, Nguyễn Huệ, Thái Phiên,
Trần Đức toàn (1998)[6] ñã ñi ñến kết luận: Trên ñất dốc, một cơ cấu cây
trồng hợp lý với việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật hợp lý như cây ngắn
ngày có trồng băng cốt khí chống xói mòn ñất, sau vài năm năng suất ổn ñịnh
và bắt ñầu có chiều hướng tăng, ñồng thời hạn chế ñược khoảng 30% lượng
ñất trôi. Trồng băng cốt khí có xen thêm lạc, sản lượng cây trồng tăng 40 –
18
60% và lượng ñất trôi giảm từ 60 – 75%, bón phân khoáng sản lượng cây
trồng tăng gần 50% và lượng ñất trôi giảm hơn 50% so với canh tác truyền
thống của nông dân.
Theo Nguyễn Công Vinh, Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên, Nguyễn
Thị Mai (1998)[26]: Việc trồng xen lạc với các cây trồng khác, ñồng thời bón

phối hợp NPK và phân chuồng ñã mang lại hiệu quả ñáng kể. Đối với lạc,
ngô, lúa nương, sắn tăng 60 - 70% so với ñối chứng. Đồng thời ñất canh tác
luôn duy trì ñược ñộ phi nhiêu, giảm ñộ chặt của ñất.
Biện pháp canh tác truyền thống của nhân dân ñịa phương là trồng
thuần không ñầu tư hay ñể ñất trống thì lượng nước trôi và ñất mất rất lớn
trung bình hàng năm 2.700 - 3.700m
3
nước trôi/ha, 2,1 - 2,7 tấn ñất mất/ha.
Các biện pháp có ñầu tư phân bón thấp hoặc cao kết hợp trồng xen băng cốt
khí hoặc kết hợp trồng xen keo lá tràm ở tầng cao lượng nước trôi giảm xuống
chỉ còn 56 - 59%, ñất mất 37 - 45% so với ñất trống (Nguyễn Văn Trường,
1994)[25]
Đất bazan ở Tây nguyên năm ñầu khai phá rừng hàm lượng hữu
cơ trong ñất từ 5,5 - 6,2%, nhưng sau 5 năm canh tác lúa, ngô, không ñầu tư
phân bón cũng như không có biện pháp bảo vệ ñất lượng hữu cơ trong ñất
chỉ còn lại 1,8 - 2,3%. Nghiên cứu trên ñất phiến thạch sét (Phú Thọ) cũng
cho kết qủa tương tự: hàm lượng hữu cơ trong ñất ban ñầu là 3,5%, sau 5
năm trồng lúa nương, ngô, sắn, không bón phân lượng hữu cơ chỉ còn lại
0,9%, ñất không còn khả năng sản xuất (Thái Phiên, Trần Đức Toàn, 1997)
[14].




19
CHƯƠNG 2

ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Đất: Nâu ñỏ bazan (Rhodic Ferralsols)
- Cây trồng: Ngô VN10
- Lúa: LC 93-1, Cúc ñịa phương
- Lạc: GV3
-Cây băng chắn bảo vệ ñất: Muồng hoa vàng (Crotalaria
Usaramoensis) và cốt khí (Tephrosia Candida)
- Phân bón: Urea 46%N; Lân tecmo 15%P
2
O
5
; Kali Clorua
60%K
2
O Thời gian nghiên cứu: 3 năm (2006 - 2008)
2.2. Mô tả ñiểm nghiên cứu:
Nghiên cứu ñược thực hiện tại xã Ia Dom, huyện Đức Cơ, Tỉnh Gia
Lai. Đây là vùng có khí hậu nhiệt ñới ẩm khá ñiển hình. Nhiệt ñộ trung bình
năm 24,4
0
C, tháng có nhiệt ñộ cao nhất là tháng 4 (34,6
0
C), tháng có nhiệt ñộ
thấp nhất là tháng 1 (15,1
0
C), biên ñộ nhiệt giữa ngày và ñêm là 7,0
0
C -
8,0
0
C. Tổng lượng mưa trung bình năm là 2.240 mm, tháng có lượng mưa lớn

nhất là tháng 9 (có năm ñạt 502 mm), tháng có lượng mưa thấp nhất là tháng
01 (có năm chỉ 2,20 mm). Độ ẩm không khí trung bình năm là 82%, tháng có
ñộ ẩm trung bình cao nhất là tháng 8 (91%), tháng có ñộ ẩm trung bình thấp
nhất là tháng 4 (68%)
Tổng diện tích ñất tự nhiên của xã là 14.159,00 ha, chiếm 19,74%
diện tích tự nhiên toàn huyện Đức Cơ, gồm 4 loại ñất chính: Đất nâu tím phát
triển trên ñá Bazan; Đất nâu ñỏ phát triển trên ñá Bazan; Đất nâu thẫm trên
sản phẩm phong hoá của ñá bọt và Bazan; Đất nâu vàng trên ñá Bazan. Ngoài
20
ra còn có các loại ñất khác như: Đất vàng ñỏ, ñất xám, ñất dốc tụ phân bổ
rải rác trên ñịa bàn xã. Nhìn chung ñất vùng Ia Dom thích hợp cho việc phát
triển mạnh cây công nghiệp dài ngày, cây lương thực thực phẩm và ñồng cỏ
chăn nuôi gia súc.
Tài nguyên nước trên ñịa bàn xã khá phong phú, có nhiều con suối
nhỏ hợp thành những dòng chảy. Tuy nhiên lượng nước phân bố không ñều,
mùa mưa chiếm trên 85% tổng lượng nước và mùa khô chỉ có khoảng 15%
lượng nước do ñó ñã xảy ra hạn cục bộ ở một số vùng gây thiệt hại cho sản
xuất. Trên ñịa bàn xã không có hồ lớn chứa nước phục vụ cho tưới tiêu cũng
như phát triển thuỷ sản.
Toàn xã có 4.118 người với 887 hộ, trong ñó Dân tộc Jrai chiếm
44,27%. Tốc ñộ phát triển dân số của xã còn cao, xấp xỉ 3,8%/ năm. Trình ñộ
dân trí không ñồng ñều và còn thấp nhiều so với bình quân của cả tỉnh Gia
Lai.
Cây trồng chủ yếu của xã là cây lương thực, thực phẩm như: lúa cạn, ngô,
sắn, ñậu các loại… Ngoài ra một số vùng trồng cây công nghiệp dài ngày
như: cao su, cà phê, hồ tiêu…
2.3. Nội dung nghiên cứu:
- Nghiên cứu ảnh hưởng các biện pháp canh tác ñến sinh trưởng,
năng suất lúa nương và ngô trên ñất dốc.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của biện pháp canh tác ñến ñộ phì nhiêu ñất .

2.4. Phương pháp nghiên cứu:
2.4.1. Bố trí thí nghiệm ñồng ruộng
- Thí nghiệm 1: Nghiên cứu biện pháp canh tác lúa nương bền vững trên ñất
dốc


21
Gồm 5 công thức như sau:
• T1: Lúa ñịa phương, không bón phân
• T2: Lúa ñịa phương + bón phân
• T3: LC 93-1 + bón phân,
• T4: LC 93-1 + bón phân + băng chắn
• T5: LC 93-1 + bón phân + có băng chắn + PPP
Chú thích:
+ Thời gian thí nghiệm: 2006 – 2007. Thời gian gieo:Đầu tháng 5
+ Địa ñiểm: Làng Bi, xã Ia Dom huyện Đức Cơ
+ Tiến hành trên ñất dốc: 10-15
o

+ Lúa ñịa phương dùng lúa Cúc
+ Mức phân bón: 90N-90P
2
O
5
-90K
2
O
+ Băng chắn cây muồng hoa vàng và cốt khí trồng ngang dốc với khoảng cách
5m/băng
+ PPP: phụ phế phấm ñược trả lại cho ñất

Thí nghiệm ñược bố trí theo khối ñầy ñủ ngẫu nhiên, nhắc lại 4 lần.
Diện tích ô cơ sở: 15m x 5m = 75m
2
, tổng diện tích

20 ô x 75m
2
= 1500m
2
.

Sơ ñồ bố trí thí nghiệm 1: Hướng trên dốc
LẦN NHẮC
I
T1 T2 T3 T4 T5
LẦN NHẮC
II
T4 T3 T5 T2 T1
LẦN NHẮC
III
T2 T5 T4 T1 T3
LẦN NHẮC
IV
T5 T1 T2 T3 T4
Hướng dưới dốc
22
- Thí nghiệm 2: Nghiên cứu biện pháp canh tác ngô bền vững trên ñất dốc
Gồm 4 công thức như sau:
• T1: Ngô thuần không bón phân (ñối chứng)
• T2: Ngô thuần, bón phân

• T3: Ngô xen lạc, phân bón, có băng chắn
• T4: Ngô xen lạc, phân bón, có băng chắn, trả lại PPP
Chú thích: + Thời gian thí nghiệm: 2006 – 2007. Thời gian gieo:Đầu tháng 5
+ Địa ñiểm:Thôn Mook Đen, xã Ia Dom huyện Đức Cơ
+ Tiến hành trên ñất dốc: 10-15
o

+ Giống ngô LVN10
+ Giống lạc: GV3
+ Mức phân bón: 90N-60P
2
O
5
-90K
2
O
+ Băng chắn muồng hoa vàng và cốt khí trồng ngang dốc, khoảng cách 5m/băng
+ PPP: phụ phế phấm ñược trả lại cho ñất
Thí nghiệm ñược bố trí theo khối ñầy ñủ ngẫu nhiên, nhắc lại 5 lần.
Diện tích ô cơ sở: 15m x 5m = 75m
2
, tổng diện tích

20 ô x 75m
2
= 1500m
2
.
Sơ ñồ bố trí thí nghiệm 2: Hướng trên dốc
LẦN NHẮC

I

T1

T2

T3

T4
LẦN NHẮC
II
T4 T3 T1 T2
LẦN NHẮC
III
T3 T2 T4 T1
LẦN NHẮC
IV
T4 T1 T2 T3
LẦN NHẮC
V
T2 T4 T3 T1
Hướng dưới dốc

23
- Thí nghiệm 3: Nghiên cứu công thức luân canh ngô
Gồm 4 công thức như sau
• T1: Ngô một vụ
• T2: Ngô hai vụ
• T3: Ngô vụ một, lạc vụ hai
• T4: Lạc vụ một, ngô vụ hai

Chú thích:
+ Thời gian thí nghiệm: 2006 – 2007. Thời gian gieo:Vụ 1 tháng 5 vụ 2 tháng 8
+ Địa ñiểm:Thôn Mook Đen, xã Ia Dom huyện Đức Cơ
+ Tiến hành trên ñất dốc: 10-15
o

+ Giống ngô LVN10
+ Giống lạc: GV3
+ Mức phân bón cho ngô: 90N-60P
2
O
5
-90K
2
O
+ Mức phân bón cho lạc: 30N-90P
2
O
5
-60K
2
O
Thí nghiệm ñược bố trí theo khối ñầy ñủ ngẫu nhiên, lần nhắc lại 5 lần.
Diện tích ô cơ sở: 15m x 5m = 75m
2
, tổng diện tích

20 ô x 75m
2
= 1500m

2
.
Sơ ñồ bố trí thí nghiệm 3: Hướng trên dốc
LẦN NHẮC
I
T1 T2 T3 T4
LẦN NHẮC
II
T3 T4 T1 T2
LẦN NHẮC
III
T2 T1 T4 T3
LẦN NHẮC
IV
T4 T2 T3 T1
LẦN NHẮC
V
T2 T4 T1 T3
Sau 2 năm nghiên cứu, tiến hành xây dựng mô hình kiểm chứng kết
quả thí nghiệm vào năm 2008, với thiết kế như sau:

×