Mục lục
lời nói đầu
Khi thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế cũ sang nền kinh tế thị tr-
ờng(KTTT) định hớng xã hội chủ nghĩa(XHCN), Việt Nam phải chấp nhận
những qui luật của nền KTTT. Và cạnh tranh là một quy luật khách quan, rất
cần thiết để phát triển kinh tế. Việt Nam đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn trong
quá trình phát triển kinh tế. Nhng ngoài những thành tựu đó thì nền kinh tế nớc
ta đang đối mặt với một khó khăn và thách thức khá quan trọng. Đó là khả năng
cạnh tranh của nền kinh tế nớc ta còn non yếu. Việt Nam cần phải nâng cao
năng lực cạnh tranh để có thể phát triển nền KTTT định hớng XHCN. Đặc biệt
1
cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp nhà nớc và t nhân.
Vì vậy mà chúng ta cần có một chính sách cạnh tranh đúng đắn.
Cạnh tranh là một cơ chế vận hành chủ yếu của nền KTTT, nó là động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển. Nhiều nớc trên thế giới đã vận dụng tốt qui luật cạnh
tranh vào phát triển kinh tế và đã đạt đợc nhiều thành tựu to lớn. Từ khi đổi mới
nền kinh tế chúng ta cũng đã áp dụng qui luật này và đã thu đợc một số thành
tựu: Đời sống nhân dân đợc cải thiện, xã hội phát triển hơn, kinh tế phát triển ổn
định những lợi ích ấy ch a phải là lớn lao nhng cũng đã giúp chúng ta định h-
ớng cho chính sách phát triển kinh tế.
Để có một môi trờng cạnh tranh lành mạnh đang là vấn đề quan trọng đợc
đặt ra với thực trạng hiện nay của nớc ta.
I. lí luận về cạnh tranh:
1. Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng(KTTT) là một tất yếu
khách quan
Hình thức đầu tiên của nền KTTT là kinh tế hàng hoá. Kinh tế h ng hoá
là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi
và buôn bán trên thị trờng. Nền KTTT là hình thức phát triển cao của nền kinh
tế hàng hoá, mà ở đó mọi yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất đều đ-
ợc qui định bởi thị trờng.
Trong sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào cũng muốn có đợc những
điều kiện thuận lợi trong quá trình sản xuất nh: thuê đợc lao động tay nghề cao
nhng lơng lại thấp, mua đợc nguyên vật liệu rẻ, có thị trờng tiêu thụ sản phẩm
2
tốt... Điều đó dẫn đến sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để nắm giữ lấy
những điều kiện thuận lợi ấy. Cạnh tranh là sự sống còn của các doanh nghiệp.
Muốn tồn tại đợc buộc các doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh của
mình bằng cách: nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp, giảm chi phí sản
xuất để cạnh tranh về giá cả, cải tiến khoa học kĩ thuật
Trong quá trình cạnh tranh các nguồn lực của xã hội sẽ đợc chuyển từ nơi
sản xuất kém hiệu quả đến nơi sản xuất có hiệu quả hơn. Tạo ra lợi ích xã hội
cao hơn, mọi ngời sẽ sử dụng những sản phẩm tốt hơn. Cạnh tranh đem lại sự đa
dạng của sản phẩm và dịch vụ. Do đó tạo ra nhiều lựa chọn hơn cho khách
hàng, cho ngời tiêu dùng.
Nh vậy cạnh tranh là một đặc trng cơ bản của nền KTTT. Cạnh tranh giúp
cho sự phân bổ nguồn lực xã hội có hiệu quả, đem lại ích lợi lớn hơn cho xã hội.
Cạnh tranh có thể đợc xem nh là quá trình tích luỹ về lợng để từ đó thực hiện
các bớc nhảy thay đổi về chất. Mỗi bớc nhảy thay đổi về chất là mỗi nấc thang
của xã hội, nó làm cho xã hội phát triển hơn, tốt đẹp hơn. Vậy sự tồn tại của
cạnh tranh trong nền KTTT là một tất yếu khách quan.
2. Chức năng của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng
Cạnh tranh xuất hiện cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.
Trong nền KTTT, cạnh tranh vừa là môi trờng, vừa là động lực cho sự phát triển
kinh tế. Do đó mà cạnh tranh đóng vai trò quan trọng trong nền KTTT thể hiện
qua một số chức năng sau:
Thứ 1: Cạnh tranh trong nền kinh tế có 2 loại cạnh tranh là cạnh tranh
trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành với nhau.
Việc cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong cùng một ngành là sự cạnh
tranh nhằm giành giật lấy những điều kiện có lợi cho sản xuất và tiêu thụ hàng
hoá để thu đợc lợi nhuận siêu ngạch. Kết quả của sự cạnh tranh này là hình
thành nên giá trị thị trờng của từng loại mặt hàng. Đó là giá trị của hàng hoá đ-
ợc tính dựa vào điều kiện sản xuất trung bình của toàn xã hội. Nếu nh doanh
nghiệp nào có điều kiện sản xuất dới mức trung bình sẽ bị lỗ. Còn những doanh
3
nghiệp có điều kiện sản xuất trên mức trung bình của xã hội sẽ thu đợc lợi
nhuận thông qua sự chênh lệch về điều kiện sản xuất.
Ngoài cạnh tranh trong nội bộ ngành còn có cạnh tranh giữa các ngành
với nhau. Đây là tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng khác
nhau. Mục đích của cạnh tranh này là tìm nơi đầu t có lợi hơn. Các doanh
nghiệp tự do di chuyển t bản của mình từ ngành này sang ngành khác. Cạnh
tranh này dẫn đến hình thành nên tỉ suất lợi nhuận bình quân, và giá trị hàng
hoá chuyển thành giá cả sản xuất.
Việc hình thành nên giá thị trờng của hàng hoá và tỉ suất lợi nhuận bình
quân là điều quan trọng trong nền KTTT. Với giá trị thị trờng của hàng hoá cho
biết doanh nghiệp nào làm ăn có lãi hoặc không có hiệu quả. Từ đó sẽ có những
thay đổi trong sản xuất để nâng cao năng suất lao động. Với tỉ suất lợi nhuận
bình quân cho biết lợi nhuận của các nhà t bản sẽ là nh nhau cho dù đầu t vào
những ngành khác nhau với lợng t bản nh nhau.
Thứ hai: Cạnh tranh giúp phân bổ lại nguồn lực của xã hội một cách hiệu
quả nhất. Các doanh nghiệp sản xuất cùng một loại hay một số loại hàng hoá
cạnh tranh nhau về giá cả, hình thức sản phẩm, chất lợng sản phẩm trong quá
trình cạnh tranh đó doanh nghiệp nào có điều kiện sản xuất tốt, có năng suất lao
động cao hơn thì doanh nghiệp đó sẽ có lãi. Điều đó giúp cho việc sử dụng các
nguồn nguyên vật liệu của xã hội có hiệu quả hơn, đem lại lợi ích cho xã hội
cao hơn. Nếu cứ để cho các doanh nghiệp kém hiệu quả sử dụng các loại nguồn
lực thì sẽ lãng phí nguồn lực xã hội trong khi hiệu quả xã hội đem lại không
cao, chi phí cho sản xuất tăng cao, giá trị hàng hoá tăng lên không cần thiết.
Thứ ba: Cạnh tranh điều tiết cung, cầu hàng hoá trên thị trờng, kích thích
thúc đẩy việc ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất và tăng vốn
đầu t vào sản xuất trên thị trờng:
Khi cung một hàng nào đó lớn hơn cầu hàng hoá thì làm cho giá cả của
hàng hoá giảm xuống, làm cho lợi nhuận thu đợc của các doanh nghiệp sẽ giảm
xuống. Nếu nh giá cả giảm xuống dới mức hoặc bằng chi phí sản xuất thì doanh
nghiệp đó làm ăn không có hiệu quả và bị phá sản. Chỉ có những doanh nghiệp
4
nào có chi phí sản xuất giá cả thanh toán của hàng hoá thì doanh nghiệp đó mới
thu đợc. Điều đó buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại đợc thì phải giảm chi phí
sản xuất hàng hoá, nâng cao năng suất lao động bằng cách tích cực ứng dụng đa
khoa học công nghệ tiên tiến vào trong quá trình sản xuất.
Ngợc lại, khi cung một loại hàng hoá nào đó nhỏ hơn cầu hàng hoá của
thị trờng điều đó dẫn đến sự khan hiếm về hàng hoá điều này dẫn tới giá cả của
hàng hoá tăng cao dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng lên, điều này
kích thích các doanh nghiệp sẽ nâng cao năng suất lao động bằng cách ứng
dụng khoa học - công nghệ tiên tiến hoặc mở rộng qui mô sản xuất để có đợc l-
ợng hàng hoá tung ra thị trờng. Điều này làm tăng thêm vốn đầu t cho sản xuất,
kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Điều này quan trọng là
động lực này hoàn toàn tự nhiên không theo và không cần bất kỳ một mệnh
lệnh hành chính nào của cơ quan quản lý nhà nớc.
Thứ t: Cạnh tranh trong nền kinh tế thị trờng không chỉ có cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp sản xuất với nhau mà còn có sự cạnh tranh giữa những
ngời lao động với nhau, để có đợc một nơi làm việc tốt, công việc phù hợp. Điều
đó khiến cho mọi ngời trong xã hội luôn luôn phải nâng cao trình độ tay nghề
của mình. Với ý nghĩa đó cạnh tranh làm cho con ngời ta hoàn thiện hơn, cạnh
tranh đóng góp một phần trong việc hình thành nên con ngời mới trong xã hội
mới thông minh, năng động và sáng tạo.
Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau tất yếu sẽ dẫn đến có kẻ
thắng và ngời thua. Kẻ mạnh càng ngày càng mạnh lên nhờ làm ăn hiệu quả. Kẻ
yếu thì bị phá sản. Sự phá sản của các doanh nghiệp không hoàn toàn mang ý
nghĩa tiêu cực. Bởi vì có nh vậy thì các nguồn lực của xã hội mới đợc chuyển
sang cho những nơi làm ăn hiệu quả. Việc duy trì các doanh nghiệp kém hiệu
quả sẽ dẫn đến sự lãng phí các nguồn lực xã hội. Do đó muốn có hiệu quả sản
xuất của xã hội cao buộc chúng ta phải chấp nhận sự phá sản của những doanh
nghiệp yếu kém. Sự phá sản này không phải là sự huỷ diệt hoàn toàn mà đó là
sự huỷ diệt sáng tạo.
3. Những điều kiện tạo nên cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh:
5
a) Điều kiện về các yếu tố pháp lý - thể chế đối với hoạt động kinh
doanh
Ngày nay trong quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng thì các thể chế
pháp lý không chỉ do nhà nớc ban hành mà còn đợc ban hành bởi các tổ chức
kinh tế quốc tế ban hành. Yếu tố pháp lý - thể chế là nhân tố quan trọng hình
thành nên môi trờng kinh doanh. Mỗi yếu tố pháp lí - thể chế đều tác động vào
một lĩnh vực nhất định trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các chủ thể kinh
tế muốn tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nào đều
phải dựa vào các thể chế - pháp lí đã đợc ban hành đối với lĩnh vực đó để tham
gia hoạt động kinh tế. Mặc dù chỉ có định hớng trong một lĩnh vực nhất định,
song trong một nền kinh tế thống nhất để tạo nên sự hoạt động đồng bộ cho
guồng máy kinh tế thì các yếu tố thể chế - pháp lí này đều phải đảm bảo các
điều kiện sau:
Thứ nhất: Đảm bảo sự đồng bộ trong toàn bộ hệ thống thuộc mọi lĩnh vực
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. Nh vậy mọi lĩnh vực
của hoạt động sản xuất kinh doanh đều đợc điều chỉnh bởi các thể chế - pháp lí.
Thứ hai: Các thể chế - pháp lí do Nhà nớc ban hành phải phù hợp với tình
hình thực tế để có hiệu quả cao trong việc điều chỉnh hoạt động sản xuất kinh
doanh. Ngoài ra các qui định này phải rõ ràng, dễ hiểu, tránh việc hiểu theo
nhiều nghĩa hớng khác nhau, điều đó sẽ dẫn đến những hậu quả trầm trọng.
Việc ban hành các thể chế - pháp lí này sát với thực tế, không rõ ràng thì không
những thực hiện đợc mục đích mà còn gây thêm ra những hoạt động sai lệch,
làm đảo lộn trật tự.
Thứ 3: Hiệu lực pháp luật của các qui định pháp lí - thể chế phải thống
nhất trong việc điều chỉnh các hành vi kinh tế, không đợc có sự phân biệt đối xử
khi thực hiện các qui định. Việc này sẽ tạo nên tính công bằng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu lực của các qui định.
b) Điều kiện trong chỉ đạo, điều hành nền kinh tế quốc dân
Nhà nớc dựa vào các qui định để điều hành quản lý nền kinh tế trong mọi
hoạt động sản xuất kinh doanh. Vai trò của quản lý, chỉ đạo giám sát thực hiện
6
các qui định pháp lí là hết sức quan trọng, nó đảm bảo cho việc các qui định
pháp lí - thể chế đợc thực hiện. Do vai trò hết sức quan trọng đó mà việc quản lý
kinh tế của nhà nớc đòi hỏi bộ máy quản lý nhà nớc phải có đủ trình độ chuyên
môn, năng lực trong quản lý kinh tế. Trong nền KTTT với môi trờng cạnh tranh
gay gắt, việc các công ty hoặc các tổ chức độc quyền hình thành là điều dễ
dàng. Do vậy để chống độc quyền và tạo nên sự cạnh tranh thì với bộ máy quản
lý kinh tế non kém thì nhà nớc sẽ không thể quản lí đợc nền kinh tế. Điều này
sẽ gây ra việc làm thất thoát, lãng phí tài sản quốc gia, tình hình kinh doanh bất
ổn định, tạo điều kiện cho các tổ chức độc quyền hình thành. Thực tế ở Việt
Nam cho thấy: Trong xây dựng cơ bản việc đầu t dàn trải không có trọng điểm
gây lãng phí vốn đầu t. Trong các dự án, công trình xây dựng việc thất thoát vốn
là rất lớn do việc câu kết thông đồng với nhau giữa các chủ đầu t và xây dựng.
Tất cả các điều trên phần lớn là do bộ máy quản lý còn non kém, cha đa ra đợc
những qui định pháp lí - thể chế để điều chỉnh các hoạt động kinh tế. Việc các
nhà kinh doanh xuất nhập khẩu thuốc đầu cơ, thông đồng với nhau tạo ra sự
khan hiếm giả tạo để đẩy giá thuốc lên cao. Điều này cũng tơng tự đối với thị tr-
ờng bất động sản.
Ngày nay quá trình hội nhập kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới
nên việc nâng cao năng lực quản lý kinh tế là điều kiện hết sức quan trọng để
tạo nên môi trờng cạnh lành mạnh.
c) Điều kiện về trình độ văn hoá, đạo đức xã hội của nhân dân và các
chủ thể kinh doanh
Các chủ thể kinh tế là đối tợng tác động của các văn bản pháp lí - thể chế.
Nhà nớc ban hành và giám sát, chỉ đạo các chủ thể kinh tế thi hanh các qui định
của văn bản pháp lí - thể chế. Để các qui định đợc thực hiện tốt thì ngoài vai trò
quản lí tốt của Nhà nớc còn có hành vi thực hiện của các chủ kinh doanh và
nhân dân. ý thức thực hiện các qui định văn bản của các chủ thể khi tham gia
hoạt động kinh tế là điều kiện đủ để tạo nên cạnh tranh và chống độc quyền
trong kinh doanh. Năng lực của các cơ quan quản lí là có hạn cho nên trong quá
trình quản lý không thể không mắc sai lầm, thiếu sót. Đó sẽ là điều kiện tốt cho
7
những tình trạng cạnh tranh không lành mạnh. Trong những tình huống nh vậy
để tạo nên cạnh tranh lành mạnh và chống độc quyền rất cần có tinh thần, ý
thức của các chủ thể kinh doanh cũng nh của nhân dân. Tinh thần trách nhiệm,
ý thức tốt của các chủ thể kinh doanh góp phần nâng cao hiệu quả quản lý của
các cơ quan quản lý.
II. Thực trạng cạnh tranh ở Việt Nam
1. Những thay đổi về nhận thức đối với cạnh tranh:
Sau khi đất nớc thống nhất, cả nớc bắt tay vào công cuộc xây dựng đất n-
ớc, đa đất nớc tiến lên Chủ nghĩa xã hội. Nhng mô hình kinh tế sau chiến tranh
là nền kinh tế tập trung bao cấp, của cải xã hội bị tàn phá nặng nề. Việc áp dụng
mô hình kinh tế này trong chiến tranh đã đem lại hiệu quả cao, và đợc coi nh
mô hình u việt. Nhng trong thời bình, nó đã không còn phù hợp và Việt Nam đã
phải trả giá cho việc áp dụng nền kinh tế này đó là: nền kinh tế suy thoái trầm
trọng: Chi vợt thu, lạm phát cao, tiền mất giá, phơng tiện kĩ thuật lạc hậu, chậm
đợc đổi mới, năng lực sản xuất non kém. Trong nền kinh tế cũ - nền kinh tế tập
trung bao cấp thì mọi hoạt động kinh tế của xã hội đều do Nhà nớc đảm nhiệm,
nhà nớc bao tiêu hết quá trình sản xuất của các doanh nghiệp kể cả việc tiêu thụ
sản phẩm. Các doanh nghiệp cứ chỉ thực hiện theo kế hoạch của nhà nớc để sản
xuất, không cần phải cạnh tranh. Nó khiến cho sản xuất ì ạch, không có sự năng
động,tích cực trong sản xuất. Điều đó gây ra lãng phí nguồn lực xã hội.
Yêu cầu phát triển xây dựng đất nớc buộc chúng ta phải chuyển đổi nền
kinh tế cũ sang nền KTTT nhng chịu sự quản lý của Nhà nớc. Đó là nền KTTT
định hớng XHCN. Nền KTTT với qui luật cạnh tranh đã không còn chỗ cho sự ỉ
lại, trông chờ vào bao cấp, nó buộc các chủ thể kinh tế phải hoạt động để giữ
lấy vị trí tồn tại trong nền kinh tế. Do tính chất khắc nghiệt của cạnh tranh nên
việc yêu cầu nhận thức về cạnh tranh một cách đúng đắn là điều cần thiết. Cùng
với quá trình đổi mới, cạnh tranh theo pháp luật đã dần dần đợc chấp nhận ở n-
ớc ta nh một động lực đảm bảo hiệu quả, tiến bộ xã hội, nhng chịu sự điều tiết
của nhà nớc. Đảng và Nhà nớc ta đã ban hành một số văn bản pháp lí điều chỉnh
hành vi có liên quan đến cạnh tranh trên thị trờng.
8