Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Báo cáo môn Đầu tư tài chính ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.18 MB, 57 trang )

Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
Báo cáo môn Đầu tư tài chính
Nhóm 18 Trang
1
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Đầu tư vào đúng danh mục thị trường tốt là điều mà tất cả nhà đầu
tư nào cũng mong muốn.
Để xác định đúng giá cổ phiếu của một doanh nghiệp, nhà phân
tích chứng khoán cần dự đoán cổ tức và thu nhập dự kiến của doanh
nghiệp đó. Nhưng viễn cảnh của doanh nghiệp lại phụ thuộc vào viễn
cảnh của nền kinh tế, do vậy các quá trình phân tích đánh giá cũng phải
xem xét môi trường kinh doanh mà trong doanh nghiệp đó hoạt động. Đối
với một số doanh nghiệp, các tình huống của kinh tế vĩ mô và ngành có
thể ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của chúng.
Khi phân tích viễn cảnh của một doanh nghiệp. Chúng ta thường
bắt đầu bằng môi trường kinh tế chung, nghiên cứu tổng hợp tình trạng
của nền kinh tế, thậm chí cả nền kinh tế quốc tế. Trên cơ sở đó, xem xét
các điều kiện của môi trường chung quanh đối với ngành mà doanh
nghiệp dang hoạt động trong đó. Cuối cùng, xem xét vị trí của doanh
nghiệp trong phạm vi ngành.
Phân tích ngành cũng quan trọng như phân tích kinh tế vĩ mô. Một doanh
nghiệp thuộc ngành đang gặp khó khăn khi hoạt động tốt, cũng như một
ngành khó hoạt động tốt trong một nền kinh tế vĩ mô đang suy sụp.
Một khi nhà phân tích dự báo tình trạng của nền kinh tế vĩ mô thì
cần thiết phải áp dụng dự báo đó cho các ngành cụ thể vì không phải mọi
ngành đều có đọ nhạy cảm như nhau đối với chu kỳ kinh doanh.
Tuy nhiên, ngoài môi trường toàn cầu còn có vấn đề rủi ro về
chính trị. Những vấn đề chính trị khác tuy ít nhạy cảm hơn nhưng cũng
cực kì quan tọng đối với tăng trưởng kinh tế và lợi nhuận đầu tư là vấn đề


Nhóm 18 Trang
2
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
chính sách bảo hộ mậu dịch, sự lưu chuyển tự do của vốn và tình trạng
của lực lượng lao động ở một nước
Một số yếu tố khác cũng quan trọng và có ảnh hưởng đến tính
cạnh tranh của các ngành trong nước là tỷ giá ngoại hối giữa đồng bản tệ
với các loại tiền tệ khác.
Trên đây là những yếu tố chúng ta cần phân tích để xác định được những
danh mục tốt nhất để đầu tư.
A. Phân tích vĩ mô :
I. Kinh tế thế giới :
1. Tình hình kinh tế thế giới trong thời gian qua :
a) GDP:
- Năm 2009, nền kinh tế thế giới đã trải qua một năm vô cùng khó khăn. Trước việc
toàn bộ hệ thống tài chính thế giới gần như suy sụp, các nhà phân tích nhận định năm
2009 là năm mà lần đầu tiên toàn cầu bị suy thoái trầm trọng kể từ sau cuộc Đại suy
thoái hồi thập niên 30 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, cho đến nay, khi cuộc khủng hoảng
đã lùi lại phía sau, thực tế thì hậu quả của nó cũng không quá nặng nề như người ta đã
từng lo ngại, bởi Chính phủ các nước đã can thiệp kịp thời bằng nhiều biện pháp như:
Cắt giảm lãi suất cơ bản, rót thêm các gói cứu trợ vào nền kinh tế, triển khai nhiều
chương trình kích thích tiêu dùng khiến nền kinh tế toàn cầu trở nên khả quan hơn.
- Năm 2009 là một năm có nhiều biến động trong kinh tế thế giới. Đầu năm kinh tế
thế giới phải đối mặt với triển vọng rất xấu của hàng loạt dự báo tiêu cực. Với nỗ lực
của chính phủ các nước và các định chế tài chính quốc tế nhằm chèo lái các nền kinh
tế thoát khỏi khó khăn, kinh tế thế giới đã có dấu hiệu khởi sắc từ giữa quý 2/2009.
Hiện nay kinh tế thế giới vẫn tiếp tục khẳng định đà phục hồi với tăng trưởng theo
quý dương trở lại tại nhiều nước, đặc biệt tại các khu vực kinh tế lớn như Mỹ, khu
vực đồng tiền chung Châu Âu (EU) và Nhật. Đồng thời, tăng trưởng sản xuất công
nghiệp, giao thương quốc tế và dấu hiệu tiêu dùng cũng có dấu hiệu phục hồi so với

thời điểm đầu năm. Hơn nữa, niềm tin người tiêu dùng trở lại tại nhiều nước và khu
vực kinh tế lớn góp phần tạo nên nền tảng cơ bản cho chặng đường hồi phục trở lại
của kinh tế thế giới. Vì vậy tăng trưởng GDP toàn cầu đã được IMF đã nâng lên mức
tăng trưởng -1,4% lên -1,1% trong năm 2009 và mức 2,5% lên mức 3,1% trong năm
2010.( Phòng Phân tích và Nghiên cứu VCBS).
- Thâm hụt ngân sách và nợ công tăng cao tại nhiều nước khiến tính bất ổn trong hệ
thống tài chính toàn cầu gia tăng. Tình đến cuối tháng 11/2009, thâm hụt ngân sách
của Mỹ đã ở mức 1.381 tỷ USD tương đương khoảng 7,8% GDP, cao hơn gần gấp 2
lần so với mức thâm hụt cao nhất trong 20 năm gần đây. Vì vậy xếp hạng nợ AAA
của Anh và Mỹ đang được tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody và Standard & Poor’s
xem xét điều chỉnh giảm. Bên cạnh đó sự việc Dubai đối mặt với nguy cơ vỡ nợ vào
cuối tháng 11 vừa qua và Hi Lạp bị hạ xếp hạng tín nhiệm xuống mức BBB+ ngay
Nhóm 18 Trang
3
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
sau đó do tỷ lệ nợ công cao và được dự kiến lên mức 125% GDP vào năm 2010 là lời
cảnh báo đối với hệ thống tài chính toàn cầu vẫn đang trong giai đoạn phục hồi yếu ớt
sau cuộc khủng hoảng bắt nguồn tại Mỹ năm 2008. Do đó năm 2010 để đảm bảo tính
ổn định vĩ mô hỗ trợ cho đà phục hồi và điều chỉnh chính sách tài khóa để cân đối dần
ngân sách quốc gia.
- Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu vừa qua đã đưa vai trò của Chính phủ trở về
với vị thế chủ đạo trong việc điều hành nền kinh tế thị trường. Sau hàng loạt các nỗ
lực trong việc nới lỏng tiền tệ mà cụ thể là duy trì mặt bằng lãi suất tại mức thấp kỷ
lục, đẩy mạnh chi tiêu công với mục tiêu kích cầu nội địa, Chính phủ các nước dường
như đã bước đầu thành công trong việc ngăn chặn suy thoái, đưa nền kinh tế toàn cầu
đi vào giai đoạn phục hồi. Mỹ đã bắt đầu tăng trưởng dương với tốc độ 2,8% trong
quý IV/2009 sau bốn quý suy giảm liên tiếp. Trong khi đó, tại Châu Âu, mặc dù dấu
hiệu phục hồi kinh tế có phần mờ nhạt bởi vấn đề nợ công đang lan rộng ra nhiều
nước, tuy nhiên việc tốc độ tăng trưởng dương kéo dài từ quý II/2009 đã củng cố cho
nhận định suy thoái đã rời xa khu vực này. Tuy nhiên, quá trình phục hồi của kinh tế

toàn cầu lại đang được dẫn dắt bởi khu vực Châu Á, đặc biệt là các nước mới nổi.
Malaysia vừa công bố mức tăng trưởng GDP trong quý 4/2009 tại mức 4,5%. Kinh tế
Hồng Kông trong cùng kỳ cũng tăng 2,3%, Đài Loan tăng ấn tượng 9,2% và Thái Lan
tăng 5,8%. Trước đó, Trung Quốc cũng đã công bố mức tăng trưởng GDP trong quý
4/2009 là 10,7%.
Số liệu GDP các nước năm 2008, 2009
Nước GDP 2008 GDP 2009
Nhật Bản
4,923,761 4,992,846
Trung Quốc
4,401,614 5,434,903
Ấn Độ
1,209,686 1,185,726
Úc
1,010,699 755,066
Hàn Quốc
947,010 552,180
Thái Lan
273,248 268,581
Malaysia
222,219 212,480
Singapore
181,939 176,543
Philippines
168,580 156,441
Việt Nam
89,829 89,200
Nguồn: Wikipedia®
Kết luận: VN cũng có nhiều chính sách để phục hồi nền kinh tế: hỗ trợ các gói kích
cầu hàng triệu đôla, cho vai ưu đãi với lãi suất thấp giúp phát triển các ngành công

nghiệp then chốt. ( Nguồn VCBS )
b) Thâm hụt ngân sách:
Nhóm 18 Trang
4
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
Thâm hụt ngân sách của các quốc gia đang ở mức báo động. Năm 2009 đa số các
nước trên thế giới sẽ có mức thâm hụt ngân sách chạm mức từ 4 đến 5% GDP trong
khi mức an toàn của Mỹ và Châu Âu chỉ là 3%.
c) Lãi suất:
Trước diễn biến xấu đi của kinh tế thế giới, chính sách kích cầu đã được nhiều nước
áp dụng từ cuối năm 2008 và đầu năm 2009, bên cạnh việc mở rộng chi tiêu công và
miễn giảm thuế, chính sách nới lỏng tiền tệ mà công cụ chính là cắt giảm lãi suất đã
và đang được tiến hành triệt để tại nhiều quốc gia với mục tiêu kích thích tiêu dùng
nội địa và hỗ trợ các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn. Tính đến thời điểm
cuối tháng 6, lãi suất cơ bản bình quân của các nước phát triển giảm khoảng 54% so
với cuối năm 2008, tương ứng tại Châu Á là 25%, Châu Mỹ Latin là 45% và Đông Âu
là 8,5%.
Nguồn: VCBS thu thập
d) Tỷ lệ thất nghiệp:
Với những tín hiệu khả quan từ kinh tế vĩ mô, chỉ số niềm tin người tiêu dùng Mỹ
cũng có xu hướng tăng trở lại góp phần thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng trong nước.
Mặc dù vậy, tăng trưởng sản xuất công nghiệp theo tháng tại Mỹ vẫn tiếp tục giảm
1,1% trong tháng 5 vừa qua. Đồng thời số người thất nghiệp tại nền kinh tế lớn nhất
thế giới vẫn đang tiếp tục tăng cao. Tính đến cuối tháng 6 tỷ lệ thất nghiệp đã lên tới
9,5% và được dự báo lên mức 10% đến 11% vào cuối năm. Đây sẽ là rào cản đối với
chính sách kích cầu của Chính phủ Mỹ trong thời gian tới nếu không có biện pháp
tích cực hơn nhằm cải thiện tình trạng này.Nguồn: VCBS thu thập
e) Lạm phát:
Việc áp dụng chính sách nới lỏng tiền tệ kéo dài đã khiến cho lượng cung tiền trong
lưu thông tăng đột biến, kéo theo mặt bằng giá cả hàng hóa. Trong khi đó, giá nguyên

nhiên vật liệu cũng được dự báo sẽ tăng mạnh trở lại sau một thời gian dài suy giảm.
Theo đó, nguy cơ lạm phát tăng cao trở lại tại một số khu vực kinh tế trên thế giới vào
cuối năm 2009 và đầu 2010 là hoàn toàn có thể nếu Chính phủ các nước không có các
biện pháp điều chỉnh chính sách tiền tệ hợp lý.
Những tiến trình hướng tới các giải pháp hòa bình ở Trung Đông sẽ dẫn đến sự tăng
trưởng nhanh của các nền kinh tế ở trong khu vực.( Nguồn VCBS )
 Tình hình thị trường cao su trên thế giới:
- Trong những năm gần đây, sản xuất và xuất khẩu cao su của Việt Nam có tốc độ
phát triển nhanh chóng. Hiện cao su Việt Nam đã xuất khẩu sang 45 nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới như Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan
- Hiện Trung Quốc vẫn giữ vị thế là nước tiêu thụ cao su lớn nhất thế giới và là thị
trường dẫn đầu về xuất khẩu cao su của Việt Nam năm 2009, đạt 510.245 tấn với kim
ngạch 856,7 triệu USD, chiếm 69,8% tổng lượng cao su xuất khẩu cả nước, tăng
18,4% về lượng nhưng giảm 19% so với cùng kỳ năm 2008. Do vậy, cần duy từ thị
trường truyền thống này bên cạnh việc đa dạng hóa thị trường để phòng chống rủi ro
trong xuất khẩu cao su. Giá cao su xuất khẩu sẽ tiếp tục được duy trì hoặc tăng. Dự
đoán giá dầu thô, một sản phẩm thay thế của cao su tự nhiên, sẽ tăng khi nền kinh tế
hồi phục sau khủng hoảng. Trong năm 2008, giá cao su thiên nhiên tăng lên mức
3.120 USD/tấn tại thị trường hàng hóa New York. Sang những tháng đầu năm 2009,
giá các loại hàng hóa bắt đầu suy giảm và đạt mức thấp nhất vào tháng 6/2009, giá
dầu và giá cao su thiên nhiên giảm hơn 50% so với mức đỉnh.
- Đến cuối năm 2009, thị trường hàng hóa có dấu hiệu hồi phục trở lại, khi giá dầu
thời điểm cuối năm tăng lên mức trên 75 USD/thùng, giá cao su thiên nhiên cũng tăng
2.470 USD/tấn. Hiện tại, giá cao su vẫn tiếp tục có xu hướng tăng nhẹ, tháng 1/2010,
giá cao su xuất khẩu đang dao động quanh mức 2.600 USD/tấn. Dự báo, trong năm
Nhóm 18 Trang
5
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
2010, giá cao su thiên nhiên có thể tăng 20 - 25% so với cuối năm 2009 theo đà hồi
phục của kinh tế thế giới và các tập đoàn sản xuất mô bước qua giai đoạn khủng

hoảng, do đó nhu cầu tiêu thụ cao su toàn cầu sẽ tăng khoảng 4,3% hàng năm từ nay
cho đến năm 2013. (VCBS )
 Tình hình thị trường thép trên thế giới:
- Trong 5 tháng đầu năm 2009, tổng sản lượng thép thô sản xuất trên thế giới đạt
447,8 triệu tấn, giảm 22,6% so với cùng kỳ năm 2008; trong đó: Trung Quốc vẫn
đóng vai trò quan trọng nhất trong ngành công nghiệp thép thế giới. Tổng sản lượng
thép thô Trung Quốc sản xuất trong 5 tháng đầu năm nay đạt 216,6 triệu tấn, tăng
0,4% so với cùng kỳ và chiếm đến 48,4% tổng sản lượng toàn cầu. Trái với xu hướng
giảm giá và nhu cầu tiêu thụ khá thấp trong quý 1, thị trường thép thế giới bắt đầu
khởi sắc từ cuối tháng 04-2009. Hiện nay giá phôi thép trên thị trường thế giới đạt 450
USD/tấn, tăng 15,4% so với mức 390 USD/tấn trung bình trong quý 1. Nhìn chung,
giá thép ở hầu hết các nước trên thế giới thời gian qua đều theo xu hướng tăng, do nhu
cầu tiêu thụ bắt đầu được cải thiện phần nào, đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng và sản
xuất ôtô. Bên cạnh đó, giá các nguyên liệu đầu vào như thép phế, quặng sắt, dầu và
than cốc cũng tăng lại trong thời gian qua, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thép
tăng giá. Ngoài ra, giá tăng còn do hoạt động dự trữ nguyên liệu và thép bán thành
phẩm của các doanh nghiệp trước dự đoán giá thép sẽ còn khả năng tăng thêm trong
thời gian tới.Tốc độ tăng trưởng GDP 2009 của Trung Quốc gần đây được đánh giá
lại khá lạc quan khi tăng từ 6% lên 8% nhờ vào các chính sách kích cầu của chính phủ
là cơ sở quan trọng cho tăng trưởng nhu cầu tiêu thụ thép ở Trung Quốc trong năm
nay. Dự kiến với tốc độ tăng trưởng này, tổng nhu cầu tiêu thụ thép nội địa của Trung
Quốc sẽ hơn 510 triệu tấn thép thô, tăng 7,4% so với mức 475 triệu tấn trong năm
ngoái. Khi tiêu thụ nội địa có xu hướng tăng mạnh trong nửa cuối năm 2009, các lo
ngại về tình trạng dư cung thép Trung Quốc sẽ phần nào được giảm bớt. Xuất khẩu
thép của Trung Quốc ra thế giới cũng sẽ không tăng mạnh, là một nhân tố tích cực
làm giảm áp lực cạnh tranh trực tiếp cho các nước khác.
Dự đoán nhu cầu tiêu thụ thép thế giới trong năm 2009 sẽ vào khoảng 1,21 tỷ tấn,
giảm 10,2% so với năm 2008. Tuy nhiên, giá thép thế giới được dự đoán sẽ giảm nhẹ
trong quý 3 và sẽ hồi phục lại vào cuối năm do nhu cầu của Trung Quốc tăng mạnh
trong khi xuất khẩu của nước này giảm. Đồng thời, tiêu thụ ở các nước Châu Á, Châu

Âu và Mỹ cũng sẽ tiếp tục hồi phục nhẹ trong nửa cuối 2009.
Kết luận: Nhờ các chính sách kích thích kinh tế của thế giớ giúp niềm tin của người
tiêu dung tăng cao, tiêu thụ nhiều hơn giúp nhiều ngành phát triển, kinh tế thế giới
phát triển. Sau khủng hoảng nhu cầu của nhiều ngành hiện nay đang có su hướng tăng
trở lại cùng đà phục hồi của nền kinh tế thế giới, trong đó các ngành công nghiệp
nặng phát triển mạnh như ngành sản xuất sắt thép, sản xuất oto… Ngành ôt phát triển
mạnh để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và sản xuất ngayf càng gia tăng, kéo theo
nhiều ngành khác phát triển như cao su săn lốp, thép… ( Nguồn VCBS )
2. Dự báo kinh tế thế giới năm 2010:
- Vậy năm 2010 đã bắt đầu, kinh tế thế giới sẽ ra sao? Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) thì kinh tế thế giới năm 2010 sẽ tăng trưởng 3,1%, cao hơn so với mức
1,1% của năm 2009, song vẫn thấp hơn nhiều so với mức trên 5% của hai năm 2006,
2007 và các mức 4,9% và 4,5% của năm 2004, 2005. Còn theo dự báo của LHQ thì
năm 2010 nền kinh tế thế giới có thể đạt mức tăng trưởng 2,4%, tuy nhiên sự phục hồi
này còn rất mong manh. Do sự phục hồi của kinh tế toàn cầu trong thời gian qua chủ
yếu là do chính sách kích thích kinh tế được các nước tung ra trong năm 2009. Năm
2010, nhiều nước cắt giảm các chính sách kích thích, một số nền kinh tế sẽ gặp không
ít khó khăn. Viện Kinh tế và Chính trị thế giới (ở Washington) trong "Dự báo và phân
Nhóm 18 Trang
6
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
tích tình hình thế giới năm 2010" đã đưa ra mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu
là 2 - 3%, nhưng vẫn có khả năng bị suy thoái lần thứ hai.
- Đối với các khu vực, mức tăng trưởng trong năm 2010 được dự báo như sau: Tại
Mỹ, tăng trưởng năm 2010 dự kiến chỉ là 2,5%. Động lực cơ bản cho nền kinh tế Mỹ
trong ngắn hạn vẫn là chi tiêu tiêu dùng, chiếm gần 70% GDP, tuy nhiên động lực này
tiếp tục yếu trong năm 2010. Tiêu dùng giảm mạnh vào đầu năm 2010, kéo theo việc
giảm tốc độ tăng GDP và sẽ tăng lại vào giữa năm 2010. Nguyên nhân khiến tiêu
dùng giảm là do nợ và thất nghiệp vẫn còn cao. Tỉ lệ thất nghiệp có thể tăng tới
khoảng 10,5% trong quý I/2010. Tình hình của ngành ngân hàng Mỹ, nơi bắt nguồn

của khủng hoảng tài chính toàn cầu, đã được cải thiện trong năm 2009. Các định chế
tài chính của Mỹ như Bank of America, JPMorgan Chase, Goldman Sachs, Citigroup,
Wells Fargo bắt đầu làm ăn có lãi trở lại và thực hiện việc trả lại các khoản tiền cứu
trợ của Chính phủ nước này. Tình hình khả quan này sẽ tiếp tục diễn ra trong năm
2010.
- Về đồng USD, nhờ triển vọng kinh tế Mỹ sáng sủa hơn đôi chút so với kinh tế châu
Âu và Nhật Bản, nhu cầu về đồng USD sẽ cải thiện. Tuy nhiên, sức ép giảm giá của
đồng USD vẫn tiếp tục trong năm 2010 và đà giảm này chắc chắn sâu hơn so với các
đồng tiền của những thị trường đang nổi. Các nhà phân tích cho rằng, đồng USD tiếp
tục giảm giá trong những tháng đầu năm 2010, tác động xấu đối với tăng trưởng kinh
tế toàn cầu, nhưng về lâu dài, sẽ khôi phục lại vị trí của mình. Trong khi đó, dự báo
kinh tế của Canađa trong năm 2010 rất lạc quan sau giai đoạn suy thoái kéo dài trong
năm qua. Dự đoán tăng trưởng GDP của nước này sẽ là 2,6 - 2,7% năm 2010, so với
mức giảm 2,5% năm 2009. Các chuyên gia nhận định, mặc dù triển vọng kinh tế
Canađa có dấu hiệu cải thiện, song nền kinh tế vẫn đối mặt với nhiều rủi ro và Chính
phủ cần tiếp tục duy trì các biện pháp kích thích tăng trưởng.
- Việc chấm dứt các gói kích thích kinh tế quá sớm có thể làm chậm quá trình phục
hồi, làm suy giảm lòng tin của giới kinh doanh, đồng thời khiến thị trường việc làm
càng thêm căng thẳng.
- Theo Ủy ban Kinh tế khu vực Mỹ Latinh và Caribê của Liên Hợp quốc (ECLAC),
triển vọng kinh tế của các nước Mỹ Latinh sáng sủa hơn trong năm 2010 với mức
tăng trưởng cao nhất là Brazil với 5,5%, tiếp đến là Urugoay 5%, Panama, Chilê và
Bôlivia đều là 4,5%. Cụ thể là:
Châu Âu: Nhìn chung, các nước phát triển ở Châu Âu đã thoát khỏi suy thoái với
việc các lĩnh vực kinh doanh, du lịch đã dần hồi phục. Tạp chí Kinh tế Pháp
L'Expansion cho rằng, châu Âu sẽ thoát khỏi suy thoái với mức tăng trưởng dự kiến
0,9% trong năm 2010. Tuy nhiên, vẫn cần cảnh giác với những diễn biến bất thường,
trong đó có nguy cơ khủng hoảng tín dụng. L'Expansion cảnh báo là châu Âu chỉ
đang "trên đà khôi phục sức khoẻ chứ chưa hẳn lành bệnh". Theo đó, Anh dự kiến
tăng trưởng 0,8% năm 2010. Một số nền kinh tế Tây Âu, như Iceland, Ireland, Tây

Ban Nha, Bồ Đào Nha tiếp tục giảm do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính.Tổng
thống Nga Medvedev dự đoán, kinh tế Nga sẽ tăng trưởng từ 2,5 - 5% năm 2010.
Châu Á: Hầu hết các nhà phân tích đều nhận định, châu Á đang là động lực đưa thế
giới thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế. Nghiên cứu của Liên Hợp quốc về tình hình
kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhấn mạnh, khu vực này đang dẫn
đầu thế giới về phục hồi kinh tế với dự báo tốc độ tăng trưởng trung bình 6,3% trong
năm 2010. Việc các nước châu Á tích cực chuyển hướng, chú trọng hơn đến thị
trường nội địa, nhằm giảm phụ thuộc xuất khẩu là hướng đi hiệu quả, giúp lấy lại ổn
định và tăng trưởng sau khủng hoảng.
Theo dự báo: "Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2010" của Liên Hợp quốc,
năm 2010, các nước đang phát triển ở châu Á sẽ có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh
Nhóm 18 Trang
7
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
nhất, diễn biến các chỉ số kinh tế vĩ mô trong quý I luôn vượt mọi dự báo với điểm
sáng đặc biệt là Trung Quốc 8,8%, Ấn Độ 6,5%. Tiếp đến là Việt Nam, Lào: 5%, hơn
mức 4% của năm 2009 (trong khi đó Quốc hội Việt Nam đề ra chỉ tiêu tăng trưởng
khoảng 6,5%), thậm chí Singapore dù tăng trưởng GDP quý 4/2009 ở mức âm cũng
nâng dự báo tăng trưởng trong năm khoảng 4,5% - 6,5%, Kế tiếp là Myanmar và
Indonesia với hơn 4%).
Những quốc gia còn lại, tăng trưởng từ 3,5% trở xuống, thấp nhất là Nhật Bản với
1,5% và Brunei với 0,5%. Cũng giống như các nước châu Âu, Nhật Bản đã trải qua
suy thoái sâu trong năm 2009 nên khả năng phục hồi trong năm 2010 còn yếu. Chính
phủ Hàn Quốc đưa ra dự báo tăng trưởng kinh tế năm 2010 của nước này là 5%, cao
hơn so với mức 4% của dự báo trước đó, do nước này cho rằng nền kinh tế thế giới
đang phục hồi trong điều kiện tốt hơn và nhu cầu trong nước cũng phục hồi nhanh.
Trong khi đó IMF dự báo tăng trưởng của Hàn Quốc là 4,5%.
Châu Phi: Báo cáo của IMF đã nêu ra sự yếu kém và bất ổn của nền kinh tế châu Phi
với nguy cơ phải đối mặt với việc giảm viện trợ từ những nước phát triển, bởi chính
các quốc gia này cũng là nạn nhân trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính. Do vậy,

nghèo đói và thất nghiệp sẽ đe dọa một số nước khu vực Nam Phi, làm cho tình hình
xã hội trong vùng càng thêm bất ổn. Song song với đó, thiên tai, trong đó có hạn hán
và lũ lụt tại Đông Phi gây ra hệ quả là cuộc khủng hoảng lương thực thường xảy ra
sau đó cũng gây nhiều trở ngại cho con đường phục hồi của châu lục này.
- Tuy nhiên, bất chấp những khó khăn, nhiều người vẫn rất lạc quan về khả năng cải
thiện của nền kinh tế châu Phi trong năm 2010. IMF đã dự báo mức tăng trưởng của
châu lục này sẽ đạt 4% vào năm 2010. Bộ trưởng kinh tế Angôla Manuel Nunes Fils
tuyên bố, lĩnh vực dầu mỏ sẽ là thế mạnh của nước này vào năm 2010, và dự báo nền
kinh tế của Angôla có thể tăng trưởng đến 8,2%. Nam Phi, nền kinh tế lớn nhất châu
Phi có thể tăng trưởng 1,5%.
- Một là nguy cơ vỡ nợ. Tập đoàn Dubai World của Các Tiểu vương quốc Arập thống
nhất bị vỡ nợ và cuộc khủng hoảng tài chính ở Hy Lạp nhắc nhở mọi người rằng vẫn
còn những khoản nợ lớn chưa được thanh toán. Một trường hợp cũng đang bức xúc
nữa là Anh, vì vị thế tài chính của Anh đang xấu nhất trong thế giới công nghiệp hoá
và chưa nhận được sự đảm bảo ngầm nào.
- Hai là chiến lược thoát ra. Ngân hàng Trung ương các nước bắt đầu hoạch định kế
hoạch loại bỏ các khoản tiền cứu trợ khẩn cấp trong khủng hoảng. Điều này có nghĩa
là sẽ có những biến động đáng kể trong thị trường trái phiếu vì các khoản tiền cứu trợ
khẩn cấp của các ngân hàng Trung ương đã giúp đẩy lãi suất xuống thấp đối với tất cả
các loại tài sản. Các nhà đầu tư cần thận trọng nếu so sánh với tình hình năm 1994 ở
Mỹ. Khi Mỹ tăng lãi suất năm 1994, thị trường trái phiếu Mỹ tan tác. Vì vậy, trong
bối cảnh kinh tế hiện nay, các nhà đầu tư cần cảnh giác trước mọi diễn biến của lạm
phát tăng.
- Ba là tăng trưởng chậm.Những dự báo lạc quan trong các thị trường dựa trên những
dự báo nền kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng đủ mạnh để đẩy nhanh quá trình giảm nợ
của các nền kinh tế phương Tây nợ nần cao. Nguy cơ đối với tình huống này là sự siết
chặt tài chính và các chiến lược thoát ra khỏi chính sách tiền tệ hiện thời có thể dẫn
tới đợt suy thoái mới. Một nguy cơ khác là tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ đã giảm chậm,
nhưng ở châu Âu vẫn tăng cao khiến nhu cầu tiêu dùng suy yếu cả ở châu Âu và Mỹ.
Sự phục hồi chậm hơn dự kiến sẽ làm tăng nợ ngân hàng và gây sức ép lớn đến tình

trạng thâm hụt tài chính của chính phủ.
- Bốn là các quyết toán của ngân hàng. Hệ thống ngân hàng toàn cầu đã được hỗ trợ
bởi những khoản vốn lớn và đã thu được lợi nhuận cao trong thời kỳ kinh tế thế giới
khủng hoảng. Nhưng khu vực thương mại có thể dễ bị tổn thương trước mọi sự điều
Nhóm 18 Trang
8
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
chỉnh giá. Việc ngân hàng có thể đối phó được với các tổn thất ở mức độ lớn từ các
khoản cho vay không thu hồi được vẫn là một câu hỏi lớn.
Với sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế, thương mại thế giới cũng sẽ sôi động hơn.
IMF dự báo thương mại thế giới sẽ tăng 2,5% so với năm 2009 (trong khi năm 2009
giảm 11,9% so với năm 2008). Tuy nhiên, nhu cầu tiêu dùng sẽ vẫn còn yếu do thu
nhập tăng chậm và thất nghiệp cao. Đây chính là cản trở lớn nhất cho quá trình phục
hồi và phát triển trở lại của kinh tế toàn cầu trong năm 2010.
- Tuy nhiên, bên cạnh những tín hiệu tích cực, kinh tế thê giới cũng bộc lộ không ít
những rủi ro tiềm ẩn có thể ảnh hưởng tới mức độ bền vững của quá trình phục hồi.
Thứ nhất, giá các loại hàng hoá cơ bản đang trên đà tăng mạnh (sau khi tăng 78%
trong năm 2009, giá dầu thô trên thị trường thế giới vẫn tiếp tục tăng trên 3% trong
quý I). Thứ hai, Tỷ lệ thất nghiệp tại các nước đang phát triển tăng nhanh (10% tại
Mỹ).Thứ ba, thâm hụt ngân sách đang ở mức báo động tại các nước phát triển. Thứ
tư, rủi ro lạm phát tăng cao đang quay trở lại đối với các nền kinh tế đang phát triển.
Kết luận: Theo dự báo thì nền kinh tế thế giới 2010 có nhiều khả quan. Các nước, khu
vực lớn trên thế giới đều dự báo tưng trưởng trở lại là niềm lạc quan cho nền kinh tế
thế giới. Trong khi đó thị trường châu Á là khu vực phát triển mạnh nhất là đầu tầu
kéo nền kinh tế thế giới đi lên, trong đó phát triển mạnh nhất là Trung Quốc. Các thị
trường lớn như Mỹ, châu Âu, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu chính của VN phát
triển giúp nền kinh tế nước ta phát triển đặc biệt là các ngành xuất khẩu như cao su,
thép, thủy sản… Nước ta nằm giáp danh với Trung Quốc một nước phát triển mạnh
tương lai sẽ vượt qua Mỹ trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới giúp nước ta có nhiều
thuận lợi như là nơi nêu đậu hàng hóa cho các nước khác xuất khẩu quá cảnh….

( Nguồn Dantri.com )
II. Kinh tế Việt Nam :
 Ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới đến nền kinh tế Việt Nam
- Trong quá trình đổi mới và phát triển kinh tế, nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội
nhập sâu vào kinh tế thế giới, cụ thể Việt nam đã gia nhập AFTA (Khu vực mậu dịch
tự do) và WTO. Việc hội nhập kinh tế thế giới ảnh hưởng đến nền kinh tế Việt Nam
thông qua hai thị trường chính, thị trường hàng hóa và dịch vụ và thị trường tài chính.
Đối với thị trường hàng hóa và dịch vụ, kim ngạnh xuất nhập khẩu tăng cao trong hai
thập niên qua, hơn nữa Việt Nam là một nước có nền “kinh tế nhỏ”, do đó khủng
hoảng kinh tế thế giới sẽ tác động đến xuất và nhập khẩu của Việt Nam và như vậy
ảnh hưởng đáng kể đến nền kinh tế Việt Nam. Nếu thu nhập thế giới giảm, xuất khẩu
của Việt Nam sẽ giảm và như vậy sẽ ảnh hưởng đến tổng cầu hàng hóa và dịch vụ của
Việt Nam và tiếp tục ảnh hưởng đến tổng cung và sau cùng làm ảnh hưởng đến GDP
và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, đây là vấn đề được cần quan tâm hàng đầu đối
với những nhà hoạch định chính sách. Khủng hoảng thế giới cũng sẽ tác động đến
nhập khẩu của Việt Nam, nếu tổng cầu của các quốc gia trên giới giảm thì khả năng
giá cả hàng hóa thế giới giảm, điều này sẽ có hai tác động, (1) nguyên vật liệu nhập
khẩu cho sản xuất sẽ có lợi cho nền kinh tế Việt Nam, (2) nhưng hàng hóa tiêu dùng
có khả năng tràn vào Việt Nam với giá rẻ, ví dụ hàng hóa của Trung Quốc sẽ cạnh
tranh với hàng hóa Việt Nam và như vậy cầu hàng hóa Việt Nam sẽ giảm đi và như
vậy tổng cầu hàng hóa Việt Nam tiếp tục giảm, giảm cung và giảm GDP.
- Thị trường tài chính Việt Nam bị ảnh hưởng khá lớn bởi thị trường thế giới, đặc biệt
trong vài năm gần đây. Sự ảnh hưởng này thể hiện qua đầu tư trực tiếp và gián tiếp
của nước ngoài vào Việt Nam. Suy giảm kinh tế thế giới sẽ làm cho đầu tư nước
ngoài giảm đi và như vậy đầu tư ở Việt Nam sẽ giảm. Khi đầu tư giảm sẽ có hai tác
động, ngắn hạn và dài hạn, đến nền kinh tế Việt Nam. Trong ngắn hạn, cầu hàng hóa
và dịch vụ cho đầu tư sẽ giảm, như vậy tổng cầu sẽ giảm. Trong dài hạn, giảm đầu tư
Nhóm 18 Trang
9
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh

sẽ giảm trữ lượng vốn và sẽ giảm tổng cung hàng hóa và dịch vụ. Tóm lại, Việt Nam
cũng không thoát khỏi tác động tiêu cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, chính sách
vĩ mô cần được ưu tiên trong việc giảm thiểu tác động này. ( Nguồn vietbao.com )
 Chính sách của Việt Nam đối với khủng hoảng kinh tế thế giới:
- Việc suy thoái kinh tế thế giới sẽ giảm tổng cầu hàng hóa và dịch vụ của Việt Nam,
và phần nào tổng cung do giảm đầu tư. Theo mô hình tổng cung tổng cầu (AS-AD),
GDP của Việt Nam sẽ bị giảm và mức giá chung cũng giảm theo trong ngắn hạn. Như
vậy, chính sách gì đối với Việt Nam để giảm thiểu tác động này. Chính sách có thể
chia làm hai nhóm, kích cầu và kích cung. Các nước trên thế giới hiện nay tập trung
vào chính sách kích cầu.
1. Tăng trưởng GDP:
Biểu đồ 2:
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Những nỗ lực hỗ trợ hoạt động sản xuất, kinh doanh của Chính phủ trong suốt năm
2009 đã giúp kinh tế trong nước dần thoát ra khỏi ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Nếu như tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I/2009
chỉ đạt 3,14% thì sang đến quý II, quý III và quý IV, chỉ số này đã nâng dần lên lần
lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước
tăng đã 5,32% so với năm trước và vượt kế hoạch đề ra 0,12%.
- Sang đến những tháng đầu năm 2010, các chỉ số kinh tế vĩ mô đã diễn biến theo
hướng tiếp tục khẳng định quá trình phục hồi của nền kinh tế Việt Nam. Tổng sản
phẩm trong nước (GDP) quý I/2010 ước tính tăng 5,83% so với cùng kỳ năm 2009,
trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,45%, khu vực công nghiệp và
xây dựng tăng 5,65%, khu vực dịch vụ tăng 6,64%. Về cơ cấu tốc độ tăng trưởng của
nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,42 điểm phần trăm;
khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 2,44 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ
đóng góp 2,97 điểm phần trăm. Nếu so sánh với quý I năm 2009, hầu hết các ngành
nghề thuộc các khu vực kinh tế khác nhau đều có tốc độ tăng trưởng khá, đặc biệt
ngành công nghiệp điện, gas và cung cấp nước với mức tăng lên tới 10,4%, ngành vận
tải kho bãi và thông tin liên lạc với mức tăng 8,32%. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng,

quý I/2009 là thời điểm nền kinh tế trong nước chịu tác động trầm trọng nhất từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. So với những năm trước khủng hoảng, tốc độ tăng
tổng sản phẩm trong nước năm nay vẫn có phần kém hơn.
Biểu đồ 3: Biến động tăng trưởng kinh tế
Nhóm 18 Trang
10
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
Biểu đồ 4: Cơ cấu GDP quý I/2010
Biểu 5:
Năm
Lạm
phát
GDP Tăng
trưởng
2006 7,50% 425.372 8,23%
2007 8,30% 461.443 8,48%
2008 23% 489.833 6,15%
2009 (*) 6,90% 515.909 5,32%
2010 (1) 8,50% 548.360 6,29%
Biểu đồ 6:
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Về hoạt động SXCN, sau khi sụt giảm liên tục trong hai tháng đầu năm với mức
giảm lần lượt là 4,11 và 19,71%, giá trị sản xuất công nghiệp đã kịp thời lấy lại 17,8%
tốc độ tăng trưởng trong tháng 3. Tính chung ba tháng đầu năm, tổng giá trị sản xuất
Nhóm 18 Trang
11
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
công nghiệp của cả nước đạt 173.492 tỷ đồng, tăng trên 13% so với cùng kỳ năm
trước. Các doanh nghiệp ngoài Nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có đóng góp lớn nhất vào hoạt động SXCN trong quý với tốc độ tăng trưởng lần

lượt là 14,6 và 16,4%. Trong khi đó, khu vực kinh tế nhà nước có tốc độ tăng thấp
hơn mức kế hoạch toàn ngành (7% so với 12%). Mặc dù có mức tăng trưởng khá so
với cùng kỳ năm trước, sản xuất công nghiệp vẫn chưa lấy lại được tốc độ trung bình
của các năm trước khủng hoảng (14,4%).Các nhóm ngành có những bước tăng trưởng
ấn tượng trong những tháng đầu năm bao gồm nhóm hàng điện lạnh, vật liệu xây
dựng, khí đốt và giấy bìa. Ngược lại, mức độ suy giảm về sản lượng sản xuất mạnh
nhất diễn ra tại các nhóm ngành như dầu mỏ thô khai thác và đường kính.
- Mặc dù đang trên đà phục hồi nhưng tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp đã
gặp phải nhiều yếu tố khó khăn trong quý I. Trước hết, kỳ nghỉ lễ kéo dài trong tháng
1 và 2 đã ảnh hưởng đến năng suất sản xuất. Sau đó là việc giá các loại hàng hoá
nguyên, nhiên, vật liệu đầu vào đã đồng loạt tăng giá từ tháng 3, nhất là giá điện, than,
xăng dầu, sắt thép, cước vận chuyển tăng cao đã tác động tăng giá thành và giá bán
sản phẩm. Chỉ số giá sản xuất của ngành công nghiệp quý I/2010 tăng 9,37% so với
quý I/2009, trong đó công nghiệp khai khoáng tăng 24,37%; công nghiệp điện, nước,
ga tăng 18,06%; công nghiệp chế biến tăng 6,67%. Giá bán tăng đã làm giảm sức cầu
của thị trường trong nước, đồng thới gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu khiến
nhiều sản phẩm công nghiệp tiêu thụ chậm. Trong những tháng tới đây, chúng ta
mong đợi rằng giá trị sản xuất công nghiệp sẽ tăng mạnh khi lực cầu trong và ngoài
nước tăng cao trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi.
Biểu đồ 7: Tăng trưởng sản suất công nghiệp (y-o-y %)
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Tiêu dùng trong nước cũng đóng vai trò quan trọng trong tăng trưởng kinh tế quý I
khi doanh số bán lẻ đã tăng 24,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Ngay cả khi đã loại trừ
yếu tố tăng giá, tổng mức bán lẻ ba tháng đầu năm cũng đã tăng 14,4%. Những số liệu
khả quan đến từ lĩnh vực bán lẻ trong ba tháng vừa qua đã một lần nữa khẳng định vai
trò của cầu nội trong quá trình phục hồi của nền kinh tế, góp phần giảm bớt ảnh
hưởng của suy thoái toàn cầu do nhu cầu hàng hoá xuất khẩu giảm sút.
- Trái lại với nhiều dự báo, dòng vốn ngoại tệ đổ vào Việt Nam vẫn tiếp tục suy giảm
mặc dù kinh tế trong và ngoài nước đang trên đà phục hồi. Trong quý I, thu hút đầu tư
trực tiếp của nước ngoài chỉ đạt 2,1 tỷ USD, giảm 71% so với cùng kỳ năm 2009, bao

gồm: vốn đăng ký của 139 dự án được cấp phép mới là 1,9 tỷ USD (giảm 40,9% về số
dự án và giảm 40,5% về số vốn so với cùng kỳ năm trước); vốn đăng ký bổ sung của
41 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước là 215 triệu USD. Tuy vốn đầu tư trực
tiếp cam kết chỉ tương đương với 29% so với cùng kỳ năm trước nhưng lượng vốn
được giải ngân lại tăng tới gần 13,6% với số liệu được cải thiện theo từng tháng. Bất
động sản tiếp tục là lĩnh vực thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài nhất trong năm
Nhóm 18 Trang
12
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
2010 với 1,24 tỷ USD. Trong khi đó, về số lượng dự án thì lĩnh vực công nghiệp chế
biến, chế tạo vẫn dẫn đầu với 39/139 dự án. Số vốn đăng ký tăng thêm thấp một cách
bất thường (215 triệu USD, chỉ bằng 5,2% so với năm 2009), cho thấy các nhà đầu tư
nước ngoài hầu như không mở rộng thêm quy mô của các dự án đã đăng ký. Trong
những tháng tới, chúng ta hy vọng rằng lượng vốn nước ngoài đổ vào Việt Nam sẽ
được cải thiện cùng với đà phục hồi kinh tế của các nước phát triển thường có đầu tư
lớn vào Việt Nam như Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Anh…
Biểu 8:
FDI
Năm FDI đăng ký
(tỷ USD)
FDI giải ngân
(tỷ USD)
2006 12 4
2007 21,3 8
2008 71.1 11.5
2009 21,48 10
2010 22-25 11
- Trong khi đó, tổng giá trị vốn vay ưu đãi ODA được ký thông qua các Hiệp định với
các nhà tài trợ trong quý I đạt 320,19 triệu USD. Trong số này, có 277,24 triệu USD
vốn vay với lãi suất ưu đãi và 42,95 triệu USD là viện trợ không hoàn lại. Giải ngân

vốn trong 3 tháng đạt 209 triệu USD, tương đương 8,5% kế hoạch của cả năm 2010.
Biểu đồ 9: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Về hoạt động t:hương mại quốc tế, việc kim ngạch nhập khẩu tăng cao trong khi
xuất khẩu giảm nhẹ đã khiến giá trị nhập siêu quý I tăng mạnh so với cùng kỳ năm
trước. Theo số liệu thống kê, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá quý I ước đạt 17,5 tỷ
USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu ước
đạt 14 tỷ USD, giảm 1,6% so với quý I năm 2009. Theo đó, giá trị hàng hoá nhập siêu
đạt 3,6 tỷ USD, tăng 2,4 lần so với số liệu cùng kỳ và tương đương với 25% kim
ngạch xuất khẩu, vượt kế hoạch 20% của Chính phủ. Mức thâm hụt thương mại này
đặt trong bối cảnh các nguồn thu ngoại tệ khác đang sụt giảm mạnh mẽ đang gây
không ít áp lực lên cán cân thanh toán và tỷ giá.
- Việc giá nhiều loại hàng hoá trên thị trường thế giới tăng mạnh so với cùng kỳ đã
khiến kim ngạch nhập khẩu tăng cao. Trong một năm qua, giá xăng dầu các loại đã
tăng gần 50%, chất đốt hoá lỏng tăng 44,8%, chất dẻo tăng 43,2%, phôi thép tăng
18,9%, kim loại tăng 53% Theo ước tính của Bộ kế hoạch và Đầu tư, riêng yếu tố
tăng giá khiến kim ngạch nhập khẩu tăng hơn 600 triệu USD.
Nhóm 18 Trang
13
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
Biểu đồ 10: Cán cân thương mại
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- So với cùng kỳ năm trước, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu đã thay đổi nhiều. Nếu như
trong quý I/2009, vàng và kim loại quý là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực với mức
đóng góp lên tới 25 đến 30% tổng kim ngạch thì trong ba tháng vừa qua, hoạt động tái
xuất vàng chỉ chiếm 0,3% kim ngạch, giảm tới 98% so với cùng kỳ. Trong khi đó, các
mặt hàng truyền thống đóng góp nhiều nhất vào kim ngạch xuất khẩu trong năm nay
như: dầu thô, dệt may, giầy dép, gạo, cà phê và thuỷ sản.
- Cụ thể, trong quý I , giá trị hàng xuất khẩu dệt may đạt 2,2 tỷ USD, tăng 12,3%;
giày dép đạt 1 tỷ USD, tăng 10,1%; thủy sản đạt 861 triệu USD, tăng 14,5%; điện tử
máy tính đạt 703 triệu USD, tăng 40,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 716 triệu USD, tăng

26,3%; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng đạt 630 triệu USD, tăng 66,5%; phương
tiện vận tải và phụ tùng đạt 425 triệu USD, tăng 151,7%. Tuy nhiên, có một số mặt
hàng nông sản xuất khẩu chủ lực giảm so với cùng kỳ cả về lượng và giá trị như: Gạo
đạt 677 triệu USD, giảm 30,7% về lượng và giảm 16,8% về giá trị; cà phê đạt 461
triệu USD, giảm 25,3% về lượng và giảm 31% về giá trị.
Biểu đồ 11: Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu Cơ cấu hàng hóa nhập
khẩu
- Đối với nhập khẩu, cơ cấu hàng hoá không có nhiều thay đổi với các mặt hàng chủ
lực bao gồm: máy móc, thiết bị , dụng cụ và phụ tùng, xăng dầu, điện tử máy tính và
Nhóm 18 Trang
14
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
linh kiện, sắt thép. Cụ thể, kim ngạch nhập khẩu máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng
quý I đạt 2,8 tỷ USD, tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước; xăng dầu đạt 1,6 tỷ USD
tăng 33,2%; sắt thép đạt 1 tỷ USD, tăng 26%; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 1 tỷ
USD, tăng 53,1%; vải đạt 955 triệu USD, tăng 13,2%; chất dẻo đạt 758 triệu USD,
tăng 53%; thức ăn gia súc và nguyên phụ liệu đạt 623 triệu USD, tăng 136,9%; ôtô
đạt 582 triệu USD, tăng 66% (trong đó ôtô nguyên chiếc đạt 149 triệu USD, giảm
3%); nguyên phụ liệu dệt may giày dép đạt 483 triệu USD, tăng 21,6%.
- Tới đây, xuất khẩu được kỳ vọng sẽ tăng trở lại cùng với sự hỗ trợ từ hai lần điều
chỉnh tỷ giá hối đoái theo hướng giảm giá đồng Việt Nam trong ba tháng vừa qua. Dự
báo kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm nay sẽ tăng 6% so với năm 2009
và đạt khoảng 60 tỷ USD. Cơ cấu hàng xuất khẩu sẽ tiếp tục được dịch chuyển theo
hướng phát huy lợi thế cạnh tranh của nước ta như hàng nông phẩm nhiệt đới và các
hàng hoá cần nhiều lao động thủ công. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong năm
2010 được dự báo sẽ là gạo, thuỷ sản, sản phẩm gỗ, dệt may và cao su. Bên cạnh đó,
những nỗ lực xúc tiến thương mại của Chính phủ sẽ là đòn bẩy để chúng ta đạt được
mục tiêu kim ngạch xuất khẩu trong năm tới.
2. Lạm phát :
Biểu đồ 12: Biến động chỉ số giá tiêu dùng

Nguồn: Tổng Cục Thống Kê
- Chỉ số giá tiêu dùng tháng 3 đã chính thức được công bố tại mức 162, tăng 0,75% so
với tháng liền trước. Như vậy, sau hai tháng đạt tốc độ tăng trưởng cao (lần lượt tại
mức 1,36 và 1,96%), mặt bằng giá cả đã có dấu hiệu chững lại. Việc chỉ số lạm phát
tháng 3 thấp hơn hai tháng đầu năm là điều dễ hiểu bởi tháng 1 và 2 luôn trùng với
dịp Tết nguyên đán và nhu cầu tiêu dùng tăng cao đột biến so với các khoảng thời
gian còn lại trong năm. Sang đến tháng 3, mặt bằng giá cả sẽ ổn định trở lại cùng với
sự suy giảm của yếu tố cầu kéo . Tuy nhiên, con số 0,75% của tháng 3 năm nay lại
tương đối cao so với số liệu cùng kỳ của các năm trước. Ngoại trừ năm 2008- năm
của khủng hoảng kinh tế và lạm phát phi mã CPI tháng 3 tăng 2,9%, các năm trước đó
lạm phát tháng 3 đều ở mức thấp: năm 2009: -0,17%, năm 2007: -0,22%, năm 2006:
-0,5%, năm, năm 2005: 0,1%. Lạm phát tháng 3/2010 gần tương ứng với cùng kỳ của
năm 2004 (0,8%), biết rằng trong năm đó CPI đã tăng 9,5% cho cả năm.
- Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc CPI tháng 3 năm nay tăng cao hơn so với cùng
kỳ các năm trước đó. Trước hết, vào cuối tháng 2 và đầu tháng 3, giá cả của hàng loạt
các mặt hàng thiết yếu được điều chỉnh tăng: giá xăng tăng 3,6% vào ngày 21/2, giá
Nhóm 18 Trang
15
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
bán điện tăng trung bình 6,8%, giá bán than cũng tăng đến 47% tuỳ loại, trong khi giá
nước tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh tăng 50% tất cả đều được áp dụng từ ngày
1/3, còn phải kể đến gas, xi măng, sắt thép cũng tăng giá trong tháng cuối quý. Bên
cạnh đó, việc tỷ giá VND/USD được điều chỉnh theo hướng giảm giá tiền đồng 2 lần
trong vòng 3 tháng vừa qua cũng sẽ gây ra tác dụng phụ lên chỉ số giá tiêu dùng khi
giá các mặt hàng nhập khẩu (đa số là nguyên, nhiên, vật liệu sản xuất) tính theo nội tệ
sẽ tăng lên. Ngoài ra, mặt bằng lãi suất cho vay tăng cao trong thời gian vừa qua sẽ
ảnh hưởng tiêu cực lên giá thành sản phẩm thông qua chi phí vốn của doanh nghiệp.
Biểu đồ 13: Biến động giá xăng trong nước
Nguồn: Bloomberg, Bộ kế hoạch và đầu tư
Biểu đồ 14:

Nhóm 18 Trang
16
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
- Như vậy, tính chung ba tháng đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 4,1% so với
tháng 12/2009 và tăng gần 9,5% so với cùng kỳ. Cần nhắc lại rằng kế hoạch kiềm chế
lạm phát của nước ta trong năm nay hiện vẫn được ấn định tại mức dưới 7%. CPI bình
quân trong quý I/2010 đã tăng 8,51% so với cùng kỳ năm trước.
Nếu như mặt bằng giá cả trong nước tăng cao trong tháng 1 và 2 chủ yếu là do nhóm
hàng ăn uống và dịch vụ với mức tăng lần lượt là 7,59 và 3,09% do yếu tố mùa vụ thì
trong tháng 3, nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng có tốc độ tăng trưởng giá cao nhất
1,38%. Đây là nhóm hàng phải gánh chịu nhiều yếu tố tăng giá nhất bao gồm tiền
thuê nhà, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng như xi măng, sắt thép. Nhóm hàng
ăn uống và dịch vụ tháng 3 tuy có hạ nhiệt so với hai tháng trước đó nhưng vẫn duy
trì ở mức cao 1,03% trong đó lương thực giảm 0,9%, thực phẩm tăng 1,5%, ăn uống
ngoài gia đình tăng 1,75%. Trong quý I, hai lần điều chỉnh tăng giá xăng vào ngày
14/1 và ngày 20/02 đã khiến giá cước giao thông, vận tải tăng lần lượt 0,53%, 1,45%
và 0,92%. Yếu tố cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đã thúc đẩy hoạt
động khuyến mại, giảm giá trong nhóm bưu chính viễn thông khiến chỉ số giá của
nhóm giảm trong tất cả các tháng trong quý.
Biểu đồ 15: Biến động chỉ số giá tiêu dùng (m-o-m %)
Nhóm 18 Trang
17
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
- Trong những tháng còn lại của năm 2010, các dấu hiệu hạ nhiệt của giá cả sẽ
khó xuất hiện trong bối cảnh giá các loại hàng hoá trên thế giới tăng cao cùng
với sự phục hồi kinh tế. Ngoài ra, thâm hụt thương mại được dự báo sẽ tiếp tục
gia tăng và gây áp lực lên tỷ giá, từ đó khiến sức mua của tiền đồng suy giảm.
Cùng với đó là hậu quả của hàng loạt các chính sách tiền tệ và tài khoá nới
lỏng trong năm 2009 được dự báo sẽ tác động lên tỷ lệ lạm phát kể từ cuối quý
I năm 2010. Bởi vậy, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát dưới mức 7% của Chính

phủ trong năm nay là hoàn toàn không dễ dàng và nhiều khả năng trong dài
hạn chính sách tiền tệ sẽ phải điều chỉnh theo hướng thắt chặt để có thể đảm
bảo được kế hoạch trên. Tuy nhiên, mức độ điều chỉnh được dự báo sẽ không
nhiều do chúng ta vẫn đang phấn đấu một tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức
khá là 6,5%.
Biểu đồ 16: Tỷ lệ lạm phát hàng tháng
3. Tỷ giá :
- Thị trường ngoại hối Việt Nam kết thúc quý I với những tín hiệu khả quan. Tỷ giá
niêm yết tại các ngân hàng được duy trì ổn định trong một thời gian dài với khoảng
cách giữa giá mua và bán dao động quanh mức 10 đồng. Trong khi đó, chênh lệch
giữa tỷ giá chính thức và thị trường tự do ngày càng được thu hẹp, từ mức xấp xỉ
1.000 đồng vào cuối năm 2009 xuống còn mức trên dưới 200 đồng vào giữa tháng 3.
Về cơ bản, thị trường chính thống trong quý I được đánh giá có thể đáp ứng được các
nhu cầu về ngoại tệ của doanh nghiệp. Chỉ số giá USD trong tháng 01/2010 đã giảm
0,11% so với tháng 12/09 và chỉ tăng nhẹ trong tháng 2 ở mức 0,22% trong khi đó
1,28% là số liệu của tháng 3. So với cùng kỳ năm 2009, tốc độ tăng chỉ số USD trong
nước đã giảm trong hai tháng đầu năm, tuy nhiên lại tăng mạnh hơn ở tháng thứ ba.
Biểu đồ 17: Biến động tỷ giá hối đoái
Nguồn: Bloomberg, Ngân hàng Nhà nước
Nhóm 18 Trang
18
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
- Có được sự ổn định tạm thời của thị trường ngoại hối trong tháng đầu năm là nhờ
vào nguồn ngoại tệ bán ra của 7 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước (ước tính vào
khoảng 450 triệu USD) cho các ngân hàng thương mại theo yêu cầu hành chính của
cơ quan chức năng ban hành ngày 26/11/2009. Bên cạnh đó, nguồn thu ngoại tệ còn
được nâng đỡ từ việc Việt Nam đã chào bán thành công 1 tỷ USD trái phiếu ra thị
trường quốc tế vào giữa quý. Cùng với đó, việc Ngân hàng Nhà nước thực hiện hàng
loạt các biện pháp bình ổn mạnh tay và đồng bộ trong suốt quý I được đánh giá là
nguyên nhân chính giúp thị trường ngoại hối diễn biến thuận lợi.

Ngay từ đầu năm, Ngân hàng Nhà nước đã thể hiện quyết tâm giải quyết tình trạng
găm giữ, hiện tượng USD hoá nền kinh tế, cải thiện nguồn cung ngoại tệ cho hệ thống
chính bằng các quyết định cắt giảm mạnh dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng ngoại
tệ và điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Vào ngày 18/1, tỷ lệ dự rữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới
12 tháng bằng ngoại tệ đã được điều chỉnh giảm 3% từ mức 7% xuống còn 4%. Trong
khi đó, đối với các khoản tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn trên 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc giảm từ 6% xuống còn 3% trên tổng số dư tiền gửi. Động thái này đã giúp khơi
thông một nguồn vốn không nhỏ cho thị trường ngoại hối.
- Sau đó không lâu, Ngân hàng Nhà nước đã ra quyết định điều chỉnh tăng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng giữa USD và VND lên 3,36% từ mức 17.941 VND/USD lên mức
18.544 VND/USD. Đây là lần thứ hai trong vòng chưa đầy ba tháng, Ngân hàng Nhà
nước đã tiến hành can thiệp mạnh trên thị trường ngoại hối. Trước đó, vào ngày
26/11, cơ quan chức năng này cũng đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng
tăng 5,44% lên mức 17.961 VND/USD. Cùng với đó, biên độ tỷ giá cũng được thu
hẹp, từ +/-5% xuống còn +/-3%, bởi vậy mức tỷ giá trần là 18.500 VND/USD, tăng
3,43% so với trước đây. Tính tổng cộng hai lần điều chỉnh, tỷ giá trần bình quân liên
ngân hàng đã tăng khoảng 6,78%. Theo đó, tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng thương
mại cũng được đẩy lên cao tương ứng (19100 VND/USD) và tiến sát tới tỷ giá trên thị
trường tự do (19250-19350 VND/USD). Một khi khoảng cách giữa hai loại tỷ giá
không còn nhiều, kỳ vọng vào việc USD tăng giá sẽ suy giảm và nguồn cung ngoại tệ
chảy vào thị trường chính thống sẽ tăng lên.
Ngoài ra, kể từ ngày 11/02, lãi suất tiền gửi bằng USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức
tín dụng đã bị khống chế tại mức 1,0%/năm thay vì áp dụng theo cơ chế thoả thuận
như trước đây. Biết rằng, trên thị trường tiền tệ, lãi suất huy động bằng ngoại tệ đang
nằm trong khoảng trung bình từ 2,3 đến 4,5%/ năm. Quy định này sẽ buộc các doanh
nghiệp phải tính toán đến việc bán ngoại tệ cho ngân hàng hoặc sử dụng ngay cho các
mục đích khác khi có nhu cầu về vốn thay vì găm giữ như trước đây. Bên cạnh đó,
quy định trên cũng góp phần làm giảm mặt bằng lãi suất huy động và cho vay USD
thu hút người dân cũng như doanh nghiệp từ việc mua sang vay ngoại tệ, giảm sức ép

về phía cầu cho thị trường.
Việc tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo hướng giảm giá đồng Việt Nam trong thời
gian vừa qua sẽ có những tác động tích cực đối với các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xuất khẩu do giá sản phẩm trở nên cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới
trong khi lại gây khó khăn cho các doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu
nhập khẩu và có các khoản nợ bằng ngoại tệ.
- Trong những tháng còn lại của năm 2010, có nhiều lý do khiến chúng ta tin rằng tình
trạng mất cân đối về cung cầu trên thị trường ngoại hối nhiều khả năng sẽ vẫn xảy ra.
Thứ nhất, với một độ trễ nhất định (khoảng từ 6 tháng đến 1 năm), mức tăng tín dụng
gần 38% của năm 2009 và gói cho vay hỗ trợ lãi suất 438 nghìn tỷ đồng sẽ gây áp lực
rất lớn lên chỉ số lạm phát trong năm 2010. Thứ hai, thâm hụt thương mại được dự
báo sẽ tiếp tục duy trì tại mức cao do nhu cầu nhập khẩu gia tăng khi sản xuất phục
Nhóm 18 Trang
19
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
hồi và xuất khẩu khó có thể tăng tốc bởi trong thời kỳ hậu khủng hoảng các nước phát
triển tiến hành các chính sách bảo hộ hàng hoá nội địa. Trong khi đó, tài khoản vốn
được nhận định sẽ không khả quan khi các nguồn đầu tư từ nước ngoài chưa thể phục
hồi mạnh mẽ. Thứ ba, xu hướng tăng giá của USD so với các ngoại tệ mạnh khác
cũng sẽ gây áp lực lên tỷ giá VND/ USD. Thứ tư, việc dự trữ ngoại hối giảm sút trong
năm 2009 (từ 23 tỉ USD vào cuối tháng 11/2008 xuống còn khoảng 15 tỉ USD vào
cuối tháng 12/2009) khiến khả năng can thiệp của Chính phủ vào thị trường cũng sẽ
bị hạn chế. Đây cũng là những lo ngại của nhà đầu tư nước ngoài khi NDF của VND
trong tương lai đang có xu hướng tăng nhẹ trở lại. Tuy nhiên, với quyết tâm của
Kết luận: Chính phủ, vai trò chủ động của Ngân hàng Nhà nước và sự phối hợp chặt
chẽ giữa các bộ, các ngành, các doanh nghiệp liên quan trong việc thực hiện chính
sách quản lý sẽ khiến thị trường ngoại hối trở nên bình ổn và vận hành thông suốt
hơn. Đặc biệt, Ngân hàng Nhà nước nay đã có nhiều kinh nghiệm trong việc điều
hành đồng bộ công cụ tỷ giá với các công cụ khác của chính sách tiền tệ để giữ được
tỷ giá theo mục tiêu của mình.

4. Chính sách tiền tệ :
- Trong kỳ báo cáo, lãi suất cơ bản bằng VNĐ tiếp tục được duy trì ở mức 8%/năm.
Các mức lãi suất khác cũng được giữ nguyên kể từ đầu tháng 12/2009. Theo đó, lãi
suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín dụng là 8%/năm, lãi
suất tái chiết khấu là 6%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên
ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà
nước đối với các ngân hàng là 8%/năm.
Biểu đồ 18: Biến động lãi suất
- Một khi lãi suất thực trả của các doanh nghiệp được hợp thức hoá, mặt bằng lãi suất
chung sẽ trở nên minh bạch và rõ ràng hơn, qua đó góp phần khơi thông hoạt động tín
dụng của hệ thống ngân hàng thương mại, mang lại lợi ích cho nhiều phía từ các tổ
chức tín dụng, các doanh nghiệp đến các cơ quan chức năng.
- Theo số liệu thống kê, mặt bằng giá cả trong nước đã tăng 4,1% trong quý I trong
khi đó lãi suất mà người gửi có thể nhận được trong 3 tháng vừa qua chỉ đạt khoảng
3% khiến mức lãi suất tiền gửi thực 3 tháng là âm khoảng 1%. Nếu kỳ vọng lạm phát
năm nay ở mức từ 7 đến 10%, thì lãi suất có thể đạt thực dương nhưng ở mức độ rất
thấp, từ 0,5 đến 3,5%. Với mức lợi nhuận này, tiết kiệm khó lòng có thể cạnh tranh
được với các kênh đầu tư khác như vàng, chứng khoán và bất động sản. Bởi vậy, để
có thể huy động được vốn, các ngân hàng đã tìm cách lách luật, đẩy mức lãi suất thực
lên cao hơn lãi suất trần quy định thông qua các hình thức khuyến mãi. Bên cạnh đó,
lãi suất trần hiện tại đang bóp méo cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng. Đó chính là
nguyên nhân khiến lãi suất tiết kiệm tại các kỳ hạn ngắn dài khác nhau được cào
bằng, từ đó khuyến khích khách hàng gửi tiết kiệm tại các kỳ hạn ngắn. Hiện tại 80%
Nhóm 18 Trang
20
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
lượng vốn huy động của ngân hàng thương mại là ngắn hạn, trong khi đó 60% các
khoản vay có kỳ hạn dài. Biết rằng, các ngân hàng thương mại chỉ được dùng tối đa
30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Theo đó, nhiều khả năng
lượng vốn khả dụng của ngân hàng nhiều nhưng nguồn vốn để cho vay theo cơ chế

thoả thuận lại ít.
- Để trả lời được câu hỏi trên, trước hết chúng ta cần nhấn mạnh rằng các ngân hàng
thương mại chỉ thực sự đồng loạt tìm mọi cách để tăng lãi suất huy động khi gặp khó
khăn trong thanh khoản. Năm 2008, lạm phát tăng cao (trung bình năm đạt 22,97%)
đã buộc ngân hàng trung ương thực hiện các chính sách thắt chặt tiền tệ mạnh mẽ:
phát hành 20.300 tỷ đồng trái phiếu bắt buộc, sau đó tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên
11%, lãi suất tái cấp vốn 15%, tái chiết khấu 13% trong khi lãi suất cơ bản 14%. Sức
ép thanh khoản đã buộc các ngân hàng huy động bằng mọi giá và đẩy mặt bằng lãi
suất tiết kiệm lên cao. Cục diện của thị trường tiền tệ nay đã rất khác so với hai năm
trước. Tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng không còn căng thẳng. Điều
này được phản ánh thông qua việc lãi suất trên thị trường liên ngân hàng đang được
duy trì ở mức khá thấp: lãi suất qua đêm quanh mức 7% trong khi lãi suất các kỳ hạn
từ 6 tháng đến 1 năm quanh mức 11%. Trong khi đó, lãi suất huy động và cho vay đã
cao hơn khá nhiều so với lạm phát và lãi suất tái chiết khấu của Nhà nước. Theo đó,
có rất ít khả năng sẽ xảy ra một cuộc đua lãi suất sau khi bãi bỏ trần lãi suất huy động.
- Bên cạnh đó, việc tháo gỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ giúp các ngân hàng chính
thức hoá được những khoản khuyến mãi thu hút tiền gửi đã vượt trần trong thời gian
qua, tạo sự minh bạch trong hoạt động ngân hàng từ đó khiến môi trường cạnh tranh
trở nên lành mạnh hơn. Chính vì những lý do trên, chúng tôi cho rằng lãi suất trần huy
động sẽ được gở bỏ trong thời gian tới.
- Trong những tháng còn lại của năm 2010, việc điều hành chính sách tiền tệ phải
dung hoà được hai yếu tố trái chiều: một mặt phải kiềm chế lạm phát (dưới mức 7%),
mặt khác phải đảm bảo cung cấp đủ vốn tín dụng cho nền kinh tế với chi phí không
quá cao nhằm có thể đạt tốc độ tăng trưởng khả quan (6,5%). Về công cụ điều hành
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, kể từ khi lãi suất cho vay được giải
phóng theo cơ chế thoả thuận, lãi suất cơ bản đã mất đi chức năng định hướng thị
trường. Theo đó, thay vì tiến hành điều chỉnh lãi suất cơ bản mỗi khi cần thay đổi xu
hướng chính sách tiền tệ như vẫn làm trước đây, giờ đây, Ngân hàng Nhà nước được
dự báo sẽ thao tác trên lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất trên thị
trường mở, trần lãi suất huy động cũng như các mức dự trữ bắt buộc. Việc điều chỉnh

tăng giảm một trong các công cụ trên sẽ có tác động lên chi phí vốn của ngân hàng
thương mại từ đó kiểm soát tín dụng.
- Mặc dù đã đủ cao để khẳng định xu hướng phục hồi của nền kinh tế nhưng con số
5,83% tăng trưởng GDP trong quý I vẫn chưa hẳn đã khả quan vì đang so sánh với
quý I/2009- thời điểm nền kinh tế trong nước chịu tác động trầm trọng nhất từ cuộc
khủng hoảng tài chính toàn cầu. So với những năm trước khủng hoảng, tốc độ tăng
tổng sản phẩm trong nước năm nay vẫn có phần kém hơn. Để đạt được mục tiêu tăng
trưởng kinh tế cả năm 6,5%, tốc độ tăng GDP của các quý còn lại sẽ phải đạt trên
6,5%. Đây là điều không dễ dàng trong bối cảnh cả lạm phát và nhập siêu đều đang
cần kiểm soát.
- Hiện nay, với việc tăng trưởng tín dụng quý I được công bố tại mức khiêm tốn
(3,34% so với kế hoạch 25% của Ngân hàng Nhà nước) trong khi mặt bằng lãi suất
thực tế lại đang rất cao (từ 14 đến 18%), nhiều người đã kỳ vọng vào việc điều chỉnh
chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng nhằm khơi thông nguồn vốn cho các doanh
nghiệp, kích thích các hoạt động kinh tế, từ đó đảm bảo tốc độ tăng trưởng của toàn
nền kinh tế tại mức khá (6,5%). Trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước đã có những động
Nhóm 18 Trang
21
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
thái tập trung vào việc hỗ trợ thanh khoản đối với các ngân hàng thương mại thông
qua thị trường mở với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ
thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ, chỉ đạo các ngân hàng thương mại theo
hướng cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp với diễn biến của nền
kinh tế. Như vậy, ưu tiên hàng đầu của các nhà hoạch định chính sách vào thời điểm
cuối quý I và đầu quý II này là việc khơi thông nguồn tín dụng cho doanh nghiệp. Tuy
nhiên, trạng thái nới lỏng của chính sách tiền tệ này được dự báo sẽ khó có thể ở mức
độ mạnh tay và kéo dài trước những rủi ro lạm phát tăng cao. Diễn biến mặt bằng giá
cả trong quý I đã khiến chúng ta ngày càng nghi ngờ về khả năng hoàn thành kế
hoạch 7% về lạm phát của Chính phủ. Chỉ riêng 3 tháng đầu năm, mặt bằng giá cả
trong nước đã tăng 4,1% so với tháng 12/2009 và tăng gần 9,5% so với cùng kỳ. Như

vậy, ngay cả với giả định, lạm phát đã đạt đỉnh trong tháng 2 vừa qua thì với hạn mức
tăng giá 2,9% trong 9 tháng còn lại của cả năm là không có tính khả thi. Thậm chí,
mục tiêu kiềm chế lạm phát ở mức 1 con số cũng trở nên hết sức khó khăn trong bối
cảnh các loại hàng hoá cơ bản tăng cao cùng với sự phục hồi của nền kinh tế thế giới.
- Bởi vậy, chúng tôi cho rằng trước mắt, mục tiêu tăng trưởng tín dụng nhằm kích
thích các hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ là ưu tiên hàng đầu của chính sách tiền tệ.
Kết luận: Tuy nhiên, trong dài hạn, các yếu tố bất ổn kinh tế vĩ mô khác nổi lên như
lạm phát, thâm hụt thương mại, tỷ giá sẽ là nguyên nhân khiến chính sách tiền tệ sẽ
được điều chỉnh theo hướng thắt chặt. Việc tăng một trong các công cụ như lãi suất tái
chiết khấu, tái cấp vốn, tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm làm giảm tốc độ tăng trưởng tín
dụng là hoàn toàn có thể xảy ra trong quý III và IV của năm 2010.
Biểu đồ 19: Tăng trưởng GDP theo quý
Nguồn: Tổng cục Thống Kê
5. Lãi suất :
- Do lãi suất huy động vẫn bị giới hạn tại mức 10,5%/năm nên lãi suất tiết kiệm bình
quân của hệ thống không có nhiều biến động trong suốt ba tháng qua. Các mức lãi
suất tiết kiệm có kỳ hạn niêm yết tại các ngân hàng thương mại dao động trong
khoảng từ 10,3 đến 10,499%/năm.
Nếu như trong khoảng thời gian từ cuối năm 2009 đến hết tháng 1/2010, khó khăn về
thanh khoản đã khiến các ngân hàng kéo thẳng mức 10,49%/năm cho tất cả các khoản
tiền gửi không phân biệt ngắn, trung hay dài hạn, thì trong hai tháng gần đây khi
lượng vốn khả dụng đã được cải thiện đáng kể, lãi suất huy động đã được cơ cấu lại,
không còn áp dụng đồng loạt một mức giá vốn cho tất cả các kỳ hạn nữa. Kể từ cuối
tháng 2, các ngân hàng đã tiến hành điều chỉnh lãi suất huy động kỳ hạn 1 năm xuống
mức từ 10 đến 10,3%/năm.
- Mặc dù đã có sự phân hoá về lãi suất giữa các kỳ hạn khác nhau, nhưng mức độ
chênh lệch là không nhiều (dao động trong khoảng từ 0,2 đến 0,5%/năm), thêm vào
đó là kỳ vọng vào việc Ngân hàng Nhà nước sẽ bãi bỏ trần lãi suất huy động và lãi
suất sẽ lại tăng mạnh nên người gửi tiền vẫn tiếp tục chọn các kỳ hạn ngắn. Để thu hút
Nhóm 18 Trang

22
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
được các khoản tiết kiệm tại các kỳ hạn dài, nhiều ngân hàng đã tìm cách nâng mức
lãi suất tiết kiệm thực tế vượt mức trần bằng các hình thức khuyến mãi. Mức lãi suất
thực trả cho kỳ hạn trên 1 năm hiện có thể lên tới 13 đến 14%/năm.
- Việc lãi suất huy động thực tế được điều chỉnh vượt mức trần cũng không làm cải
thiện nguồn vốn huy động trong hệ thống ngân hàng. Theo thống kê, lượng vốn huy
động đã giảm 0,17% trong hai tháng đầu năm 2010. Trong đó, lượng tiền gửi từ các tổ
chức kinh tế giảm 5,94% do các doanh nghiệp tập trung vào đầu tư sản xuất, kinh
doanh, chia lương thưởng vào thời điểm đầu năm. Tuy nhiên, bù lại, lượng tiền gửi
của dân cư trong tháng 1 và 2 đã tăng mạnh trở lại 5,57%. Trong thời gian tới, với
việc lạm phát có nguy cơ tăng cao trở lại, nhiều khả năng lãi suất huy động sẽ tiếp tục
được điều chỉnh tăng để có thẻ cải thiện được dòng tiền chảy vào hệ thống ngân hàng.
- Đối với ngoại tệ mà cụ thể là USD, kể từ ngày 11/2, lãi suất tiền gửi của tổ chức
kinh tế tại tổ chức tín dụng đã bị khống chế tại mức 1%/năm thay vì áp dụng theo cơ
chế thoả thuận như trước đây. Theo đó, các NHTM cũng đã điều chỉnh mức lãi suất
huy động từ mức 2,3 đến 4% xuống dưới mức quy định 1,0%. Trong khi đó, đối với
tư nhân, lãi suất tiết kiệm ngoại tệ được điều chỉnh tăng nhẹ so với cuối năm 2009 và
nằm trong khoảng từ 2,3 đến 4,5%/năm cho các kỳ hạn từ 3 tháng đến 1 năm.
Biểu 20: Lãi suất cho vay
Ngân hàng Loại
tiền
Ngắn hạn Trung, dài
hạn
NHTMNN VND 12,0
(11,0-12,0)
14,0-15,0
(12,0)
USD 5,5-6,0 6,0-7,0
Ngân hàng Loại

tiền
Ngắn hạn Trung, dài
hạn
(5,5-6,0) (6,0-6,5)
NHTMCP VND 12,0
(12,0)
15,0-17,0
(12,0)
USD 6,0-8,0
(5,5-7,5)
6,5-8,0
(6,0-8,0)
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Biểu 21: Lãi suất trần trái phiếu Chính phủ :
Biến động Lãi suất trần trái phiếu Chính phủ
- Kể từ cuối năm 2009, tình trạng chênh lệch khá lớn giữa tốc độ tăng trưởng vốn và
huy động cho vay đã khiến các ngân hàng buộc phải đẩy lãi suất huy động lên cáo để
Nhóm 18 Trang
23
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
hút vốn, đồng thời tăng lãi suất cho vay để giảm cầu tiền. Theo đó, ngay cả khi lãi
suất tín dụng bị khống chế dưới mức 150% lãi suất cơ bản, ngân hàng cũng đã tiến
hành điều chỉnh lãi suất thực tế vượt mức trần cho phép.
- Kể từ ngày 26/02, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức cho phép các ngân hàng
thương mại tiến hành cho vay theo cơ chế thoả thuận đối với các khoản vay trung cà
dài hạn. Theo đó, lãi suất cho vay niêm yết tại các ngân hàng đã được điều chỉnh về
với mức lãi suất thực tế. Đối với nhóm các ngân hàng thương mại Nhà nước, lãi suất
cho vay trung và dài hạn nằm trong khoảng từ 14 đến 15%/năm trong khi con số này
của khối các ngân hàng cổ phần là từ 15 đến 17%/năm. Đây cũng là mức tương đương
với lãi suất thực trả của khách hàng từ cuối năm 2009, bởi vậy, xét về bản chất mặt

bằng lãi suất cho vay đã không có nhiều biến động trong thời gian qua.
Vào thời điểm cuối quý I, trên thị trường đã xuất hiện những thông tin phản ánh việc
lãi suất vay vốn bằng Việt Nam đồng theo thoả thuận đã lên tới 20%/năm, thậm chí
cao hơn. Tuy nhiên, phía Ngân hàng Nhà nước và cả các tổ chức tín dụng đều khẳng
định trường hợp trên là cá biệt, và chủ yếu xảy ra tại các ngân hàng có quy mô nhỏ và
là cho vay tiêu dùng.
- Đối với USD, lãi suất tín dụng đã tăng nhẹ so với cuối năm 2009 và nằm trong
khoảng từ 6,0 đến 8,0%/năm. Kể từ ngày 11/02, mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng
USD của tổ chức kinh tế tại tổ chức tín dụng được quy định tại mức 1,0%/năm thay vì
áp dụng theo cơ chế thoả thuận như trước đây khiến chênh lệch lãi suất giữa gửi tiền
bằng VND và USD của các tổ chức kinh tế được nới rộng ra khá nhiều. Theo đó, khả
năng các doanh nghiệp đang gửi USD tại ngân hàng chuyển sang tiền đồng là hoàn
toàn có thể xảy ra. Khi đó nguồn cung USD sẽ tăng lên và lãi suất huy động cũng như
cho vay được dự báo sẽ ổn định trong thời gian tới.
Lãi suất liên ngân hàng:
Biểu đồ 22: Biến động lãi suất liên ngân hàng
- Tình trạng khan hiếm vốn huy động trong hệ thống ngân hàng kéo dài đã khiến thị
trường liên ngân hàng tiếp tục căng thẳng về lãi suất trong hai tháng đầu năm 2010.
- Trong tháng một và hai, lãi suất liên ngân hàng liên tục được xác lập ở mức cao, từ 8
cho đến 10%/năm cho các giao dịch qua đêm, từ 10 đến 11%/năm cho các kỳ hạn từ 1
tháng đến 1 năm.
- Kể từ sau tết Nguyên Đán, nhu cầu sử dụng tiền mặt trong dân cư giảm xuống, vốn
khả dụng của các ngân hàng từ đó cũng được cải thiện. Do đó, lãi suất trên thị trường
liên ngân hàng đã có sự sụt giảm rõ rệt tại tất cả các kỳ hạn. Kết thúc quý I, lãi suất kỳ
hạn qua đêm dao động từ 6,375 đến 7,0%/năm, bình quân ở mức 6,5%/năm; lãi suất
Nhóm 18 Trang
24
Đầu tư tài chính GVHD: Võ Thúy Anh
bình quân các kỳ hạn từ 1 tuần đến 1 tháng ở mức từ 7,435 đến 10,125%/năm. Lãi
suất các kỳ hạn từ 3 tháng trở lên vẫn ở mức trên 10,7%/năm.

- Như vậy, trong quý I/2010, những căng thẳng trên thị trường liên ngân hàng đã tạm
thời lắng xuống. Các mức lãi suất đang được điều chỉnh về mức thông thường (lãi
suất qua đêm thấp hơn lãi suất cơ bản và lãi suất các kỳ hạn dài đã thấp hơn lãi suất
huy động có cùng kỳ hạn). Điều này cho thấy tình hình thanh khoản của hệ thống
ngân hàng đang được cải thiện.
Thị trường mở:
- Tổng giá trị hợp đồng phát sinh trong khoảng thời gian báo cáo là trên 116 nghìn tỷ
đồng (trung bình khoảng trên 5 nghìn tỷ đồng/ngày), đa số có kỳ hạn 28 ngày và được
giao dịch tại mức lãi suất bằng với lãi suất cơ bản 8%/năm. Nghiệp vụ thị trường mở
thường xuyên được tăng cường 2 phiên/ ngày. Sang đến tháng 3, khi nguồn vốn khả
dụng của các ngân hàng thương mại đã được cải thiện, lượng tiền Ngân hàng Nhà
nước bơm ra thị trường đã giảm mạnh. Lượng tiền giao dịch trung bình trong mỗi
phiên hiện chỉ còn khoảng 3 nghìn tỷ đồng/ ngày. Kỳ hạn giao dịch cũng được rút
ngắn xuống còn 14 ngày thay vì 28 ngày như trước kia trong khi lãi suất vẫn được giữ
nguyên tại mức 8%.
Kết luận: Các mức lãi suất cao làm giảm hiện giá của các dòng tiền tương lai, do đó
làm giảm tính hấp dẫn của các cơ hội đầu tư. Vì lí do này, lãi suất thực mới là những
yếu tố chủ yếu của các khoản chi phí đầu tư kinh doanh. ( Nguồn VCBS )
6. Triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2010 :
Biểu 23: Một số chỉ tiêu vĩ mô chính
Chỉ tiêu 2008 2009 2010*
Tăng trưởng GDP (%) 6,5 5,32 6,5
Tăng trưởng sản xuất công
nghiệp (%)
15,9 6,78 17,5
Lạm phát (%) 19,89 6,52 7,0
Thâm hụt thương mại (tỷ
USD)
17 12,2 < 12,0
Tăng trưởng xuất khẩu (%) 29,9 -10 6

Tăng trưởng nhập khẩu (%) 28,5 -14 <17%
Tăng trưởng đầu tư toàn xã
hội
13,2 3,2 8,0
Cán cân vãng lai (tỷ USD) -9,2 -7,0 -13,9
FDI (tỷ USD)
- Số vốn đăng ký
64 21,5 22-25
Biểu 24: Chỉ tiêu 2008- 2009 -2010*
Giải ngân 11 10 10-11
Tăng trưởng tín dụng (%) 25,4 33,7 25
Bội chi ngân sách Nhà nước
(%GDP)
4,9 7 6,2
Tỷ giá VND/USD (thời điểm
cuối năm)
17.483 18.479 18.400
Dự trữ ngoại hối (tỷ USD) 24,2 16,0 15,0
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Nhóm 18 Trang
25

×