Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Đại học thái nguyên 15 năm xây dựng và phát triển (1994 – 2009)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (231.79 KB, 5 trang )

Khoa Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 151 - 155
151


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

SINH VIÊN VỚI VIỆC HỌC TÍN CHỈ


Khoa Thu Hoài
Khoa Công nghệ thông tin - Đại học Thái Nguyên

TÓM TẮT
Việc học theo tín chỉ đã bắt đầu trở nên phổ biến ở các trường đại học trên cả nước, nhưng nỗi
lòng của sinh viên khi theo học tín chỉ như thế nào, họ có những thuận lợi và khó khăn gì thì
không phải ai cũng biết,và ngay cả các giảng viên khi đứng trên bục giảng cũng có những trăn trở.
Bài báo này nêu lên những thuận lợi và khó khăn của sinh viên và giải pháp khắc phục cũng như
gợi ý về phương pháp để giúp sinh viên có thể tham khảo sao cho việc học tập trong môi trường
mới trở nên dễ dàng hơn. Bạn nào giữ được niềm đam mê học tập, hăng say học tập, giữ được mục
tiêu học tập thì mọi trở ngại đều trở nên nhỏ bé.
Từ khóa: Tín chỉ, tự học, thảo luận, sinh viên


Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của chính phủ
ban hành ngày 2.11.2005 về đổi mới cơ bản
và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai
đoạn 2006-2020 nêu rõ: “ xây dựng và thực
hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo
hệ thống tín chỉ, tạo điều kiện thuận lợi để
người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi
nghành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các


cấp học tiếp theo ở trong nước và ở nước
ngoài”. Theo quy trình đó, từ năm 2010, các
trường ĐH-CĐ sẽ chuyển qua đào tạo theo
học chế tín chỉ.Vậy dạy và học theo tín chỉ
khác gì so với dạy và học theo niên chế? Sinh
viên có những lợi thế và khó khăn gì khi học
tín chỉ?
MỘT SỐ NÉT VỀ HỌC CHẾ TÍN CHỈ
Lịch sử về học chế tín chỉ
Xuất phát từ đòi hỏi quy trình đào tạo phải tổ
chức sao cho mỗi sinh viên (SV) có thể tìm
được cách học thích hợp nhất cho mình, đồng
thời trường đại học phải nhanh chóng thích
nghi và đáp ứng được những nhu cầu của thực
tiễn cuộc sống. Vào năm 1872, Viện Đại học
Harvard đã quyết định thay thế hệ thống
chương trình đào tạo theo niên chế cứng nhắc
bằng hệ thống chương trình mềm dẻo cấu
thành bởi các môđun mà mỗi SV có thể lựa
chọn một cách rộng rãi. Có thể xem sự kiện
đó là điểm mốc khai sinh học chế tín chỉ. Đến
đầu thế kỷ 20 hệ thống tín chỉ (TC) được áp
dụng rộng rãi hầu như trong mọi trường đại


Tel: 0914602999;Email:
học Hoa Kỳ. Trước năm 1975 một số trường
đại học chịu ảnh hưởng của Mỹ tại Miền Nam
Việt Nam đã áp dụng học chế TC: Viện Đại
học Cần Thơ, Viện Đại học Thủ Đức ... Trong

quá trình "Đổi mới" ở nước ta từ cuối năm
1986 chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, giáo dục đại học ở
nước ta cũng có nhiều thay đổi. Theo chủ
trương đó, học chế "học phần" đã ra đời và
được triển khai trong toàn bộ hệ thống các
trường đại học và cao đẳng nước ta từ năm
1988 đến nay.
Học chế học phần được xây dựng trên tinh
thần tích lũy dần kiến thức theo các môđun
trong quá trình học tập, tức là cùng theo ý
tưởng của học chế TC xuất phát từ Mỹ. Tuy
nhiên, về một số phương diện, học chế học
phần chưa thật sự mềm dẻo như học chế TC
của Mỹ, do đó nó được gọi là "sự kết hợp
niên chế với TC", tuy nhiên những khó khăn
về đời sống trong xã hội nói chung và trong
các trường đại học nói riêng lúc đó chưa cho
phép đặt vấn đề thực hiện học chế môđun hóa
triệt để. Vào năm 1993, khi những khó khăn
chung của đất nước và của các trường đại học
dịu bớt, Bộ GD&ĐT chủ trương tiến thêm
một bước, thực hiện học chế học phần triệt để
hơn, theo mô hình học chế TC của Mỹ. (Trích
bài viết của GS. Lâm Quang Thiệp - Đại học
Quốc gia Hà Nội tháng 5- 2008)
Đặc điểm của học chế tín chỉ
Khoa Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 151 - 155
152



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

- Nói một cách dễ hiểu thì học chế tín chỉ là
mỗi môn học được lượng hóa bằng một tín
chỉ. Sinh viên (SV) tích lũy dần, hoàn thành
chương trình học của mình theo số tín chỉ chứ
không phải lên lớp theo từng học kì, từng
năm học như ở phổ thông. Ở bậc đại học, theo
qui định của từng trường nhưng trung bình
mỗi SV phải tích lũy khoảng 150 tín chỉ trong
một chương trình đào tạo. Đặc điểm của học
chế tín chỉ là SV được chủ động tự chọn đăng
ký môn học theo cấu chúc trương trình đào
tạo theo kế hoạch học tập, nhu cầu của mình.
Từ đó, nhà trường sẽ căn cứ vào số lượng
đăng kí môn học đó để mở lớp học cho cho
SV. Học nhanh hay chậm tùy khả năng và
điều kiện kinh tế của từng SV nhưng tối đa
không quá 6,5 năm. Học chế tín chỉ thực chất
là cá nhân hóa quy trình đào tạo, trao quyền
chủ động cho SV, tạo cơ hội cho SV tự quyết
định về tiến độ và tốc độ tích lũy tín chỉ một
cách phù hợp nhất với năng lực và nhu cầu .
Điều đó đảm bảo cho quá trình đào tạo trong
các trường đại học trở nên mềm dẻo hơn,
đồng thời cũng tạo khả năng cho việc thiết kế
chương trình liên thông giữa các cấp đào tạo
đại học và giữa các ngành đào tạo khác nhau.

-Với học chế TC, SV có thể chủ động ghi tên
học các học phần khác nhau dựa theo những
quy định chung về cơ cấu và khối lượng của
từng lĩnh vực kiến thức. Nó cho phép SV dễ
dàng thay đổi ngành chuyên môn trong tiến
trình học tập khi thấy cần thiết mà không phải
học lại từ đầu.
-Với học chế TC, kết quả học tập của SV
được tính theo từng học phần chứ không phải
theo năm học, do đó việc hỏng một học phần
nào đó không cản trở quá trình học tiếp tục,
SV không bị buộc phải quay lại học từ đầu -
Học chế TC cho phép ghi nhận cả những kiến
thức và khả năng tích luỹ được ngoài trường
lớp để dẫn tới văn bằng, khuyến khích SV từ
nhiều nguồn gốc khác nhau có thể tham gia
học đại học một cách thuận lợi. Về phương
diện này có thể nói học chế TC là một trong
những công cụ quan trọng để chuyển từ nền
đại học mang tính tinh hoa (elitist) thành nền
đại học mang tính đại chúng (mass).
-Học chế TC cung cấp cho các trường đại học
một ngôn ngữ chung, tạo thuận lợi cho SV
khi cần chuyển trường cả trong nước cũng
như ngoài nước.
-Tuy nhiên học chế TC cũng có nhược điểm :
do phần lớn các môđun trong học chế TC
được quy định tương đối nhỏ,3 hoặc 4 TC.
Do vậy, sẽ không đủ thời gian để trình bày
kiến thức thực sự có hệ thống theo một trình

tự liên tục. Từ đó, gây cảm giác các kiến thức
bị cắt vụn. Người ta khắc phục nhược điểm
này bằng cách không thiết kế các môđun quá
nhỏ dưới 3 TC và trong những năm cuối,
thường thiết kế các kỳ thi có tính tổng hợp để
SV có cơ hội liên kết, tổng hợp các kiến thức
đã học. Mặt khác khó tạo nên sự gắn kết
trong SV vì các lớp học theo môđun không ổn
định. Người ta khắc phục nhược điểm này
bằng cách sắp xếp thời khoá biểu để SV có
thể tham gia các hoạt động đoàn thể tạo nên
sự gắn kết.
Sinh viên với việc học tín chỉ
Những thuận lợi
- Nó làm cho SV chủ động hơn trong hoạt
động học tập, đặc biệt nó tạo một tác phong
công nghiệp đối với mọi hoạt động của nhà
trường, kể cả trong SV và trong giáo chức, vì
mọi hoạt động đào tạo trong trường phải được
khớp nối đúng thời gian và địa điểm. Với học
chế TC việc hỗ trợ sinh viên thuộc diện chính
sách hoặc diện học yếu phải kéo dài thời gian
học tập thuận lợi hơn nhiều so với kiểu học
theo niên chế.
- Căn cứ vào chương trình chung được xây
dựng với quy định số tín chỉ tối thiểu cần đạt
được, SV có thể ghi danh đăng ký một lịch
học phù hợp với mình. SV không phải thi
cuối năm, thi tốt nghiệp hay làm luận văn
tốt nghiệp, chỉ cần hoàn thành số tín chỉ cần

thiết của chương trình trong một thời gian
thuận lợi nhất cho mình. Sự lựa chọn mở
này tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên
phát huy năng lực cá nhân, phù hợp với nhu
cầu và sở nguyện.
- Bên cạnh đó đào tạo tín chỉ giúp người học
chuyển đổi ngành học, chuyển đổi hình thức
đào tạo khi có nhu cầu hoặc có thể kết hợp
học để lấy văn bằng hai, ba chuyên ngành
khác nhau một cách thuận lợi. Hiệu quả tiết
kiệm có thể thấy rõ nhất: tuỳ theo năng lực
nhu cầu và hoàn cảnh, sinh viên có thể rút
Khoa Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 151 - 155
153


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ngắn thời gian đào tạo một năm hoặc kéo dài
tối đa là hai năm (đối với hệ đại học 4,5 năm)
và ba năm (đối với hệ đại học 6 năm).
- Đào tạo tín chỉ có một nguyên tắc quan
trọng là đào tạo theo trình độ thực tế của
người học. Cụ thể là căn cứ trình độ để xếp
lớp nên có ưu điểm là người học đã đạt đến
trình độ nào thì được công nhận đến trình độ
ấy, không phải học lại từ đầu, tránh được tình
trạng cào bằng gây mất thời gian và công sức.
-Ngoài ra, phải kể đến là phương thức đánh
giá của đào tạo tín chỉ rất chặt chẽ. Đó là đánh

giá trong cả quá trình học chứ không phải
bằng một kỳ thi kết thúc học kỳ (hay học
phần) nên đảm bảo chính xác hơn. Những
điểm không đạt sẽ bị loại ra khỏi điểm trung
bình chung. Người học cứ phải đạt đủ số tín
chỉ mới được công nhận tốt nghiệp. Chuyển
sang đào tạo tín chỉ phương thức đánh giá sẽ
thay đổi từ điểm số như hiện nay sang đánh
giá theo thang điểm chữ A, B, C, D, F. Trong
đó F là mức chưa đạt yêu cầu phải học và thi
lại tín chỉ đó
Những vướng mắc
- Đối với SV, những người đã được “chăn
dắt” từ trường phổ thông khi bước vào trường
đại học hết sức ngỡ ngàng về mọi mặt, học
chế TC tạo nên bước chuyển khá đột ngột, họ
phải mất một thời gian để làm quen. Ở bậc đại
học, khối lượng kiến thức nhiều hơn, giảng
viên dạy nhanh hơn ở trung học phổ thông
rất nhiều. Chẳng hạn ở trung học phổ thông,
có thể một môn học chỉ có một cuốn sách
nhưng ở bậc đại học là 10 cuốn. Đòi hỏi SV
phải biết cách đọc sách, cách thu thập thông
tin, tài liệu để phục vụ cho môn học. Bên
cạnh đó, SV cần phải biết cách sắp xếp thời
gian học tập.
- Mặt khác ở phổ thông các em hầu hết học
theo phương pháp thầy đọc trò ghi, ít khi phải
tự chuẩn bị lượng kiến thức trước ở nhà. Còn
với việc học theo tín chỉ thì ngược lại SV phải

chuẩn bị lượng kiến thức trước ở nhà, trên lớp
giảng viên đưa ra những nội dung chính gợi
mở để thầy trò cùng thảo luận và ghi lại kết
quả cuối cùng. Với cách học như vậy nếu các
em chuẩn bị trước bài ở nhà kỹ sẽ thấy những
vướng mắc và khi lên lớp có thể hỏi bạn bè và
thảo luận cùng giảng viên sẽ giúp việc ghi
nhớ bài một cách sâu sắc và cặn kẽ. Nhưng
SV mới hầu như chưa quen với việc đọc trước
bài ở nhà và chuẩn bị sẵn những thắc mắc nên
việc lên lớp gần như nghe mới hoàn toàn nên
với việc tóm tắt nội dung của giảng viên thì
SV chỉ hiểu bài một cách lõm bõm, sơ sài.
Gợi ý cách khắc phục
-Để tránh được những khó khăn cho việc học
của mình trước hết các em hãy tìm hiểu và
nắm vững các tiêu chí đánh giá kết quả học
tập như:
- Điểm trung bình chung học kỳ
- Số tín chỉ tích luỹ
Điểm trung bình chung tích luỹ
Sau đó sẽ đăng ký học theo khả năng có thể
để SV tránh được cảnh cáo kết quả trong từng
học kỳ.
- Để đảm bảo điểm trung bình chung học kỳ
không quá thấp, ngoài các học phần đăng ký
theo thời khóa biểu học kỳ của Nhà trường,
các em nên đăng ký học lại hoặc học cải thiện
điểm của các học phần học trong các học kỳ
trước (những học phần học lại này nếu đạt

điểm học phần cao hơn điểm cũ sẽ tính vào
trung bình chung học kỳ, còn nếu thấp hơn
điểm cũ thì các em có thể rút kết quả).
- Đảm bảo điểm trung bình chung tích luỹ có
đủ thời gian để cải thiện. Nếu thấy điểm trung
bình chung tích luỹ chưa đạt thì phải giảm các
học phần mới, tăng các học phần học lại và
các học phần cải thiện điểm.
- Đối với sinh viên, khó nhất của học theo tín
chỉ là phải áp dụng phương pháp học tích cực,
đó là phương pháp học lấy tự học và học cái
cốt lõi là chính. Phương pháp học này phát
huy tính năng động và sáng tạo của sinh viên.
- Học lý thuyết trên lớp: Giờ học lý thuyết
không chỉ ghi chép những lời thầy cô giảng
trên lớp một cách thụ động mà phải nghe, suy
ngẫm và nắm được “linh hồn” những vấn đề
mà thầy cô truyền đạt? Thầy cô đặt vấn đề
như thế nào? Tại sao lại đặt vấn đề như thế?
Thông số đầu vào là những thông số nào?
Thông số đầu ra cần phải xác định là những
thông số nào? Nguyên tắc để giải quyết vấn
đề là gì? Phương pháp và con đường cụ thể để
giải quyết những vấn đề đó là gì? mà chưa
cần nắm rõ những chi tiết cụ thể. Vì thế
những sinh viên không đến lớp sẽ không có
Khoa Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 151 - 155
154



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

được bức tranh tổng quát của học phần và
từng chương, mục.
- Học thảo luận trên lớp: Giờ thảo luận là
giờ để làm rõ những vấn đề của giờ lý thuyết
áp dụng vào những bài toán cụ thể. Nếu như
giờ lý thuyết chủ yếu là nghe, viết và suy
ngẫm thì giờ thảo luận phải là nói nhiều và
tranh luận. Ưu tiên đặt câu hỏi hơn là trả lời.
Tránh đi vào những vấn đề quá sâu, phức tạp
và mất nhiều thời gian. Đừng nôn nóng hiểu
sâu, hãy hiểu những vấn đề cơ bản trước.
- Ở nhà: Học cách tự đọc tài liệu để hiểu sâu
“linh hồn” của từng chương và tiến tới cả học
phần. SV phải biết cách thu thập thông tin, tài
liệu để phục vụ cho môn học. Bên cạnh đó, SV
cần phải biết cách sắp xếp thời gian học tập.
Tự triển khai những vấn đề cụ thể của học
phần như giải bài tập, thiết kế, chuẩn bị câu
hỏi cho các giờ thảo luận trên lớp. Hãy đi từ
dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Tăng cường trao đổi bài theo nhóm. Người
biết khi giảng cho người chưa biết sẽ càng
giỏi hơn, người chưa biết hỏi người biết sẽ
hiểu được vấn đề
- Sinh viên cần nắm bắt thông tin chính xác
và kịp thời. Mỗi SV cần nắm vững Quy chế.
Mỗi tuần nên vào Website của trường ít nhất
2 lần để đọc và cập nhật những thông tin có

liên quan đến SV. Tham gia diễn đàn học tập
và và rèn luyện của SV để nhằm tạo thêm
động lực để học tốt.
Tất cả những vấn đề nêu trên sẽ không là trở
ngại nếu SV học đại học với quyết tâm như
khi thi đại học. Chỉ sợ những bạn nào “ngơi
nghỉ” một chút thành ra sẽ “mất đà”. Quan
trọng là có niềm đam mê học tập, hăng say
học tập, giữ được mục tiêu học tập như khi thi
vào đại học. Bạn nào giữ được cái đó cộng
với sự năng động, khả năng thích nghi tốt sẽ
vượt qua.
Hãy chuẩn bị tinh thần cho cuộc chiến chinh
phục đỉnh cao mới, buông lơi ngay sau khi
bước qua ngưỡng cửa đại học là một trong
những vấp ngã phổ biến và đáng tiếc nhất mà
chúng tôi nhìn thấy trong những năm qua. Tất
nhiên cũng có những yêu cầu mà học chế tín
chỉ có đòi hỏi cao hơn như tính chủ động sáng
tạo, khả năng quyết định và tính thích nghi,
… đây thực sự là những kỹ năng sẽ giúp ích
cho các em suốt cuộc sống sau này. Khả năng
ngoại ngữ - tiếng Anh cũng là một lợi thế cho
việc học, tự học và cả khi ra trường xin việc,
đi làm … việc này nên bắt đầu chuẩn bị càng
sớm càng tốt.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Gordon W. Green J r. '' Để luôn đạt điểm 10 ''

Nhà xuất bản Văn hoá thông tin -2007.
[2]. Khoa tâm lý giáo dục trường Đại học Sư
phạm- ĐHTN '' Tài liệu học tập Giáo dục học
phần II'' năm 2004
[3]. Trích thư của GS Nguyễn Cảnh Toàn ''Bàn
thêm về tự học với nhà văn Nguyên Ngọc'' Trên
diễn đàn trí tuệ Việt Nam số 21 tháng 11 năm
2007.
[4]. The History of Higher Education, ASHE
Reader Series, Simon & Schuster Custom
Publishing, 1997.
[5]. Lâm Quang Thiệp, Lê Viết Khuyến: Chương
trình và quy trình đào tạo đại học. trích: "Một số
vấn đề về Giáơ dục đại học", Nxb ĐHQG Hà Nội,
2004.
[6]. Arthur Levine - Handbook on Undergraduate
Curriculum. San Francissco: Jossey Bass, 1978.
[7] Omporn Regel - The Academic Credit System
in Higher Education: Effectivness and Relevance
in Developing Country - The World Bank (Bản
dịch: "Về hệ thống tín chỉ học tập" - Bộ Giáo dục
và Đào tạo - 1994).
Khoa Thu Hoài Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 71(9): 151 - 155
155


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên








SUMMARY
STUDENTS WITH CREDIT PROGRAM

Khoa Thu Hoai


Faculty of Information Technology – Thai Nguyen University


Educational credit program has become popular in universities nationwide.
However, what do learners think about educational credit program? what are their
advantages and disadvantages? That are not easy questions to find the
answers, even to the lecturers. This article states advantages and difficulties of
students, proposing solutions as well as suggestions on method to help student make learning in a new
environment easier. These above-mentioned issues are not really problems to university students if they
determine to try to get the most positive results. Students who keep passion for studying, trying to study,
keeping studying goals, all obstacles will be easily solved.
Key words: credit program, study , comment, student




Tel: 0914602999;Email:

×