Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Đề cương triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.32 KB, 19 trang )

Đề cương môn Triết K15 B3
Chương 1
Câu 1 :Vấn đề cơ bản ϖ của Triết học : Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết
học là vấn đề về mối quan hệ của tư duy với tồn tại, của ý thức đối với vật chất. Việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học là cơ sở và điểm xuất phát để giải quyết các vấn đề khác
của triết học.
- Vấn đề cơ bản của triết học gồm 2 mặt:
a) Mặt thứ nhất trả lời câu hỏi: giữa vật chất và ý thức cái nào có trước, cái nào có sau, cái
nào quyết định cái nào? Nói cách khác, giữa vật chất và ý thức cái nào là tính thứ nhất, cái
nào là tính thứ 2. Có 2 cách trả lời khác nhau dẫn đến hình thành 2 khuynh hướng triết học
đối lập nhau:
+ Những quan điểm triết học cho vật chất là tính thứ nhất, ý thức là tính thứ 2 họp thành chủ nghĩa
duy vật. Trong lịch sử tư tưởng triết học có ba hình thức cơ bản của chủ nghĩa duy vật:
1) Chủ nghĩa duy vật chất phác, ngây thơ thời cổ đại;
2) Chủ nghĩa duy vật máy móc siêu hình thế kỷ 17 - 18;
3) Chủ nghĩa duy vật biện chứng
+ Ngược lại, nhũng quan điểm triết học cho ý thức là tính thứ nhất, vật chất là tính thứ 2,
họp thành chủ nghĩa duy tâm. Chủ nghĩa duy tâm lại được thể hiện qua hai trào lưu chính:
chủ nghĩa duy tâm khách quan ( Platôn; Hêghen ) và chủ nghĩa duy tâm chủ quan ( Beccli,
Hium ).
b) Mặt thứ 2 trả lời cho câu hỏi con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
+ Các nhà triết học duy vật cho rằng, con người có khả năng nhận thucw thế giới . Song, do
mặt thứ nhất quy định, nên sự nhận thức đó là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con
người.
+ Một số nhà triết học duy tâm cung thừa nhận con người có khả năng nhận thức thế giới
nhưng sự nhận thức đó là sự tự nhận thức tinh thần , tư duy.
+ Một số nhà triết học duy tâm khác như Hium, Cantơ lại phủ nhận khả năng nhận thức thế
giới của con người. Đây là những người theo " bất khả tri luận" ( thuyết không thể biết).
Khuynh hướng này không thừa nhận vai trò của nhận thức khoa học trong đời sống xã hội.
Đối với các hệ thổng triết học, vấn đề cơ bản của triết học không chỉ được thể hiện trong các
quan niệm có tính chất bản thể luậnk, mà còn được thể hiện trong các quan niệm chính trị xã


hội, dạo đức và tôn giáo, tất nhiên có thể là nhất quán hoặc là không nhất quán.Cuộc đấu
tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm xuyên suốt lịch sử phát
triển của tư tưởng triết học và thể hiện tính đảng trong triết học.
Câu 2 : Phân biệt sự khác nhau ϖ giữa phương pháp biện chứng và phương pháp
siêu hình trong nhận thức?
a) Phương pháp siêu hình:
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập,tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và
giữa các mặt đối lập có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thì chỉ là sự biến đổi về số
lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm bên ngoài đối tượng.
b) Phương pháp biện chứng: Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau ảnh
hưởng nhau và ràng buộc nhau
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là
phát triển.
Chương 3 :Câu 1 : Thực Chất Và Ý Nghĩa Của Cuộc Cách Mạng
Trong Triết Học Do Các Mác Và Ph.Ăngghen Thực Hiện :
a.1. Thực Chất Sự Ra Đời Triết Học Mác Tạo Nên Sự Biến Đổi Có Ý Nghĩa Cách Mạng Trong Lịch Sử
Triết Học Mác. Triết Học Mác Đã Tạo Ra Hình Thức Phát Triển Cao Của Chủ Nghĩa Duy Vật Là Chủ Nghĩa Duy
Vật Biện Chứng Và Hình Thức Phát Triển Cao Của Phép Biện Chứng Là Phép Biện Chứng Duy Vật. Triết Học Mác
Thực Sự Khắc Phục Được Sự Tách Rời Thế Giới Quan Duy Vật Và Phép Biện Chứng Trong Lịch Sử Phát Triển
Của Triết Học. Cố Nhiên, Trong Chủ Nghĩa Duy Vật Trước Mác Đã Chứa Đựng Không Ít Những Luận Điểm Riêng
Biệt Thể Hiện Tinh Thần Biện Chứng; Song, Do Sự Hạn Chế Của Điều Kiện Xã Hội Và Trình Độ Phát Triển Của
Khoa Học Nên Tính Siêu Hình Vẫn Là Một Nhược Điểm Chung Của Nó. Do Vậy, Quan Điểm Duy Vật Của Những
Học Thuyết Đó Thường Thiếu Triệt Để. Đây Là Điểm Yếu Để Chủ Nghĩa Duy Tâm Lợi Dụng Tiến Hành Đấu
Tranh Chống Lại. Còn Phép Biện Chứng Lại Được Phát Triển Trong Cái Vỏ Bọc Duy Tâm Thần Bí Tiêu Biểu
Trong Triết Học Của Hêghen. Cho Nên, Nội Dung Của Phép Biện Chứng Chưa Phản Ánh Đúng Thế Giới Hiện
Thực. Các Mác Và Ph.Ăngghen Đã Cải Tạo Chủ Nghĩa Duy Vật Cũ, Khắc Phục Hạn Chế Siêu Hình; Cải Tạo Phép
Biện Chứng, Giải Thoát Khỏi Cái Vỏ Duy Tâm. Từ Đó Khái Quát Xây Dựng Một Học Thuyết Triết Học Mới - Chủ
Nghĩa Duy Vật Biện Chứng.Trước Triết Học Mác, Có Một Số Học Thuyết Triết Học Bàn Đến Vấn Đề Xã Hội;
Song, Do Hạn Chế Về Thế Giới Quan Hoặc Phương Pháp Luận Nên Các Học Thuyết Đó Mới Chỉ Nghiên Cứu

Hoặc Lĩnh Vực Này Hoặc Lĩnh Vực Kia Mà Chưa Nghiên Cứu Toàn Diện Mọi Mặt Của Xã Hội. Do Vậy Không
Thể Nào Tìm Ra Được Quy Luật Phát Triển Chung Của Xã Hội Loài Người. Các Mác Và Ph.Ăngghen Đã Vận
Dụng Những Lý Luận Của Duy Vật Biện Chứng Để Nghiên Cứu Lĩnh Vực Xã Hội, Tìm Ra Các Quy Luật Phát
Triển Chung Của Xã Hội Loài Người Và Tiến Trình Phát Triển Tất Yếu Tự Nhiên Của Nó. Từ Đó Xây Dựng, Sáng
Lập Ra Chủ Nghĩa Duy Vật Lịch Sử Với Tính Cách Là Bộ Phận Của Triết Học Mác. Chủ Nghĩa Duy Vật Lịch Sử
Là Thành Tựu Vĩ Đại Nhất Của Tư Tưởng Khoa Học. Đó Là Một Cuộc Cách Mạng Thực Sự Trong Triết Học. Từ
Khi Chủ Nghĩa Duy Vật Lịch Sử Ra Đời Đã Loại Bỏ Được Cơ Sở Tồn Tại Cuối Cùng Của Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Những Học Thuyết Triết Học Trước Triết Học Mác Thường Mới Dừng Lại Ở Việc Giải Thích Thế Giới,
Cho Nên Họ Chưa Đề Cập Đến Vai Trò Của Hoạt Động Thực Tiễn Đối Với Lý Luận, Lý Luận Thường Tách Rời
Với Thực Tiễn. Do Vậy, Không Tránh Khỏi Tình Trạng Rơi Vào Quan Điểm Duy Tâm Về Xã Hội. Ngay Cả Ở
Trong Triết Học Phoiơbắc Tuy Coi Vấn Đề Con Người Là Trung Tâm Thế Nhưng Đây Chỉ Mới Là Con Người
Thuần Túy Về Mặt Sinh Vật, Chưa Phải Con Người Với Tính Cách Là Chủ Thể Hoạt Động Cải Tạo Thế Giới. Còn
Triết Học Mác Đã Xác Định Rõ: Nhiệm Vụ Của Mình Không Chỉ Dừng Lại Ở Giải Thích Thế Giới Mà Chủ Yếu Là
Tìm Ra Các Phương Tiện, Các Biện Pháp Để Cải Tạo Thế Giới Bằng Cách Mạng. Triết Học Mác Thường Lấy Hoạt
Động Thực Tiễn Cải Tạo Xã Hội, Cải Tạo Thế Giới Của Con Người Là Điểm Xuất Phát Và Thông Qua Quá Trình
Hoạt Động Thực Tiễn Để Hoàn Thiện Hệ Thống Lý Luận Của Mình. Như Vậy, Lần Đầu Tiên Trong Lịch Sử Triết
Học, Triết Học Mác Đã Tạo Ra Được Sự Gắn Kết Chặt Chẽ Giữa Lý Luận Với Thực Tiễn. Lý Luận Xuất Phát Từ
Thực Tiễn, Chịu Sự Quyết Định Của Thực Tiễn; Khi Ra Đời, Lý Luận Định Hướng Hoạt Động Thực Tiễn. Vì Thế,
So Với Các Học Thuyết Triết Học Khác Thì Triết Học Mác Luôn Luôn Được Bổ Sung Và Hoàn Thiện.
a.2. Ý Nghĩa Của Cuộc Cách Mạng Trong Triết Học Do Các Mác Và
Ph.Ăngghen Thực Hiện
Nhờ Sự Ra Đời Của Triết Học Mác Mà Vai Trò Xã Hội Cũng Như Vị Trí Của Triết Học Trong Hệ
Thống Tri Thức Khoa Học Và Đối Tượng Triết Học Có Thay Đổi Căn Bản.Khi Ra Đời Triết Học Mác Đã Trở
Thành Thế Giới Quan Khoa Học Của Giai Cấp Vô Sản, Giai Cấp Vô Sản Có Cơ Sở Lý Luận Khoa Học Để Nhận
Thức Thực Tiễn Xã Hội; Từ Đó Định Ra Được Đường Lối Chiến Lược Và Đề Ra Những Biện Pháp Đấu Tranh Cải
Biến Xã Hội Có Hiệu Quả. Sự Kết Hợp Giữa Lý Luận Triết Học Mác Với Phong Trào Vô Sản Đã Tạo Nên Bước
Chuyển Biến Về Chất Của Phong Trào Từ Trình Độ Tự Phát Lên Tự Giác. Triết Học Mác Còn Là Vũ Khí Tư
Tưởng Để Đấu Tranh Chống Lại Hệ Tư Tưởng Tư Sản, Chủ Nghĩa Xét Lại, Cơ Hội Và Chủ Nghĩa Giáo Điều, Góp
Phần Quan Trọng Tạo Ra Sự Thống Nhất Của Phong Trào Đấu Tranh Của Giai Cấp Vô Sản.Triết Học Mác Cũng
Đã Chấm Dứt Tham Vọng Ở Nhiều Triết Học Coi Triết Học Là "Khoa Học Của Mọi Khoa Học" Đứng Trên Mọi

Khoa Học, Các Mác Và Ph.Ăngghen Đã Xây Dựng Lý Luận Triết Học Của Mình Trên Cơ Sở Khái Quát Các Thành
Tựu Của Khoa Học Tự Nhiên Và Khoa Học Xã Hội. Đến Lượt Mình, Triết Học Mác Ra Đời Đã Trở Thành Thế
Giới Quan Khoa Học Và Phương Pháp Luận Chung Định Hướng Sự Phát Triển Của Các Khoa Học Và Phương
Pháp Luận Chung Định Hướng Sự Phát Triển Của Các Khoa Học. Sự Phát Triển Của Khoa Học Ngày Càng Chứng
Tỏ Sự Cần Thiết Phải Có Tư Duy Biện Chứng Duy Vật Và Ngược Lại, Phải Phát Triển Lý Luận Triết Học Mác Dựa
Trên Những Thành Tựu Của Khoa Học Hiện Đại. Như Vậy, Triết Học Mác Đã Phân Định Rõ Ranh Giới Giữa Triết
Học Với Các Khoa Học Khác Và Thiết Lập Được Mối Quan Hệ Chặt Chẽ Giữa Chúng, Cũng Như Xác Định Rõ
Đối Tượng Nghiên Cứu Của Triết Học Là Tìm Ra Quy Luật Vận Động, Phát Triển Chung Nhát Của Tự Nhiên, Xã
Hội Và Tư Duy.
Chương 5 :
Định nghĩa vật chất của Lênin:
Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản, nền tảng của CNDV, nó chứa đựng
nội dung thế giới quan và phương pháp luận rất khái quát và sâu sắc.
Trong các học thuyết học trước Mác có nhiều quan điểm khác nhau về phạm trù này… Các
nhà duy vật cổ đại quan niệm vật chất mang tính trực quan cảm tính và vì thế họ đã đồng
nhất vật chất với những vật thể cụ thể, coi đó là cơ sở đầu tiên của sự tồn tại. Hoặc các nhà
triết học và khoa học tự nhiên do không hiểu phép biện chứng duy vật đã đồng nhất vật chất
với nguyên tử hoặc vật chất với khối lượng - một thuộc tính phổ biến của các vật thể.
Nhưng đến cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vật lý học đã có những phát minh rất quan trọng
đem lại cho con người những hiểu biết mới và sâu sắc về cấu trúc của thế giới vật chất, (như
phát hiện ra tia Rơn-ghen, hiện tượng phóng xạ, tìm ra điện tử,…). Chính các phát minh quan
trọng này bị các nhà triết học duy tâm lợi dụng để cho rằng “Vật chất tiêu tan mất” và như thế
toàn bộ nền tảng của CNDV sụp đổ hoàn toàn.
Trên cơ sở phân tích một cách sâu sắc cuộc cách mạng trong khoa học tự nhiên và phê phán
CNDT, Lê-nin đã đưa ra một định nghĩa toàn diện, sâu sắc và khoa học về phạm trù vật chất:
“Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta sao chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”.
2. Phân tích định nghĩa vật chất của Lê-nin:
Khi nghiên cứu định nghĩa vật chất của Lê-nin chúng ta cần phải hiểu và nắm được 3 ý cơ

bản sau:
- Vật chất là một phạm trù triết học: khi định nghĩa vật chất Lê-nin đòi hỏi cần phải phân biệt
vật chất với tính cách là một phạm trù triết học với các khái niệm của KHTN về các đối tượng,
sự vật cụ thể ở các trình độ kết cấu và tổ chức khác nhau và các thuộc tính khác nhau tương
ứng của chúng. Vật chất ở đây được hiểu với nghĩa là một phạm trù rộng nhất trong hệ thống
các phạm trù.
- Trong định nghĩa chúng ta cũng nhận thấy có hai mặt của một thuộc tính mà Lê-nin gọi là
“đặc tính” duy nhất của vật chất đó là:
+ Vật chất là “thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác… và tồn tại
không lệ thuộc vào cảm giác”. Như vậy, chúng ta hiểu vật chất là thực tại khách quan, là tất
cả những gì tồn tại bên ngoài và không lệ thuộc vào cảm giác, ý thức của con người. Tất cả
những gì tồn tại bên ngoài và độc lập với ý thức, với cảm giác, và đem lại cho chúng ta trong
cảm giác, trong ý thức đều là vật chất. Thuộc tính này đã thể hiện lập trường của CNDV: vật
chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc khách quan của cảm giác, ý thức; cảm
giác, ý thức của con người là sự phản ánh hiện thực khách quan.
+ Thực tại khách quan này con người có thể nhận thức được.
Tóm lại: Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã bao quát cả hai mặt của vấn đề cơ bản của triết
học trên lập trường của CNDV biện chứng. Đây là định nghĩa đầy đủ nhất, toàn diện nhất,
sâu sắc nhất và rộng nhất về vật chất. (3 điểm)
3. Ý nghĩa khoa học và cách mạng của định nghĩa: Định nghĩa vật chất của Lê-nin có ý nghĩa
thế giới quan và phương pháp luận sâu sắc đối với nhận thức khoa học và thực tiễn, vì: - Nó
đã giải đáp một cách đầy đủ, khoa học hai mặt của vấn đề cơ bản của triết học dựa trên quan
điểm của CNDV biện chứng.
- Chống lại các quan điểm sai trái của CNDT khách quan và chủ quan, khắc phục được các
thiếu sót của CNDV siêu hình quy vật chất vào vật thể cụ thể. Chống lại thuyết “bất khả tri
luận” phủ nhận khả năng nhận thức của con người.
- Định nghĩa đó đã làm rõ tính khái quát, tính phổ biến của phạm trù vật chất, bao quát cả
dạng vật chất trong xã hội đó là tồn tại xã hội, tồn tại bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức
xã hội. Khẳng định sự đúng đắn của nguyên lý về tính vô tận, vô hạn của thế giới vật chất.
- Định nghĩa vật chất của Lê-nin đã trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho

các nghành khoa học đi sâu nghiên cứu thế giới vật chất, tìm ra những kết cấu mới, những
thuộc tính mới và những quy luật vận động của vật chất để làm phong phú thêm kho tàng tri
thức của nhân loại. Đồng thời có vai trò định hướng cho sự phát triển của nhận thức khoa
học, tránh được sự khủng hoảng tương tự trong vật lý
câu 2 :Quan diem cua chu nghia duy vat bien chung ve van de co ban cua triet hoc? Thế giới xung
quanh ta rất đa dạng và phong phú nhưng xét theo triêt học thi chúng chỉ thuộc lĩnh vực vật chât hay ý
thức .theo quan điểm của phai duy tâm cho rằng bản chât của thế giói la ý thức ,ý thức là cai có trước
vật chât là cai có sau ,ý thức quyết định vật chất.tức ý thức là cơ sở nguồn gốc cho sự ra đòi tồn tại vận
động ,phát triển của các sư vật và hiện tượng trong thế giới.còn chủ nghĩa duy vật biên chứng khẳng
định bản chât của thế giới là vật chất.vật chất la cái có trước ý thức là cái có sau ,vật chất quyết định ý
thức,còn ý thức chỉ là sư phản ánh một phần thế giới vào đầu óc con người.Vật chất tồn tại khách
quan,độc lập với ý thức và biểu hiện ra qua các dang vật thể cua nó.Như VI Lênin định nghĩa vật chất
là một phạm trù triết học,dùng để chỉ hiện tại khách quan,dược đem lại cho con ngươi trong cảm
giác,dược cảm giác chúng ta chép lại chụp lại phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vao cam giác. Tóm lại
dù theo quan điểm của chủ nghỉa duy tâm hay chủ nghỉa duy vật biện chứng thì vấn đề cơ bản của triết
học van la hai linh vực vật chât và ý thức.
1. Phan tich quan diem cua chu nghia duy vat bien chung ve vat chat, y thuc va moi quan he bien
chung giua vat chất?
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức đồng thời vạch
ra sự tác động trở lại vô cùng quan trọng của ý thức đối với vật chất. Ý thức do vật chất sinh ra và
quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập tương đối lên có sự tác động trở lại to lớn đối với
vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Nói đến vai trò ý thức là nói đến vai trò của con người vì ý thức là ý thức của con người. Bản thân ý
thức tự nó không thể thay đổi được gì trong hiện thực. Ý thức muốn tác động trở lại cuộc sống hiện
thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có
nghĩa là sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu
từ khâu:
- nhận thức cho được quy luật khách quan,
- biết vận dụng đúng đắn quy luật khách quan,
- phải có ý chí,

- phải có phương pháp để tổ chức hành động.
Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về:
- bản chất quy luật khách quan của đối tượng,
- trên cơ sở ấy con người xác đinh đúng đắn mục tiêu và đề ra phương pháp hoạt động phù hợp.
Con người với ý thức của mình xác định các biện pháp để thực hhiện tổ chức các hoạt động tực tiễn để
thực hiện mục tiêu đề ra.
Ở đây ý thức có thể quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng thế
giới khách quan. Ngược lại nếu ý thức phản ánh sai sự thật khách quan thì sẽ dẫn đến sai lầm và thất
bại.
Vì vậy phải phát huy tính năng động và sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố con người để tác
động cải tạo thế giới khách quan.
Tuy nhiên, cơ sở để phát huy tính năng động sáng tạo chủ quan của ý thức là việc thừa nhận và tôn
trọng tính khách quan của thế giới vật chất. Nếu như thế giới vật chất và những quy luật của nó tồn tại
khách quan không phụ thuộc vào ý thức của con người thì trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
xuất phát từ thực tiễn khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình.
Nếu chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực
thì tôi hay bạn, chúng ta sẽ rơi vào không tưởng và duy ý chí
Phạm trù vật chất và phạm trù ý thức
# Lịch sứ của triết học cũng là lịch sử của những cuộc đấu tranh xung quanh vấn đề cơ bản
của triết học với hai phạm trù lớn: vật chất và ý thức. Song, để đi đến được những quan
niệm, định nghĩa khoa học và tương đối hoàn chỉnh về chúng cũng phải đến một giai đoạn
lịch sử nhất định với sự ra đời và phát triển của chủ nghỉa duy vật biện chứng.
Vật chất, theo Lênin. “là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại
cho con người trong cảm giác,được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh lại, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
Vật chất tồn tại bằng cách vận động và thông qua vận động để thể hiện sự tồn tại của
mình.Không thể có vật chất không vận động và không có vận động ở ngoài vật chất.Đồng
thời vật chất vận động trong không gian và thời gian.Không gian và thời gian là hình thức tồn
tại của vật chất,là thuộc tính chung vốn có của các dạng vật chất cụ thể .
Ý thức lẩn phẩm của quá trình phát triển của tự nhiên và lịch sử - xã hội.Bản chất của ý thức

là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan,là sự phản ánh tích cực,tự giác,chủ động,sáng
tạo thế giới khách quan và bộ não người thông qua hoạt động thực tiễn.Chính vì vậy,không
thể xem xét hai phạm trù này tách rời,cứng nhác, càng không thể coi ý thức (bao gồm cảm
xúc,ý chí,tri thức,….) là cái có trước ,cái sinh ra và quyết định sự tồn tại ,phát triển của thế
giới vật chất.
#
2. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có trước,nó sinh ra
và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi – cơ quan phản ánh thế giơí xung
quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành nguồn gốc tự nhiên .
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự
nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .
Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách
thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức .
-Tác động trở lại của ý thức
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó.Hơn
nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và
chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở
lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người .
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương hướng,xác
định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất
theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách
quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu
ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với
quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó
không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù
ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất .
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại

xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội
có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội .
Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối
quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý …
#
Chương 6 - câu 2 :Phân tích ý nghĩa phương pháp luận của
nguyên lí về mối liên hệ phổ biến và nguyên lí về sự phát
triển?
Phân tích 2 nguyên lý cơ bản :
Trước hết, chúng ta cần phân biệt rõ khái niệm về nguyên lý và khái niệm về mối liên hệ.
Nguyên lý là những nluận điểm về học thuyết lý luận mà tính chân lý của chúng là hiển
nhiên không cần chứng minh được xác định trong tư duy của con người có chức năng lý giải
mọi sự vật hiện tượng. Ví dụ: Mặt trời mọc hướng đông lặn hướng tây là một chân lý không
do nhận thức chúng ta quyết định. Người định ra được sự việc trên chỉ là định ra một nguyên
lý mà thôi.
Mối liên hệ là dùng để chỉ sự ràng buộc, làm tiền đề chỉ ra sự tồn tại giữa các mặt trong 1 sự
vật hay giữa các sự vật với nhau, mối liên hệ trên mang tính phổ biến, gồm có liên hệ bên
trong và bên ngoài; liên hệ gián tiếp và trực tiếp. Vì vậy, khi xem xét chúng ta có cái nhìn
toàn diện. Liên hệ trong không gian xem xét sự vật ở vị trí khác nhau dẫn đến có mối liên hệ
khác nhau. Liên hệ thời gian, xem xét mối liên hệ khi chúng ở nhiều thời điểm, quá trình
khác nhau của sự phát triển. Vì dụ: Hôm nay, anh ta là người xấu nhưng ngày mai anh ta trở
thành người tốt.
- Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến: Mọi sự vật hiện tượng tồn tại trong nhiều mối liên hệ
ràng buộc lại với nhau. Mối liên hệ này phải là mối liên hệ phổ biến khách quan để sự vật và
hiện tượng luôn phát triển, không cô lập. Mối liên hệ phổ biến khách quan chi phối tổng quát
mọi sự vận động của sự vật, hịên tượng.
Ý nghĩa thực tiễn: Chúng ta phải chú trọng tất cả các mối liên hệ, đánh giá đúng vai trò mối
liên hệ đang chi phối đối tượng. Qua hoạt động thực tiễn, chúng ta sử dụng nhiều biện pháp,
phương tiện thích hợp để thúc đẩy mối quan hệ đó phát triển một cách tích cực. Ví dụ: Về
không gian, trước đây anh ta là con nhà giàu, nhưng hiện nay anh ta là người nghèo. Vì vậy

trước đây anh ta là người tốt nhưng hiện nay anh ta trở thành kẻ trộm cắp.
- Nguyên lý về sự phát triển: Như chúng ta đã biết, phát triển là khuynh hướng của vận động,
đi từ thấp đến cao, đi từ đơn giản đến phức tạp. Còn vận động thì có cái sinh ra và có cái mất
đi; có cái vận động đi lên, có cái vận động đi xuống. Phát triển gồm có: phát triển trong tự
nhiên là thích nghi cơ thể với môi trường; trong XH là nâng cao năng lực tự nhiên ; trong tư
duy là hoàn thiện khả năng nhận thức của con người.
Mọi sự vật, hiện tượng luôn không ngừng vận động và phát triển. Vì vậy, khi xem xét 1 sự
vật phải có quan niệm sự vật đó phát triển (như đã nói ở trên phát triển là khuynh hướng vận
động đi từ thấp đến cao).
Ý nghĩa thực tiễn: Chúng ta cần chú trọng đến điều kiện khả năng, tình hình thực tế của đối
tượng để nhận ra mọi xu hướng thay đổi có thể xảy ra đối với đối tượng.
Câu1 : Phân tích nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Trả lời: - Liên hệ sự phụ thuộc lẫn nhau sự ảnh hưởng tương tác và sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật và hiện vật trong thế giới hoặc giữa các mặt các yếu tố các quá trình của sự
vật và hiện tượng trong thế giới. Khái niệm mối liên hệ phổ biến nói lên rằng mọi sự vật hiện
tượng trong thế giới dù phong phú và đa dạng nhưng đều tồn tại trong mối liên hệ giữa các
sự vật và hiện tượng khác đều chịu sự tác động, sự quy định các hiện tượng và các sự vật
khác, không sự vật nào tồn tại biệt lập ngoài mối liên hệ với sự vật và các hiện tượng khác.
- Mối liên hệ phổ biến còn nói lên rằng các bộ phận các yếu tố các giai đoạn phát triển khác
nhau của mỗi sự vật đều có tác động quy định lẫn nhau mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn
tại cho mình.
- Mối liên hệ phổ biến gồm những đặc điểm sau: Tính khách quan: Liên hệ là vốn có của các
sự vật hiện tượng không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, là điều kiện tồn tại
và phát triển của các s ự vật hiện tượng, con người không thể tạo ra được mối liên hệ của
các sự vật hiện tượng mà chỉ có thể nhận thức và vận dụng các mối liên hệ đó. + Tính đa
dạng nhiều vẻ: Các sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng phong phú, do đó mối liên hệ
phổ biến cũng đa dạng phong phú được thể hiện. Có mối liên hệ chung- riêng, bên trong-bên
ngoài, trực tiếp-gián tiếp, tất nhiên-ngẫu nhiên, cơ bản-không cơ bản.
tự liên hệ cá nhân :
Câu 3 : Phân tích cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ

thể ? Quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể là một trong những nguyên tắc
quan trọng của phơng pháp biện chứng Mác xít. Để trả lời câu hỏi này cần hiểu quan
điểm toàn diện là gì? Quan điểm lịch sử cụ thể là gì?
+Quan điểm toàn diện: là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu
tất cả các mặt, các yếu tố kể cả các mặt khâu trung gian, gián tiếp có liên quan đến sự
vật. Quan điểm lịch sử cụ thể: là quan điểm khi xem xét sự vật phải ngihên cứu nó trong
điều kiện thời gian và không gian nhất định. Phải nghiên cứu quá trình vận động của nó
trong quá khứ hiện tại và dự kiến tương lai. Cơ sở lý luận của hai quan điểm trên là
xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới Phải có quan điểm toàn diện vì sự vật nào cũng tồn tại trong mối liên hệ không có
sự vật nào tồn tại một cách riêng biệt, cô lập với sự vật khác.
+ Có xem xét toàn diện và lịch sử cụ thể sự vật thì ta mới hiểu được bản chất của sự vật
từ đó mới cải tạo được sự vật.
câu 4.phân tích cơ sở lý luận quan điểm toàn diện và quan điểm
phát triển
Trả lời: Quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể là một trong những nguyên tắc
quan trọng của phương pháp biện chứng Mác xít. Để trả lời câu hỏi này cần hiểu quan điểm
toàn diện là gì? Quan điểm lịch sử cụ thể là gì?
Quan điểm toàn diện là quan điểm khi xem xét và nghiên cứu sự vật phải nghiên cứu tất cả
các mặt, các yếu tố kể cả các mặt khâu trung gian, gián tiếp có liên quan đến sự vật.
Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm khi xem xét sự vật phải ngihên cứu nó trong điều kiện
thời gian và không gian nhất định. Phải nghiên cứu quá trình vận động của nó trong quá khứ
hiện tại và dự kiến tương lai.
- Cơ sở lý luận của hai quan điểm trên là xuất phát từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của
các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
- Phải có quan điểm toàn diện vì sự vật nào cũng tồn tại trong mối liên hệ không có sự vật
nào tồn tại một cách riêng biệt, cô lập với sự vật khác.
Phải có quan điểm lịch sử cụ thể vì sự vật nào cũng có quá trình hình thành tồn tại, biến đổi
và phát triển. Mỗi giai đoạn phát triển của sự vật lại có những mối liên hệ riêng đặc trưng cho
nó. Cho nên xem xét sự vật vừa phải xem quá trình phát triển của sự vật đó, vừa phải xem

xét trong từng điều kiện quá trình cụ thể.
+ Có xem xét toàn diện và lịch sử cụ thể sự vật thì ta mới hiểu được bản chất của sự vật từ
đó mới cải tạo được sự vật.
Quan điểm phát triển là một trong những nguyên tắc quan trọng củae phương pháp biện
chứng Mác xít. Quan điểm phát triển đòi hỏi chúng ta khi nhận thức sự vật phải xem xét nó
trong sự vận động, biến đổi, phải phân tích các sự vận động phức tạp của sự vật, tìm ra
khuynh hướng phát triển cơ bản của chúng để cải biên sự vật phục vụ cho nhu cầu của con
người.
- Cơ sở lý luận của quan điểm phát triển chính là nguyên lý về sự phát triển của các sự vật,
hiện tượng trong thế giới khách quan. Nguyên lý đó nói rằng phát triển là khuynh hướng tất
yếu khách quan của tất cả các sự vật hiện tượng. Phát triển được diễn ra theo 3 hình thức từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện.
- Mỗi sự vật đều có quá trình ra đời, biến đổi, phát triển và mất đi. Nhưng khuynh hướng
chung của thế giới vật chất là luôn phát triển theo hướng diện, cái mới thay thế cái cũ, cái
sau tiến bộ hơn cái trước. Do đó để nhận thức và phản ánh chính xác sự vật hiện tượng ta
phải có quan điểm phát triển.
+ ý nghĩa thực tiễn của quan điểm phát triển.
- Quan điểm phát triển là phương pháp khoa học giúp cho chúng ta hiểu được bản chất thực
sự của sự vật, tự do ta tìm được biện pháp cải tạo sự vật theo đúng quy luật phát triển của
chúng.
- Giúp ta tránh được tư tưởng hoang mang, dao động bi quan trước những bước thụt lùi tạm
thời đi xuống của sự vật, xây dựng niềm tin vào cái mới nhất định thắng lợi.
Chương7
Câu1: Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng và cái chung
Cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định.
Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một kết
cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
Cái đơn nhất là phạm trù dùng để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính… chỉ có ở một sự vật,
một kết cấu vật chất, mà không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
* Mối quan hệ biện chứng giữa cái riêng, cái chung và cái đơn nhất

Phép biện chứng duy vật cho rằng cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan và có mối
liên hệ hữu cơ với nhau. Điều đó thể hiện ở chỗ:
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung (vì ngoài những đặc điểm gia nhập vào cái chúng,
cái riêng còn có những đặc điểm riêng biệt mà chỉ riêng nó có – tức cái riêng còn có cái đơn nhất). Cái
chung là cái bộ phận nhưng sâu sắc hơn cái riêng (vì nó phản ánh những mặt, những thuộc tính, những
mối liên hệ ổn định, tất nhiên, lặp lại ở nhiều cái riêng cùng loại. Do vậy, cái chung là cái gắn liền với
cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng)
- Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Sự chuyển
hóa cái đơn nhất thành cái chung là biểu hiện của tiến trình phát triển tiến lên. Ngược lại, sự chuyển
hóa cái chung thành cái đơn nhất là biểu hiện của quá trình cái cũ, cái lỗi thời bị phủ định.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Vì cái chung là cái sâu sắc, bản chất hơn cái riêng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải
biết phát hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng. Nếu không hiểu biết cái chung sẽ
rơi vào tình trạng mò mẫm, mù quáng.
Câu 2: Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
a) Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả, nên nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết
quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện
Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan hệ
nhân quả. Thí dụ, ngày kế tiếp đêm, mùa hè kế tiếp mùa xuân, sấm kế tiếp chớp,v.v, nhưng
không phải đêm là nguyên nhân của ngày, mùa xuân là nguyên nhân của mùa hè, chớp là
nguyên nhân của sấm, v,v Cái phân biệt quan hệ nhân quả với quan hệ kế tiếp về mặt thời
gian là ở chỗ nguyên nhân và kết quả có quan hệ sản sinh ra nhau. Nguyên nhân của ngày
và đêm là do sự quay của trái đất quanh trục Bắc - Nam của nó, nên ánh sáng mặt trời chỉ
chiếu sáng được phần bề mặt trái đất hướng về phía mặt trời. Nguyên nhân của các mùa
trong năm là do trái đất, khi chuyển động trên quỹ đạo, trục của nó bao giờ cũng có độ
nghiêng không đổi và hướng về một phía, nên hai nửa cầu Bắc và Nam luân phiên chúc ngả
về phía mặt trời, sinh ra các mùa. Sấm và chớp đều do sự phóng điện giữa hai đám mây tích
điện trái dấu sinh ra. Nhưng vì vận tốc ánh sáng truyền trong không gian nhanh hơn vận tốc

tiếng động, do vậy chúng ta thấy chớp trước khi nghe thấy tiếng sấm. Như vậy không phải
chớp sinh ra sấm. Nguyên nhân sinh ra kết quả rất phức tạp, bởi vì nó còn phụ thuộc vào
nhiều điều kiện và hoàn cảnh khác nhau.
- Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Thí dụ, nguyên nhân của mất mùa có thể
do hạn hán, có thể do lũ lụt, có thể do sâu bệnh, có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật,
v.v Mặt khác, một nguyên nhân trong những điều kiện khác nhau cũng có thể sinh ra những
kết quả khác nhau. Thí dụ, chặt phá rừng có thể sẽ gây ra nhiều hậu quả như lũ lụt, hạn hán,
thay đổi khí hậu của cả một vùng, tiêu diệt một số loài sinh vật v.v
- Nếu nhiều nguyên nhân cùng tồn tại và tác động cùng chiều trong một sự vật thì chúng sẽ
gây ảnh hưởng cùng chiều đến sự hình thành kết quả, làm cho kết quả xuất hiện nhanh hơn.
Ngược lại nếu những nguyên nhân tác động đồng thời theo các hướng khác nhau, thì sẽ cản
trở tác dụng của nhau, thậm chí triệt tiêu tác dụng của nhau. Điều đó sẽ ngăn cản sự xuất
hiện của kết quả. Do vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải phân tích vai trò của từng loại
nguyên nhân, có thể chủ động tạo ra điều kiện thuận lợi cho những nguyên nhân quy định sự
xuất hiện của kết quả (mà con người mong muốn) phát huy tác dụng. Thí dụ, trong nền kinh
tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, mỗi thành phần kinh tế đều có vị trí nhất định đối với việc phát triển nền kinh tế
chung. Các thành phần kinh tế vừa tác động hỗ trợ nhau, vừa mâu thuẫn nhau, thậm chí còn
cản trở nhau phát triển. Muốn phát huy được tác dụng của các thành phần kinh tế để phát
triển sản xuất, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì phải
tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đều có điều kiện phát triển, trong đó thành phần
kinh tế nhà nước phải đủ sức giữ vai trò chủ đạo, hướng các thành phần kinh tế khác hoạt
động theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phải tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước đối
với nền kinh tế bằng luật pháp, chính sách v.v. thích hợp. Nếu không như vậy, nền kinh tế sẽ
trở nên hỗn loạn và năng lực sản xuất của các thành phần kinh tế có thể triệt tiêu lẫn nhau.
Do vậy phải tìm hiểu kỹ vị trí, vai trò của từng nguyên nhân.
b) Sự tác động trở lại của kết quả đối với nguyên nhân
Kết quả do nguyên nhân sinh ra, nhưng sau khi xuất hiện, kết quả lại có ảnh hưởng trở lại
đối với nguyên nhân. Sự ảnh hưởng đó có thể diễn ra theo hai hướng: Thúc đẩy sự hoạt
động của nguyên nhân (hướng tích cực), hoặc cản trở sự hoạt động của nguyên nhân (hướng

tiêu cực). Thí dụ, trình độ dân trí thấp do kinh tế kém phát triển, ít đầu tư cho giáo dục.
Nhưng dân trí thấp lại là nhân tố cản trở việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản
xuất, vì vậy lại kìm hãm sản xuất phát triển. Ngược lại, trình độ dân trí cao là kết quả của
chính sách phát triển kinh tế và giáo dục đúng đắn. Đến lượt nó, dân trí cao lại tác động tích
cực đến sự phát triển kinh tế và giáo dục.
*ý nghĩa ppluận :Điều này có nghĩa là một sự vật, hiện tượng nào đó trong mối quan hệ
này là nguyên nhân, nhưng trong mối quan hệ khác lại là kết quả và ngược lại. Vì vậy,
Ph.Ăngghen nhận xét rằng: Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là
nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định. Nhưng
một khi chúng ta nghiên cứu trường hợp riêng biệt ấy trong mối liên hệ chung của nó với
toàn bộ thế giới, thì những khái niệm ấy lại gắn với nhau trong một khái niệm về sự tác động
qua lại một cách phổ biến, trong đó nguyên nhân và kết quả luôn luôn thay đổi vị trí cho
nhau. Chuỗi nhân quả là vô cùng, không có bắt đầu
câu 3 :Cặp phạm trù tất yếu ngẫu nhiên và những biểu hiện cửa việc vận dụng
ý nghĩa phương pháp luận cửa nó trong?
TẤT NGHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN (necessity and hazard)
1- Khái niệm tất nhiên (hay cái tất nhiên) và ngẫu nhiên (hay cái ngẫu nhiên)
1.1- Định nghĩa
- TẤT NHIÊN (hay tất yếu - necessity) là phạm trù triết học, dùng để chỉ cái mà sự xuất hiện của nó là
do nguyên nhân cơ bản, bên trong của kết cấu vật chất (sự vật, hiện tượng, quá trình) quyết định; và
trong những điều kiện xác định, nó phải xảy ra theo một cách nhất định chứ không thể khác.
- NGẪU NHIÊN (hazard) là phạm trù triết học, dùng để chỉ cái mà sự xuất hiện của nó là do sự kết hợp
tình cờ của các nguyên nhân bên ngoài, hoàn cảnh bên ngoài (chứ không do những nguyên nhân bên
trong) của kết cấu vật chất quyết định; do đó, trong những điều kiện nhất định, nó có thể xảy ra hoặc
không xảy ra, có thể xảy ra như thế này hoặc như thế khác. (thí dụ : sinh, lão, bệnh, tử là “tất nhiên” đối
với mỗi người. Song sinh, lão, bệnh, tử vào lúc nào, như thế nào, trong hoàn cảnh nào, lại mang tính
“ngẫu nhiên” đối với họ).
1.2- Lưu ý
- “Cái tất nhiên” là “cái chung”, song không phải mọi “cái chung” đều là “cái tất nhiên”. Thí dụ : Trong
một đội học sinh đi thi toán quốc tế, các em đều là đoàn viên thanh niên Cộng sản, thì “cái chung” đoàn

viên không phải là “cái tất nhiên” của đội thi toán. Chỉ “cái chung” nào gắn với bản chất của sự vật,
mới là hình thức thể hiện của “cái tất nhiên”. Thí dụ : loại động vật có xương sống, sống dưới nước, thở
bằng mang, bơi bằng vây là “cái chung” đồng thời cũng là “cái tất nhiên” của loài cá.
- “Cái tất nhiên” và “cái ngẫu nhiên” đều có nguyên nhân (khác nhau là vị trí của những nguyên nhân
đó: bên trong hay bên ngoài).
- “Cái tất nhiên” và “cái ngẫu nhiên” đều bị chi phối bởi quy luật. Quy luật động lực chi phối “cái tất
nhiên”. Quy luật xác suất thống kê chi phối “cái ngẫu nhiên”. Thí dụ : Gieo đồng tiền kim loại, mỗi lần
gieo đồng tiền sấp hay ngửa là ngẫu nhiên. Song, “cái tất nhiên” là tổng số mặt sấp (hoặc ngửa) so với
tổng số lần gieo là xấp xỉ 1/2. Càng gieo nhiều, tỉ số đó càng tiến gần tới 1/2 (chứ không thể là 2/3 hay
3/4).
SỐ LẦN GIEO (y) SỐ LẦN HIỆN MẶT NGỬA (x) TẦN SỐ
4.040 2.048 0,5069
12.000 6.019 0,5016
24.000 12.012 0,5005
∞ lim x/y->1/2
2- Quan hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
2.1- TẤT NHIÊN và NGẪU NHIÊN đều tồn tại khách quan, độc lập với ý thức của con người, và đều
có vai trò nhất định đối với sự phát triển của sự vật. (Nếu “cái tất nhiên” chi phối sự phát triển của sự
vật thì “cái ngẫu nhiên” góp phần ảnh hưởng (tích cực hoặc tiêu cực) tới sự phát triển đó của sự vật).
2.2- TẤT NHIÊN và NGẪU NHIÊN không tồn tại biệt lập dưới dạng thuần tuý, mà tồn tại trong sự
thống nhất hữu cơ với nhau, nghĩa là:
- CÁI TẤT NHIÊN bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô số CÁI NGẪU NHIÊN.
(s/v tự tím thí dụ minh hoạ).
- CÁI NGẪU NHIÊN là hình thức biểu hiện, đồng thời là cái bổ sung cho CÁI TẤT NHIÊN. (thí dụ).
2.3- TẤT NHIÊN và NGẪU NHIÊN có thể chuyển hóa cho nhau, tùy theo việc xem xét chúng trong
những điều kiện hoặc trong mối quan hệ nào. (thí dụ).
3- Một số kết luận về mặt phương pháp luận
3.1- Trong nhận thức cũng như trong thực tiễn, khi muốn hoạch định và thực thi một công việc nào đó,
cần dựa hẳn vào CÁI TẤT NHIÊN (vì sao?), đồng thời phải chú ý đúng mức CÁI NGẪU NHIÊN để đề
phòng những trường hợp bất trắc.

3.2- Muốn tìm ra CÁI TẤT NHIÊN, phải thông qua việc nghiên cứu, so sánh nhiều CÁI NGẪU
NHIÊN để tìm cho ra “cái chung” gắn với bản chất của sự vật. Vì chính “cái chung” đó là hình thức thể
hiện của “cái tất nhiên” cần tìm.
câu 4 :Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức và ý nghĩa của nó cần 1. Trước tiên
cần phải hiểu khái niệm nội dung và hình thức là gì?
- Nội dung là tổng hợp tất cả các mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bần
vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
2. Mối liên hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức.
- Sự thống nhất giữa nội dung và hình thức. Vì nội dung là những mặt, những yếu tố, những quá trình
tạo nên sự vật, còn hình thức là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của nội
dung. Nên nội dung và hình thức luôn gắn bó chặt chẽ với nhau trong một thể thống nhất. Không có
hình thức nào tồn tại thuần túy không chứa đựng nội dung, ngược lại không có nội dung nào lại không
tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
Nội dung và hình thức không tồn tại tác rời nhau, nhưng không phải vì thế mà lúc nào nội dung và hình
thức cũng phù hợp với nhau. Không phải một nội dung bao giờ cũng chỉ được thể hiện ra trong một
hình thức nhất định và một hình thức luôn chỉ chứa một nội dung nhất định, mà một nội dung trong quá
trình phát triển có nhiều hình thức thể hiện, ngược lại, một hình thức có thể thể hiện nhiều nội dung
khác nhau. Ví dụ, quá trình sản xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội dung giống
nhau như: con người, công cụ, vật liệu nhưng cách tổ chức, phân công quá trình sản xuất có thể khác
nhau. Như vậy nội dung quá trình sản xuất được diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Hoặc cùng
một hình thức tổ chức sản xuất như nhau nhưng được thực hiện trong những ngành, những khu vực, với
những yếu tố vật chất khác nhau, sản xuất ra những sản phẩm khác nhau. Vậy là một hình thức có thể
chứa đựng nhiều nội dung khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Vì
khuynh hướng chủ đạo của nội dung là biến đổi, còn khuynh hướng chủ đạo của hình thức là tương đối
bền vững, chậm biến đổi hơn so với nội dung. Dưới sự tác động lẫn nhau của những mặt trong sự vật,
hoặc giữa các sự vật với nhau trước hết làm cho yếu tố của nội dung biến đổi trước; còn những mối liên
kết giữa các yếu tố nội dung, tức hình thức thì chưa biến đổi ngay, vì vậy hình thức sẽ trở lên lạc hậu
hơn so với nội dung và sẽ trở thành nhân tố kìm hãm nội dung phát triển. Do xu hướng chung của sự

phát triển của sự vật, hình thức không thể kìm hãm mãi sự phát triển của nội dung và sẽ phải thay đổi
cho phù hợp với nội dung mới . Ví dụ: quan hệ giữa lực lượng sản xuất (nội dung của phương thức sản
xuất) với quan hệ sản xuất (hình thức của quá trình sản xuất).
- Sự tác động trở lại của hình thức với nội dung. Hình thức do nội dung quyết định, nhưng hình thức có
tính độc lập tương đối và tác động trở lại nội dung. Sự tác động của hình thức đến nội dung thể hiện ở
chỗ: nếu phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển; nếu
không phù hợp với nội dung thì hình thức sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
3. Ý nghĩa của nó .
Vì nội dung và hình thức luân gắn bó với nhau trong quá trình vận động, phát triển của sự vật, do vậy
trong lãnh đạo ta đã không tách rời, tuyệt đối hóa giữa nội dung và hình thức của cuộc cách mạng cũng
như trong xây chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt động
cách mạng trong những giai đoạn cách mạng khác nhau.
Câu 5 :Phạm trù bản chất hiện tượng.Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng?.Ý
nghĩa phương pháp luận?
Nội dung cơ bản như sau:
1. Khái niệm bản chất và hiện tượng
- Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự
vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
- Hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
Thí dụ: Bản chất một nguyên tố hóa học là mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân, còn những tính chất
hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên tố khác là hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của
mối liên kết giữa điện tử và hạt nhân. Bản chất quan hệ giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân trong
chủ nghĩa tư bản là quan hệ bóc lột. Giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư do người công nhân làm ra.
Nhưng biểu hiện của quan hệ này ra ngoài xã hội là quan hệ bình đẳng, hai bên được tự do thỏa thuận
với nhau. Người công nhân có quyền ký hoặc không ký vào bản hợp đồng với nhà tư sản. Thậm chí nhà
tư sản còn chăm lo đến sức khỏe của người công nhân và gia đình họ nếu điều đó có lợi cho việc tăng
khối lượng giá trị thặng dư.
Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với cái chung. Có cái
chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất. Thí dụ: Mọi người đều là sản phẩm tổng
hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung, đồng thời đó là bản chất của con người. Còn những đặc

điểm về cấu trúc sinh học của con người như đều có đầu, mình và các chi đó là cái chung, nhưng
không phải bản chất của con người.
Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc (xét về mức độ nhận thức của
con người) nhưng không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía
cạnh nhất định của bản chất còn bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng
hơn và phong phú hơn quy luật.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng
Quan điểm duy tâm không giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng, vì
họ không thừa nhận hoặc không hiểu đúng sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng.
Chủ nghĩa duy tâm chủ quan cho rằng, bản chất không tồn tại thật sự, bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng
do con người bịa đặt ra, còn hiện tượng dù có tồn tại nhưng đó chỉ là tổng hợp những cảm giác của con
người, chỉ tồn tại trong chủ quan con người.
Chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại thực sự của bản chất nhưng đó không phải là
của bản thân sự vật mà theo họ đó chỉ là những thực thể tinh thần. Thí dụ: Platôn cho rằng, thế giới
những thực thể tinh thần tồn tại vĩnh viễn và bất biến là bản chất chân chính của mọi sự vật. Những sự
vật mà chúng ta cảm nhận được chỉ là hình bóng của những thực thể tinh thần mà thôi.
Trái với các quan điểm trên đây, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả bản chất và hiện tượng đều
tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật không do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được tạo nên
từ những yếu tố nhất định. Những yếu tố này liên kết với nhau bằng những mối liên hệ khách quan, đan
xen, chằng chịt. Trong đó có những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ tất
nhiên đó tạo thành bản chất của sự vật; hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất, cũng là cái
khách quan không phải do cảm giác của chủ quan con người quyết định.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng,
mà còn cho rằng, giữa bản chất và hiện tượng có quan hệ biện chứng vừa thống nhất gắn bó chặt chẽ
với nhau, vừa mâu thuẫn đối lập nhau.
a) Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng trước hết thể hiện ở chỗ bản chất luôn luôn được bộc lộ ra
qua hiện tượng; còn hiện tượng nào cũng là sự biểu hiện của bản chất ở mức độ nhất định. Không có
bản chất nào tồn tại thuần túy ngoài hiện tượng; đồng thời cũng không có hiện tượng nào hoàn toàn
không biểu hiện bản chất. V.I. Lênin viết: "Bản chất hiện ra, hiện tượng là có tính bản chất".

Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ bản chất và hiện tượng về căn bản là phù
hợp với nhau. Bản chất được bộc lộ ra ở những hiện tượng tương ứng. Bản chất nào thì có hiện tượng
ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu
hiện nó cũng thay đổi theo. Khi bản chất biến mất thì hiện tượng biểu hiện nó cũng mất theo. Thí dụ:
Bản chất của giai cấp tư sản của chế độ tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Bản chất này được
bộc lộ ra ở nhiều hiện tượng trong chủ nghĩa tư bản như bần cùng hóa giai cấp vô sản, thất nghiệp,
khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ, ô nhiễm môi trường, chiến tranh. Khi không còn giai cấp tư sản,
không còn chế độ bóc lột giá trị thặng dư nữa thì những hiện tượng trên cũng sẽ mất theo, con người sẽ
làm chủ thực sự được tự nhiên, xã hội và bản thân mình.
Tóm lại, bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có thể
tìm ra cái bản chất, tìm ra quy luật trong vô vàn các hiện tượng bên ngoài.
(Các) nguồn
b) Tính chất mâu thuẫn của sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng
Bản chất và hiện tượng thống nhất với nhau, nhưng đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Do vậy
không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau.
Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
Bản chất phản ánh cái chung, cái tất yếu, quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, còn hiện tượng
phản ánh cái riêng, cái cá biệt. Cùng một bản chất có thể biểu hiện ra ở nhiều hiện tượng khác nhau tùy
theo sự thay đổi của điều kiện và hoàn cảnh. Vì vậy hiện tượng phong phú hơn bản chất, còn bản chất
sâu sắc hơn hiện tượng. Bản chất là cái tương đối ổn định, ít biến đổi, còn hiện tượng là cái thường
xuyên biến đổi. V.I. Lênin viết: "Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt thường biến mất, không
bám "chắc", không "ngồi vững" bằng "bản chất".
Mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng còn thể hiện ở chỗ, bản chất là mặt bên trong ẩn giấu sâu xa của
hiện thực khách quan; còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan đó. Bản chất không
được biểu lộ hoàn toàn ở một hiện tượng mà biểu hiện ở rất nhiều hiện tượng khác nhau. Hiện tượng
không biểu hiện hoàn toàn bản chất mà chỉ biểu hiện một khía cạnh của bản chất, biểu hiện bản chất
dưới hình thức đã biến đổi, nhiều khi xuyên tạc bản chất. Thí dụ, bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột
giá trị thặng dư, bản chất đó được thể hiện ở rất nhiều thủ đoạn của giai cấp tư sản như tích cực áp dụng
khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới phương pháp quản lý, thậm chí tăng lương và cải thiện
điều kiện sống, điều kiện làm việc cho công nhân để nhằm mục đích nâng cao giá trị thặng dư cho

giai cấp tư sản, cho nên nếu không tìm hiểu kỹ sẽ không thấy được bản chất thật sự của giai cấp tư sản
mà chỉ thấy những biểu hiện bề ngoài của nó, không có được sự đánh giá toàn diện đúng đắn về giai
cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
Bản chất không tồn tại thuần túy mà tồn tại trong sự vật và biểu hiện qua hiện tượng, vì vậy muốn nhận
thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ những sự vật, hiện tượng, quá trình thực tế. Vì bản chất
là cái tất nhiên, cái tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động phát triển của sự vật, còn
hiện tượng là cái không ổn định, không quyết định sự vận động phát triển của sự vật.
Chương 8
Câu 1: Quy luật lượng chất và liên hệ
* Đây là một quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật, nó vạch ra cách thức của sự vận động, phát
triển.
* Nội dung quy luật: Mỗi sự vật, hiện tượng đều là một thể thống nhất của 2 mặt chất và lượng và
chúng có quan hệ hữu cơ với nhau. Phép biện chứng duy vật đã đưa ra và sử dụng các khái niệm: chất,
lượng, thuộc tính, độ, điểm nút, bước nhảy để diễn đạt mối quan hệ giữa chất và lượng trong sự vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng – cách thức vận động, phát triển.
- Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
+ Từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất. Sự thống nhất giữa chất và lượng tồn tại
trong một độ nhất định khi sự vật còn là nó chưa trở thành cái khác. Trong mối quan hệ giữa chất và
lượng thì chất là mặt tương đối ổn đinh, còn lượng là mặt biến đổi hơn. Sự vận động và phát triển của
sự vật bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Song không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng
cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh
hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm
nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy. Như vậy,
khi lựợng biến đổi đến điểm nút thì diễn ra bước nhảy, chất mới ra đời thay thế cho chất cũ, sự vật mới
ra đời thay thế cho sự vật cũ, nhưng rồi những lượng mới này lại tiếp tục biến đổi đến điểm nút mới lại
xảy ra bước nhảy mới. Cứ như vậy, quá trình vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo cách thức từ
những thay đổi về lựợng dẫn đến những thay đổi về chất một cách vô tận. Đó là quá trình thống nhất
giữa tính tuần tự, tiệm tiến, liên tục với tính gián đoạn, nhảy vọt trong sự vận động, phát triển.+ Sự tác
động trở lại của chất đối với lượng. Khi chất mới ra đời, nó không tồn tại một cách thụ động, mà có sự

tác động trở lại đối với lượng, được biểu hiện ở chỗ, chất mới sẽ tạo ra một lượng mới cho phù hợp với
nó để có sự thống nhất mới giữa chất là lượng. Sự quy định này có thể được biểu hiện ở quy mô, nhịp
độ và mức độ phát triển mới của lượng.
* Ý nghĩa phương pháp luận- Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải chú ý tích lũy dẫn những
thay đổi về lượng, đồng thời phải biết thực hiện kịp thời những bước nhảy khi có điều kiện chín muồi.
- Chống lại quan điểm tả khuynh: chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng chưa biến đổi đến điểm nút
đã thực hiện bước nhảy Phải có thái độ khách quan và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các
điều kiện chin muồi.
Câu 2: Phân tích nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập. Trả lời:
1) Để nắm vững được nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập, chúng ta cần nắm vững một số quy luật cơ bản sau: + Mặt đối lập là những
mặt, những thuộc tính những quá trình có khuynh h-ớng biến đổi trái ngược nhau
tạo nên sự tồn tại của SVHT. + Mâu thuẫn là khái niệm chỉ sự liên hệ tác động lẫn
nhau của các mặt đối lập, mỗi mâu thuẫn là 1 cặp đối lập trong cùng một sự vật
vừa thống nhất với nhau vừa thường xuyên đấu tranh với nhau. + Sự thống nhất
của các mặt đối lập là sự ràng buộc lẫn nhau nương tựa vào nhau của các mặt đối
lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Sự đấu tranh của các mặt
đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau sự
chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
2) Nội dung quy luật: - Mỗi sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan đều là thể
thống nhất của các mặt đối lập của sự vật hiện tượng thống nhất với nhau tạo nên
một mâu thuẫn khi mới xuất hiện mâu thuẫn biểu hiện ở sự khác nhau của hai
mặt trong sự vật khác nhau do dần dần chuyển thành sự đối lập khi đó mâu thuẫn
rõ nét 2 mặt đối lập đấu tranh với nhau sự đấu tranh phát triển dến gay gắt lên
đến đỉnh cao thì xảy ra xung đột giữa hai mặt của mâu thuẫn hai mặt đó chuyển
hóa với nhau trong những điều kiện nhất định tức là mâu thuẫn được giải quyết
kết thúc sự thống nhất cũ của các mặt đối lập, một sự thống nhất mới xuất hiện,
mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới ra đời, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời
thay thế cho nó trong sự vật mới có sự thống nhất mới các mặt đối lập lại đấu

tranh với nhau mâu thuẫn lại phát triển và lên đến đỉnh cao thì được giải quyết đó
là sự chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập diễn ra thường xuyên làm cho sự
vật vận động, phát triển không ngừng đó là quy luật vốn có của sự vật hiện tượng,
sự chuyển hóa của các mặt đôi lập là tất yếu và diễn ra muôn hình muôn vẻ đối
với các sự vật khác nhau, sự chuyển hóa của các mặt đối lập cũng khác nhau có 2
hình thức cơ bản: - Mặt đối lập này trực tiếp chuyển thành mặt đối lập kia, sang
cái đối lập với mình. - Cả hai mặt đối lập đều chuyển hóa thành cái khác lên hình
thức cao hơn.
Câu3: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định?
1. Nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định:- Phủ định: là khái niệm dùng để
chỉ sự mất đi của sự vật này và ra đời sự vật khác Phủ định biện chứng: Là quá trình
khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu
trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật hiện tượng mới cao hơn tiến bộ hơn. (là loại
phủ định tạo ra điều kiện và tiền đề cho sự phát triển).
- Đặc điểm của phủ định biện chứng:+ Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính
khách quan:> Sự phủ định ấy do mâu thuẫn nội tại của sự vật ấy tự quy định.> Nhân tố
phủ định là sản phẩm phát triển của chính sự vật, do đó quá trình phủ định biện chứng
là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát triển.> Phương thức phủ định sự vật do bản
thân sự vật tự quy định.+ Phủ định biện chứng là loại phủ định mang tính kế thừa. Phủ
định của phủ định - hình thức xoáy chôn ốc của quá trình phát triển: Sự phát triển biện
chứng là sự thống nhất giữa tiến lên và lặp lại do đó nó không quy trở lại đúng điểm
xuất phát mà quay trở lại trên một cơ sở mới cao hơn.

Chương 9
Câu 1 : Thực tiễn là gì ? vai trò của thực tiễn trong quá trình nhận thức từ đó ý nghĩa ppluận
"Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử-xã
hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội".
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:là cơ sở của nhận thức là động lực của nhận
thức là mục đích của nhận thức là tiêu chuẩn của chân lí để kiểm tra kết quả của
nhận thức.(Chân lí: là những tri htức phù hợp với sự vật, hiện tượng mà nó phản ánh

và đã được thực tiễn kiểm nghiệm).
ý nghĩa ppl: Giúp có ý thức tìm hiểu thực tế, khắc phục tình trạng chỉ học lí thuyết
mà quên thực hành, luôn vận dụng những điều đã học vào cuộc sống để những kiến
thức thu nhận được trở nên có ích.
*V ai tro cua thực tien doi voi nhan thuc ? V ai trò của thực tiễn với nhận thức:
THỰC TIỄN LÀ-cơ sở của nhận thức(1)-động lực của nhận thức(2)-mục đích của nhận
thức(3)-tiêu chuẩn kiểm tra kết quả của nhận thức(4)
VD:(1):nhờ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng mà con người có những hiểu biết nhất định về
sự vật hiện tượng đó.(2):thực tiễn luôn thúc đẩy nhận thức,nhờ trải qua thực tiễn mà con
người nhận thức đc nhiều điều.như trải qua khó khăn,thì fải làm gì để vượt qua nó(3):lí luận
thì fải liên hệ với thực tiễn,khi nhận thức đc thì fải có n~ việc làm để vận dụng.Vd như học
trên lớp lí thuyết bạn cần vận dụng vào đời sống mới thấy ý nghĩa của nó.chứ k chỉ là lí
thuyết suôg.(4):nhờ có thực tiễn mà con người có thể tự kiểm tra kết quả của nhận thức,hoàn
thiện nhận thức chưa đầy đủ.Vd:ai cũng sẽ có những sai lầm,và nhờ có n~ việc làm thực tế
bạn sẽ có thể nhận ra và khắc fục sai lầm đó
* ý nghĩa ppluận có các nội dung sau : a. Thực tiễn là cơ sở của nhận thức.b. Thực tiễn là
động lực thúc đẩy nhận thức phát triển.
c. Thực tiễn là mục đích nhận thức. d. Thực tiễn là tiêu chuẩn chân lí.
Câu 2 : Phân tích vấn đề chân lý theo quan điểm của Triết học Mác Lê Nin
Trong lịch sử triết học, Hêgen được coi là người có công lao to lớn trong việc xác định vai trò
của logic trong nhận thức chân lý. Đánh giá cao công' lao này của ông, trong Lútvích
Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức, Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: "Tư tưởng cơ
bản vĩ đại cho rằng không nên coi thế giới là tổng hoà những sự vật đã hoàn thành, mà là
tổng hoà những quá trình trong đó các sự vật, bề ngoài hình như không biến đổi, cũng như
các phản ánh tư tưởng của những sự vật vào đầu óc chúng ta, tức là những ý niệm, đều trải
qua một sự biến đổi không ngừng là sự phát sinh và sự tiêu vong, trong đó, bất chấp tất cả
những sự ngẫu nhiên bề ngoài và tất cả những bước thụt lùi tạm thời, một sự phát triển tiến
lên rút cuộc vẫn được thực hiện, - tư tưởng cơ bản vĩ đại đó, đặc biệt là từ Hêgen trở đi, đã
ăn sâu vào trong ý thức chung đến nỗi dưới hình thức chung ấy, nó hầu như không bị ai bác
bỏ nữa".Có thể nói, bằng sự tổng kết toàn bộ tiến trình phát triển lịch sử của nhận thức,

Hêgen đã xác định rõ trình độ của mỗi giai đoạn nhận thức và vai trò của các học thuyết
logic: "Phép biện chứng: phép biện chứng bên ngoài, sự suy luận không đâu vào đâu, mà
trong đó linh hồn của bản thân sự vật không được hoà tan. Phép biện chứng nội tại của đối
tượng, nhưng thuộc về phương thức xem xét của chủ thể. Tính khách quan kiểu Hêraclít, tức
là phép biện chứng, mà bản thân được hiểu như là một nguyên tắc". Điều đó cho thấy,
Hêgen đã phân biệt phép biện chứng hay logic của ba loại đối tượng: chủ quan, hiện tượng
và khách quan. Nhắc lại tư tưởng này của Hêgen, Lênin đã diễn đạt một cách rõ ràng hơn:
“Phép biện chứng chủ quan: Trong đối tượng có phép biện chứng, nhưng tôi không biết, có lẽ
đây chỉ là cái vẻ bề ngoài, chỉ là hiện tượng Phép biện chứng hoàn toàn khách quan, coi
như là nguyên lý của tất cả cái gì tồn tại".
Theo Hêgen, chỉ có quy luật của ý niệm, ý niệm thuần tuý là kết tinh của tất cả các trạng thái,
các ý niệm logic về tính chủ quan, về hiện tượng (khách quan) chỉ là sự tha hoá của ý niệm
thuần tuý, "bởi vì ý niệm thuần tuý của nhận thức đã bị giam hãm như vậy trong tính chủ
quan, nên nó là khuynh hướng muốn thủ tiêu tính chủ quan ấy đi, và chân lý thuần tuý, với
tính cách là kết quả cuối cùng, cũng trở thành sự bắt đầu của một lĩnh vực khác và của một
khoa học khác". Với luận điểm này của Hêgen, Ph.Ăngghen đánh giá rằng, ở Hêgen là chủ
nghĩa duy vật lộn đầu xuống dưới, vì 'tư tưởng về sự chuyển hoá của ông đã đi đến mâu
thuẫn mà, như Lênin nhận xét, "chính trong lúc ý niệm thiết định mình là tính thống nhất tuyệt
đối của khái niệm thuần tuý và của thực tại của nó, và vì vậy tự ghép mình vào tính trực tiếp
của tồn tại, thì với tính cách là tổng thể được hình thức ấy, ý niệm là giới tự nhiên". Theo đó,
ở Hêgen thì ý niệm có tính thứ nhất, ý niệm logic chuyển hoá thành giới tự nhiên và như
Lênin nhận xét rằng, ở Hêgen, chủ nghĩa duy vật đã ở trong tầm tay, nếu như từ ý niệm
thuần tuý là điểm xuất phát của phép biện chứng, Hêgen xây dựng nên hệ thống logic biện
chứng của ý niệm.
Dựng lại phép biện chứng của Hêgen, đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện thực,
các nhà kinh điển của triết học Mác - Lênin đã chỉ rõ, ý niệm logic chỉ là sự phản ánh logic
của thế giới khách quan. Rằng, "logic không phải là học thuyết về hình thức bên ngoài của tư
duy, mà là học thuyết về những quy luật phát triển của "tất thảy mọi sự vật vật chất, tự nhiên
và tinh thần", tức là học thuyết về những quy luật phát triển của toàn bộ nội dung cụ thể của
thế giới và nhận thức thế giới, tức là sự tổng kết, tổng số, kết luận của lịch sử nhận thức thế

giới". Như vậy, trong định nghĩa này đã bao quát ba dạng logic của ba đối tượng - cái vật
chất, cái tự nhiên và cái tinh thần với tư cách là sự phản ánh đúng đắn hiện thực khách quan,
trong đó, có một logic xuyên suốt, thống nhất cả ba logic này và được gọi là logic học.
Từ logic tự nhiên, khách quan hình thành nên logic trong nhận thức của con người. Logic
trong nhận thức là các phạm trù, khái niệm đánh dấu mức độ và khả năng nhận thức của con
người đối với thế giới: "Trước con người, có màng lưới những hiện tượng tự nhiên. Con
người bản năng, người man rợ, không tự tách khỏi giới tự nhiên. Người có ý thức tự tách
khỏi giới tự nhiên, những phạm trù là những giai đoạn của sự tách khỏi đó, tức là của sự
nhận thức thế giới, chúng là những điểm nút của màng lưới, giúp ta nhận thức và nắm vững
được màng lưới’.Như vậy, không những là logic, cái tĩnh tại, các quy luật của thế giới khách
quan mà còn là cả sự chuyển hoá của chúng nữa cũng được phản ánh vào logic chủ quan,
tinh thần, đó là bản chất của cái logic trong triết học Mác - Lênin. Nếu Hêgen mới chỉ cảm
nhận thấy rằng, "vận động của ý thức giống như sự phát triển của toàn bộ đời sống của tự
nhiên và tinh thần" là dựa trên "bản tính của những bản chất thuần tuý hợp thành nội dung
của logic" thì Lênin đã khẳng định rằng, biện chứng của nhận thức là sự phản ánh biện
chứng thế giới khách quan và để nhận thức được thế giới khách quan, phải tuân thủ logic
biện chứng của thế giới khách quan, rằng, "logic và lý luận nhận thức phải được suy diễn từ
"sự phát triển của toàn bộ đời sống của tự nhiên và tinh thần". Chính vì vậy, "tư duy, khi tiến
lên từ cái cụ thể đến cái trừu tượng, không xa - nếu nó đúng rời chân lý, mà đến gần chân
lý. Những sự trừu tượng về vật chất, về quy luật tự nhiên, sự trừu tượng về giá trị… tóm lại,
tất cả những sự trừu tượng khoa học (đúng đắn, nghiêm túc, không tuỳ tiện) phản ánh giới tự
nhiên sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ hơn. Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu
tượng, và từ tư duy trừu tượng trên thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức
chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan".Khi trình bày bản chất của tri thức trong khả
năng nhận thức của con người, Hêgen đã cho rằng, "Chân lý, với tư cách là tri thức phù hợp
với khách thể, cũng là cái khẳng định, nhưng nó chỉ là cái đồng đẳng với bản thân nó trong
chừng mực mà tri thức có thái độ phủ định đối với cái khác, trong chừng mực mà tri thức đã
xâm nhập vào khách thể và đã thủ tiêu cái phủ định do khách thể đại biểu. Đây là quan điểm
cho thấy Hêgen đã khẳng định tất yếu của tri thức, tính khách quan của tri thức như là một
cái gì tuyệt đối mâu thuẫn với sự chuyển hoá.Nói về quan điểm này, Lênin cho rằng: "Sự phù

hợp giữa tư tưởng và khách thể là một quá trình: tư tưởng (= con người) không nên hình
dung chân lý dưới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình ảnh) đơn giản, nhợt
nhạt (lờ mờ), không khuynh hướng, không vận động, y như một thần linh, một số, một tư
tưởng trừu tượng". Quá trình đó, theo Hêgen, là những vòng tròn, còn theo Lênin, là quá
trình biện chứng. Biện chứng của sự vật diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, nên biện chứng của
nhận thức cũng diễn ra theo hình xoáy trôn ốc: "Phép biện chứng với tính cách là nhận thức
sinh động, nhiều mặt (số các mặt không ngừng tăng lên mãi mãi) bao hàm vô số khía cạnh
trong cách tiếp cận, đi gần tới hiện thực (với một hệ thống triết học đi từ mỗi khía cạnh mà
phát triển thành một toàn thể) đó là nội dung phong phú không lường được so với chủ nghĩa
duy vật "siêu hình" mà tai họa chính của nó là không có năng lực áp dụng phép biện chứng
vào lý luận phản ánh, vào quá trình và sự phát triển của nhận thức Nhận thức của con
người không phải là (một cách tương ứng, không đi theo) một đường thẳng, mà là một
đường cong đi gần vô hạn đến một loạt những vòng tròn, đến một vòng xoáy ốc". Theo quan
điểm này của Lênin thì logic khách quan là cái quyết định sự hình thành logic chủ quan, logic
của nhận thức, rằng, trong nhận thức, khi logic đó giúp cho con người đạt đến tri thức đúng,
đạt đến chân lý thì nó cũng là tiêu chuẩn khách quan để đánh giá tri thức con người. Và, khi
thừa nhận chính Hêgen đã phát hiện ra điều này, song Hêgen đã chỉ thần thánh hoá cái "ý
niệm logic" ấy, tính quy luật, tính phổ biến ấy, Lênin đã diễn đạt tư tưởng đó một cách rõ ràng
như sau: "Giới tự nhiên, cái chỉnh thế trực tiếp ấy phát triển thành ý niệm logic và tinh thần".
Logic là học thuyết về nhận thức… là lý luận nhận thức. Nhận thức là sự phản ánh giới tự
nhiên bởi con người. Nhưng đó không phải là một phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh,
mà là một quá trình cả một chuỗi sự trừu tượng, sự cấu thành, sự hình thành ra các khái
niệm, quy luật etc và chính các khái niệm quy luật này etc (tư duy, khoa học = "ý niệm logic")
bao quát một cách có điều kiện, gần đúng tính quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn
vận động và phát triển. Ở đây, thật sự và về khách quan có ba vế:
Giới tự nhiên,Nhận thức của con người, bằng bộ óc của người (với tư cách là sản phẩm cao
nhất của giới tự nhiên đó)
Hình thức của sự phản ánh giới tự nhiên vào trong nhận thức của con người, hình thức này
chính là những khái niệm, quy luật, phạm trù atc).
Giá trị trong học thuyết logic của Hêgen không chỉ là về mặt học thuyết, mà còn ở chỗ, tạo

tiền đề cho sự phát triển nhận thức khoa học sau này, như Lênin đã đánh giá: "Mác không để
lại cho chúng ta "Logic học" (với chữ L viết hoa), nhưng đã để lại cho chúng ta logic của "Tư
bản", và cần phải tận dụng đầy đủ nhất logic để giải quyết vấn đề mà chúng ta đang nghiên
cứu. Trong "Tư bản", Mác áp dụng logic, phép biện chứng và lý luận nhận thức [không cần
ba từ: đó là cùng một cái duy nhất] của chủ nghĩa duy vật vào một khoa học duy nhất, mà chủ
nghĩa duy vật thì đã lấy ở Hêgen tất cả cái gì có giá trị và phát triển thêm lên".
Theo quan điểm của các nhà sáng lập triết học Mác - Lênin, trong quá trình nhận thức, sự
hình thành những khái niệm, quy luật, phạm trù phải thông qua hoạt động của con người,
thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nếu như L.Phoiơbắe thừa nhận con người có
khả năng nhận thức thế giới, nhưng chỉ trực tiếp, bề ngoài, siêu hình, thì đến Ph.Ăngghen đã
khẳng định rằng: "Từ trước tới nay, khoa học tự nhiên cũng như triết học đã hoàn toàn coi
thường ảnh hưởng của hoạt động con người đối với tư duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ
biết có tự nhiên, mặt khác chỉ biết có tư tưởng. Nhưng chính việc người ta biến đổi tự nhiên,
chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất
và trực tiếp nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển song song với việc
người ta đã học cải biến tự nhiên".
Với Hêgen, thực tiễn là thủ đoạn của hoạt động con người, hoạt động thực tiễn là hoạt động
của ý niệm, bản chất của nó là cái logic hình thành ý niệm. Với Hêgen, "ý niệm là "chân lý". ý
niệm, tức là chân lý với tư cách là quá trình, vì chân lý là quá trình, - trải qua, trong sự phát
triển của nó, ba giai đoạn:
Sự sống,Quá trình nhận thức bao hàm thực tiễn của con người và kỹ thuật,Giai đoạn của ý
niệm tuyệt đối (tức là chân lý hoàn toàn)".
Thực tiễn, theo Hêgen, chỉ là thao tác kỹ thuật, là thủ đoạn, mưu mẹo của con người với thế
giới bên ngoài, tựa như một sự tha hoá của ý niệm mà về bản chất vẫn là cái tinh thần. Với
ông, "phàm là cái gì xứng đáng với tên gọi là triết học, thì bao giờ cũng lấy ý thức về sự
thống nhất tuyệt đối của cái mà lý trí chỉ thừa nhận trong sự phân ly của cái đó, làm cơ sở
cho học thuyết của mình".
Quan niệm của Hêgen về logic và bản chất của cái logic dựa trên cơ sở ý niệm, sự chuyển
hoá của ý niệm. Về thực chất, đây là chủ nghĩa duy tâm trong triết học. Trái ngược với quan
điểm đó, khi chỉ ra hạn chế trong quan niệm của Hêgen về logic và về bản chất của cái logic,

Lênin đã khắng định: "Khi Hêgen cố gắng có khi thậm chí dùng hết sức và dốc toàn lực - quy
hoạt động có mục đích của con người vào những phạm trù logic, bằng cách nói rằng hoạt
động đó là một "suy lý” rằng chủ thể (con người) đóng vai trò một "vế" của "hình tượng" logic
của "suy lý"… thì điều đó không phải chỉ là một sự giải thích gò ép, một trò chơi. Ở đây, có
một nội dung rất sâu sắc, thuần tuý duy vật. Phải đảo ngược lại: Hoạt động thực tiễn của con
người phải làm cho ý thức của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần nhưng hình tượng
logic khác nhau, để cho những hình tượng này có thể có được ý nghĩa những công lý. Cho
nên, bản chất của cái logic, cái biện chứng là từ logic của hoạt động thực tiễn của con người,
từ biện chứng của hoạt động thực tiễn tác động vào thực tại khách quan: "Phép biện chứng
không ở trong lý trí của con người mà ở trong "ý niệm", nghĩa là trong hiện thực khách quan
Người ta có thể và phải đảo ngược cái này: vấn đề không phải là sự vận động có tồn tại
không, mà là thể hiện nó như thế nào trong logic của những khái niệm".Đánh giá về vai trò
của logic, nhất là khoa học logic của Hêgen, Lênin đã nhận xét: "Không thể hoàn toàn hiểu
được "Tư bản" của Mác và đặc biệt là chương I của sách đó, nếu chưa nghiên cứu kỹ và
chưa hiểu toàn bộ logic của Hêgen. Vậy là sau Mác 1/2 thế kỷ, không một người macxít nào
đã hiểu Mác?!". Theo đó, logic không phải là cái phản ảnh thụ động, bề ngoài, nó có vai trò
rút ngắn quá trình nhận thức của con người. Nhưng để có được vai trò đó, logic phải đạt đến
những tiêu chuẩn nhất định, những tiêu chuẩn làm cho nó trở thành tiền đề để dựa vào đó,
đánh giá tri thức, khẳng định tính chân lý và do vậy, nó phải được xem xét trong tính chính
thể, tổng thể, phải được xem xét trong sự phát triển hoàn thiện nhất, hay nói cách khác, nó
phải đạt được những tiêu chí mà trong các nguyên lý của phép biện chứng đã đúc kết.Vận
dụng những nguyên lý này trong khoa học logic của Hêgen, Mác đã để lại một công trình
khoa học kinh điển - Tư bản. "Trong "Tư bản", Mác phân tích trước hết cái đơn giản nhất,
quen ,thuộc nhất, cơ bản nhất, chung nhất, thông thường nhất, cái thường gặp đến hàng
nghìn triệu lần, mối quan hệ của xã hội tư sản xã hội hàng hoá): sự trao đổi hàng hoá. Sự
phân tích phát hiện trong các hiện tượng đơn giản nhất ấy (trong cái "tế bào" ấy của xã hội tư
sản) tất cả những mâu thuẫn (một cách tương ứng, mầm mống của tất cả mọi mâu thuẫn)
của xã hội hiện đại. Sự trình bày tiếp theo vạch cho chúng ta thấy sự phát triển (cả sự lớn lên
lẫn sự vận động) của các mâu thuẫn ấy và cái xã hội ấy, trong (tổng số) các bộ phận của nó,
từ lúc bắt đầu cho đến lúc kết thúc của xã hội đó". Theo đó, có thể nói, logic là sự kết tinh của

trí tuệ con người và khi phản ánh đúng hiện thực khách quan, nó cũng có giá trị khách quan
để nhận thức chân lý.Không thể đồng nhất tư duy biện chứng với logic chủ quan có khuynh
hướng ngụy biện. Điều này không chỉ các nhà triết học duy vật đã nhận thấy, mà cả Hêgen
cũng đã vạch rõ: "Vì nguỵ biện là một lập luận xuất phát từ một tiền đề không có cơ sở, và
được người ta thừa nhận không phê phán, không suy nghĩ chín chắn, còn cái mà chúng ta
gọi là phép biện chứng thì đó là sự vận động lý tính cao cấp, trong đó những sự quy định
trông bề ngoài tựa như hoàn toàn tách rời nhau lại chuyển hoá từ những cái này sang cái kia
thông qua bản thân chúng, thông qua việc chúng hiện tồn, và như vậy tiền đề bị loại trừ".
Đánh giá luận điểm này của Hêgen, Lênin không những chỉ ra những hạn chế và ý nghĩa tích
cực của nó, mà còn chỉ ra mối quan hệ giữa thực tại khách quan với tư duy logic với tư cách
là tiêu chuẩn để đánh giá tri thức, để nhận thức chân lý. Ông viết: "ở đây, Hêgen hình như đã
lòi đuôi duy tâm ra rồi, quy thời gian và không gian liên hệ với biểu tượng) vào một cái gì thấp
hơn tư duy. Tuy nhiên, theo một nghĩa nào đó, biểu tượng tất nhiên là thấp hơn. Thực chất
của vấn đề là ở chỗ tư duy phải bao quát toàn bộ "biểu tượng" trong sự vận động của nó, và
muốn như vậy tư duy phải biện chứng. So với tư duy, biểu tượng có gần thực tại hơn không?
Có và không. Biểu tượng không thể nắm được vận động trong chỉnh thể của nó, chẳng hạn,
nó không nắm được sự vận động với tốc độ 300.000 cây số một giây, trái lại tư duy nắm
được và phải nắm được. Tư duy được rút ra từ biểu tượng, cũng phản ánh thực tại, thời gian
là một hình thức tồn tại của thực tại khách quan”.Phải nói rằng, người có công đầu xây dựng
cơ sở thống nhất giữa tư duy biện chứng với thực tại khách quan là C.Mác, bởi ông không
"chỉ chú ý đến sự vận động tiến lên từ Hêgen và Phoiơbắc", mà còn "vượt qua cả hai người"
để từ phép biện chứng duy tâm đến phép biện chứng duy vật". Với C.Mác, sự hình thành các
phạm trù, khái niệm, quy luật, sự hình thành chân lý là do hoạt động nhận thức của con
người. Cơ sở hình thành nên hoạt động nhận thức là thực tiễn, là sự tác động có mục đích
theo nhu cầu của con người vào thế giới khách quan. Cho nên, hoạt động tinh thần, hay tinh
thần chỉ là một bộ phận của hoạt động vật chất, của thế giới vật chất, nó là sự phản ánh,
là cái thứ hai và xét đến cùng, cũng bị hoạt động thực tiễn (vật chất) hay cái vật chất
quy định.Hêgen cũng thừa nhận vai trò của thực tiễn trong nhận thức, nhưng lại coi
thực tiễn chỉ là hoạt động thực tiễn của sự suy lý, của ý niệm và dẫu có tính khách
quan, song tính khách quan đó chỉ có nghĩa là ngoài ý muốn chủ quan của con

người. Khẳng định vai trò của tư duy logic và của thực tiễn trong nhận thức, Lênin
đã chỉ rõ: "Nhận thức lý luận phải trình bày khách thể trong tính tất yếu của nó, trong
những quan hệ toàn điện của nó, trong sự vận động mâu thuẫn của nó, tự nó và vì
nó. Nhưng khái niệm của con người nắm "hẳn" lấy cái chân lý khách quan ấy của
nhận thức, nó chỉ nhận thức và chiếm lấy chân lý khách quan ấy khi khái niệm trở
thành "tồn tại vì nó", theo ý nghĩa thực tiễn. Nghĩa là thực tiễn của con người và của
loài người là sự kiểm nghiệm, là tiêu chuẩn của tính khách quan của nhận thức. Với
khẳng định này, Lênin cho rằng, quan niệm về thực tiễn của Hêgen vẫn là quan
niệm tư biện, là lĩnh vực thuộc về hoạt động tinh thần. Theo ông, quan niệm đúng về
thực tiễn phải là quan niệm coi thực tiễn là thứ nhất, là cơ bản: "Quan điểm về đời
sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức".
Trong quá trình nhận thức, không phải hai mặt thực tiễn và nhận thức tách rời, mà
nó là một thể thống nhất. I.Cantơ, khi bàn đến vấn đề này, đã tách khả năng nhận
thức ra khỏi quá trình nhận thức. Phê phán quan niệm này của I.Cantơ, Hêgen đã
chỉ rõ: "Chỉ có thể nghiên cứu được nhận thức ngay trong quá trình nhận thức, và
nghiên cứu cái gọi là công cụ của nhận thức không có nghĩa gì khác hơn là nhận
thức nó. Nhưng muốn nhận thức được trước khi mà chúng ta có nhận thức, thì
cũng vô lý như ý định khôn ngoan của nhà kinh viện muốn học bơi trước khi nhảy
xuống nước". Tán đồng quan điểm này của Hêgen, Lênin đã đi xa hơn Hêgen về
mặt triết học, khi coi thực tiễn vừa là nguồn gốc hình thành nên quá trình nhận thức,
vừa là sự phản ánh, là hình thức biểu hiện của tư duy của logic (quá trình phản ánh
của nhận thức). Xét theo các thang bậc nhận thức thì thực tiễn với tư cách cái vật
chất là thứ nhất, còn nhận thức, cái biểu hiện bằng logic là cái thứ hai. Không thể có
cái logic định sẵn cho sự vận động thế giới khách quan. Chính sự vận động của thế
giới khách quan là cái hình thành nên logic, quy luật trong tư duy và cái logic đó là
sự biểu hiện cái logic của thế giới khách quan, là sự biểu hiện của chân lý khách
quan. Khẳng định chân lý khách quan đó hoạt động thực tiễn của con người tạo ra,
Lênin đã. chỉ rõ: "Hoạt động của con người tự tạo cho mình một bức tranh khách
quan về thế giới, nó làm biến đổi hiện thực bên ngoài, thủ tiêu tính quy định của
hiện thực này (bằng biến đổi mặt này hay mặt khác, tính chất này hay tính chất khác

của hiện thực), và do đó lấy mất của nó những đặc trưng bề ngoài, bên ngoài và hư
không, làm cho nó trở thành cái tồn tại tự nó và vì nó (bằng chân lý khách quan)"(29). Sự
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn này là tiền đề đem lại cho con người khả năng đạt đến
chân lý khách quan, khả năng nhận thức đúng đắn thế giới. Mặc dù vậy, "Thực tiễn cao hơn
nhận thức (lý luận), vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà cả của tính hiện
thực trực tiếp". Vấn đề đặt ra là, thực tiễn là hoạt động vật chất, là cái để con người tìm ra cái
tất nhiên (logic khách quan), tư duy, nhận thức là hoạt động tinh thần và cũng là cái mà nhờ
đó, con người tìm ra cái tất yếu, song, trong tự nhiên, ngoài cái tất nhiên còn có cái ngẫu
nhiên, vậy, trong tư duy (logic chủ quan) có Cái ngẫu nhiên này không? Vấn đề này, triết học
Mác - Lênin đã khẳng định: chân lý là khách quan, chân lý là cụ thể, chân lý vừa có tính tuyệt
đối, vừa có tính tương đối. Trong logic nhận thức của Hêgen, dù tư biện đến đâu chăng nữa,
vẫn bộc lộ hạt nhân hợp lý, "ít duy tâm" nhất, như Lênin đã nói. Và, thật vậy, đề cập đến vấn
đề này, Hêgen cho rằng: "Bản thân sự thực hiện cái thiện cũng vấp phải những trở ngại,
thậm chí vấp phải những cái không thể làm được, do thế giới khách quan gây ra, mà thế giới
khách quan này lại là tiền đề để thực hiện cái thiện, trong tiền đề này có tính chủ quan và tính
hữu hạn của cái thiện và thế giới khách quan ấy, như một cái gì khác, đi theo con đường
riêng của nó". Bởi lẽ, "tính tất yếu hiện thực là một quan hệ có nội dung", song nó "cũng là
tương đối" và do vậy, "một cái gì đó là có thể có hay là không có thể có, điều đó phụ thuộc
vào nội dung, nghĩa là phụ thuộc vào toàn bộ những vòng khâu của hiện thực, mà hiện thực
thì trong sự triển khai của nó biểu hiện ra là tính tất yếu. Với quan niệm như vậy về tính tất
yếu, tính nhân quả, Hêgen đã coi đó là sự trung gian hoá. Và, do vậy theo ông, "tính tất yếu
và tính nhân quả như vậy là đã biến đi trong tác động qua lại, chúng bao hàm cả cái này lẫn
cái kia, tức là cả tính đồng nhất trực tiếp, coi như là liên hệ và quan hệ lẫn tính thực thể tuyệt
đối của những cái khác nhau, tức là tính ngẫu nhiên tuyệt đối của chúng", cho nên, "ví như
khái niệm tự do, hiểu theo nghĩa là cái đối lập trừu tượng của tất yếu, thì đó chỉ là khái niệm
của lý trí về tự do” còn khái niệm thật sự và lý tính của tự do chứa đựng trong bản thân nó
tính tất yếu với tính cách là tính tất yếu đã được lột bỏ". Với lối tư duy tư biện này, Hêgen
nhằm chứng minh rằng, sự phong phú của tri thức, của ý niệm là do ý niệm tự nó thừa nhận
nó: "Nhận thức phân tích là tiền đề đầu tiên của toàn bộ suy lý - quan hệ trực tiếp của khái
niệm và khách thể, do đó, tính đồng nhất là quy định mà nhận thức thừa nhận là của nó, và

nhận thức đó chỉ là sự nắm được cái đang tồn tại. Nhận thức tổng hợp tìm cách hiểu cái
đang tồn tại, tức là nắm được tính nhiều vẻ của những quy định trong sự thống nhất của nó.
Vì vậy, nó là tiền đề thứ hai của suy lý, tiền đề mà trong đó những sự khác nhau liên hệ với
nhau, với tư cách là những sự khác nhau. Do đó, tính tất yếu nói chung là mục đích của nhận
thức đó".
Như vậy, trong quan niệm của Hêgen, sự phong phú, đa dạng trong nhận thức là do chính
quá trình nhận thức, song theo Lênin, "mục đích của con người là do thế giới khách quan
sinh ra, và lấy thế giới khách quan làm tiền đề coi thế giới khách quan là cái hiện có, là cái có
thật. Nhưng con người lại thấy hình như những mục đích của nó lại lấy từ bên ngoài thế giới,
độc lập đối với thế giới (tự do)". Điều đó có nghĩa là, sự phong phú của nhận thức là do sự
phong phú của mối liên hệ, quan hệ, tác động qua lại của các mặt đối lập của thế giới khách
quan.Như vậy, có thể nói, cái logic đấu đóng vai trò quan trọng trong nhận thức, song, so với
thực tiễn, nó chỉ là cái thứ hai, bởi "thực tiễn của con người lặp đi lặp lại hàng nghìn triệu lần
được in vào ý thức của con người bằng những hình tượng logic. Những hình tượng này có
tính vững chắc của một thiên kiến, có một tính chất công lý, chính vì (và chỉ vì) sự lặp đi lặp
lại hàng nghìn triệu lần ấy" của nó.
Chương 10
câu 1 :
Vai trò của SX vật chất đối với sự tồn tại và pt của XH.
gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình
đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại lẫn nhau, trong đó sản xuất vật chất là cơ sở
của sự tồn tại và phát triển của xã hội. Theo Ph.Ăngghen, "điểm khác biệt căn bản giữa xã
hội loài người với xã hội loài vật là ở chỗ: loài vật may lắm chỉ hái lượm, trong khi con người
lại sản xuất". Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất thỏa
mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống XH và vai trò của phương thức sản
xuất
I. San xuat cua cai vat chat la co so doi song xa hoi
1. San xuat vat chatSan xuat vat chat, voi nghia chung nhat, la qua trinh connguoi su dung

cong cu lao dong tac dong vao tu nhien nham caibien cac dang vat chat cua tu nhien de tao
ra cua cai vat chat canthiet cho doi song con nguoi va cho xa hoi.Chinh nho co hoat dong lao
dong ban than con nguoi va xahoi loai nguoi ton tai, phat trien; dem lai nhung su bien doi to
lonva co tinh chat quyet dinh: co the con nguoi khong ngung hoan thien ve phat trien, co
dang di dung thang, phan hoa ro chuc nang tay va chan, oc va cac giac quan phat trien -
thoat khoi loai dong vat; ngon ngu, phuong tien giao tiep, trao doi, tich luy, truyen dat
kinhnghiemlao dong xa hoi xuat hien va phat trien; hinh thanhnen nhung quan he xa hoi ve
vat chat va tinh than, tuc la hinhthanh xa hoi. Tren y nghia do ma Angghen da noi: lao dong
sang tao ra con nguoi va xa hoi loai nguoi.2. San xuat vat chat la co so ton tai va phat trien
cua xa hoi- San xuat vat chat la yeu cau khach quan cua su sinh toncua xa hoi. Moi nguoi
trong xa hoi deu co nhu cau tieu dung (thucan, quan ao, nha o cac do dung khac). Muon vay
thi phai sanxuat. Boi vi, san xuat la dieu kien cua tieu dung, san xuat vat chat cang phat trien
thi muc tieu dung cua con nguoi va xa hoi cang cao; va nguoc lai. Bat cu xa hoi nao cung
khong the ton tai duoc neu khong tien hanh san xuat ra cua cai vat chat San xuat vat chat
la co so hinh thanh tat ca cac quan he xahoi khac nhu: chinh tri, phap quyen, dao duc, nghe
thuat v.v San xuat vat chat con la co so cho su tien bo xa hoi. Sanxuat vat chat cua xa hoi
noi chung khong ngung tien len tu thap len cao. Moi khi san xuat phat trien den mot giai
doan moi, cachthuc san xuat cua con nguoi thay doi, ky thuat duoc cai tien, nang suat lao
dong nang cao, quan he giua nguoi voi nguoi trong qua trinh san xuat thay doi thi moi mat
cua doi song xa hoi cung thay doi theo.
II. Vai tro cua phuong thuc san xuat doi voi su ton tai va phat trien cua xa hoi
1. Phuong thuc san xuat la gi?- San xuat vat chat duoc tien hanh trong nhung dieu kien tat
yeu nhat dinh: + Dieu kien dia ly. + Dieu kien dan so. + Phuong thuc san xuat.Trong ba
nhan to do thi phuong thuc san xuat la nhan to quyet dinh su ton tai va phat trien cua xa hoi.
- Phuong thuc san xuat la cach thuc tien hanh san xuat ra cua cai vat chat trong mot giai
doan nhat dinh cua lich su.
2. Phuong thuc san xuat va nhan to quyet dinh tinh chat, ket cau cua xa hoi, quyet dinh su
van dong, phat trien cua xa hoi - Trong moi xa hoi, phuong thuc san xuat thong tri nhu the
nao thi tinh chat cua che do xa hoi nhu the ay; ket cau giai cap va tinh chat cua cac moi quan
he giua cac giai cap, cung nhu cac quan diem ve chinh tri, phap quyen, dao duc, triet hoc v.v,

deu do phuong thuc san xuat quyet dinh.
- Phuong thuc san xuat quyet dinh su chuyen bien cua xa hoi loai nguoi qua cac giai doan lich
su. Khi mot phuong thuc san xuat moi ra doi, thay the phuong thuc san xuat cu da loi thoi thi
moi mat cua doi song xa hoi cung co su thay doi can ban tu ket cau kinh te den ket cau giai
cap, tu cac quan diem tu tuong xa hoi den cac to chuc xa hoi. Lich su xa hoi loai nguoi da
biet den nam phuong thuc san xuat ke tiep nhau tu thap len cao, tuong ung voi no co nam
xa hoi cu the: cong san nguyen thuy, no le, phong kien, tu ban chu nghia va cong san chu
nghia (ma chu nghia xa hoi lagiai doan thap). Do do, lich su xa hoi loai nguoi truoc het la lich
su cua san xuat, lich su cua cac phuong thuc san xuat ke tiep nhau trong qua trinh phat trien.
Viec thay the phuong thuc san xuat cu bang phuong thuc san xuat moi dien ra khong don
gian, de dang. Do la qua trinh cai bien cach mang. Phuong thuc san xuat moimuon tro thanh
phuong thuc san xuat thong tri thi phai trai quacach mang xa hoi va gan lien voi che do chinh
tri
3Phương thức sản xuất Sản xuất vật chất được tiến hành bằng phương thức sản xuất nhất
định. Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở
những giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương
thức sản xuất nhất định. Sự thay thế kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất trong lịch sử
quyết định sự phát triển của xã hội loài người từ thấp đến cao. Trong sản xuất, con người có
"quan hệ song trùng": một mặt là quan hệ giữangười với tự nhiên, biểu hiện ở lực lượng sản
xuất; mặt khác là quan hệ giữa người với người, tức là quan hệ sản xuất. Phương thức sản
xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản
xuất tương ứng
3Lực lượng sản xuất Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người kết hợp sức lao động của mình
với tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức mạnh khai thác giới tự
nhiên, làm ra sản phẩm cần thiết cho cuộc sống của mình.Vậy, lực lượng sản xuất là năng lực
thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con ngườinhằm đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.Lực
lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó "lực
lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động"1.Chính

người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹnăng lao động
của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tácđộng vào đối tượng lao
động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một
yếu tố cơ bản của lựclượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ
lao động docon người sáng tạo ra, là "sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa", nó "nhân"
sứcmạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tốđộng
nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với nhữngphát minh và
sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn
thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổitoàn bộ
tư liệu sản xuất. Xét đến cùng, đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã
hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiêncủa
con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.Trong sự phát triển của
lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng tolớn. Sự phát triển của khoa học gắn
liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩysản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã
phát triển đến mức trở thành nguyên nhântrực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất,
trong đời sống và trở thành "lực lượngsản xuất trực tiếp". Sức lao động đặc trưng cho lao
động hiện đại không còn chỉ là kinhnghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có
thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại
không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về
sự phù hợp củaquan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy
luật cơ bản nhất của sự vận động, phát triển xã hội.
-Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát triển đó xét
đến cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công
cụ lao động.
-Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu bằng trình độ của lực lượng sản xuất.
-Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự
nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó. Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình
độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ

tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
-Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch
sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên tính chất xã hội
hóa. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực
lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại,
phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa.
-Sự vận động, phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất
cho phù hợp với nó. Khi một phương thức sản xuất mới ra đời, khi đó quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là "hình
thức phát triển" của lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản
xuất đều "tạo địa bàn đầy đủ" cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là, nó tạo
điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do
đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.
-Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất
từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Khi đó,
quan hệ sản xuất trở thành "xiềng xích" của lực lượng sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất
phát triển. Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế
quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực
lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Thay thếquan hệ sản xuất
cũ bằng quan hệ sản xuất mới cũng có nghĩa là phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới ra đời thay thế. C.Mác đã viết: "Tới một giai đoạn phát triển nào đó của
chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với nhữngquan hệ sản xuất
hiện có trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những
hình thức phát triển của lực lượng sản xuất, nhữngquan hệ ấy trở thành những xiềng xích
của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội"(1).
-Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc
lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy
định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất,
đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ,

v.v và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.Quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại,quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc "tiên tiến" hơn một cách giả tạo so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Khiquan hệ sản xuất kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, thì theo quy luật chung,
quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Tuy nhiên, việc giải
quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất vớiquan hệ sản xuất không phải giản đơn. Nó phải
thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người. Trong xã hội có giai cấp phải
thông qua đấu tranh giai cấp, thông qua cách mạng xã hội.
-Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật
phổ biến tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự thay thế, phát triển của lịch
sử nhân loại từ chế độ công xã nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến,
chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các
quy luật xã hội, trong đó quy luậtquan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất là quy luật cơ bản nhất
Sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là quá trình lịch
sử - Xã hội loài người đã phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế - xã hội nối
tiếpnhau. Trên cơ sở phát hiện ra các quy luật vận động phát triển khách quan của xã
hội,C.Mác đã đi đến kết luận: "Sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một
quátrình lịch sử - tự nhiên"2.Hình thái kinh tế - xã hội là một hệ thống, trong đó, các
mặt không ngừng tácđộng qua lại lẫn nhau tạo thành các quy luật vận động, phát triển
khách quan của xã hội.Đó là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượngsản xuất, quy luật cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng
tầng và các quy luật xã hộikhác. Chính sự tác động của các quy luật khách quan đó mà
các hình thái kinh tế - xãhội vận động phát triển từ thấp đến cao.Nguồn gốc sâu xa của
sự vận động phát triển của xã hội là ở sự phát triển của lựclượng sản xuất. Chính sự
phát triển của lực lượng sản xuất đã quyết định, làm thay đổiquan hệ sản xuất. Đến
lượt mình, quan hệ sản xuất thay đổi sẽ làm cho kiến trúc thượng tầng thay đổi theo, và
do đó mà hình thái kinh tế - xã hội cũ được thay thế bằng hìnhthái kinh tế - xã hội mới

cao hơn, tiến bộ hơn. Quá trình đó diễn ra một cách khách quan chứ không phải theo ý
muốn chủ quan. V.I.Lênin viết: "Chỉ có đem quy những quanhệ xã hội vào những quan
hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản
xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của
những hình thái xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên"1.Sự tác động của các quy
luật khách quan làm cho các hình thái kinh tế - xã hội phát triển thay thế nhau từ thấp
đến cao - đó là con đường phát triển chung của nhân
loại. Song, con đường phát triển của mỗi dân tộc không chỉ bị chi phối bởi các quy luật
chung, mà còn bị tác động bởi các điều kiện về tự nhiên, về chính trị, về truyền thống
văn hóa, về điều kiện quốc tế, v.v Chính vì vậy, lịch sử phát triển của nhân loại hết sức
phong phú, đa dạng. Mỗi dân tộc đều có nét độc đáo riêng trong lịch sử phát triển của
mình. Có những dân tộc lần lượt trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao;
nhưng cũng có những dân tộc bỏ qua một hay một số hình thái kinh tế - xã hội nào đó.
Tuy nhiên, việc bỏ qua đó cũng diễn ra theo một quá trình lịch sử - tự nhiên chứ
khôngphải theo ý muốn chủ quan.
chương 13
_Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội:(thể hiện ở ba khía
cạnh_bạn đã biết)
vd: lợi ích của tầng lớp thông trị trong xã hội có giai cấp gắn liền với việc sở hữu tư
nhân về tư liệu sản xuất.Đấu tranh giai cấp bùng nổ( ý thức xã hội phát triển) và
dành thắng lợi đòng nghĩa với việc lợi ích của giai cấp thông trị ko còn. Như vấy họ
sẽ tìm mọi cách ngăn chặn sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh giai cấp. (kìm hãm
ý thức xã hội) làm cho ý thức xã hội tụt hậu.
_Ý thức xã hội có thể vượt trc tồn tại xã hội:
vd: sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật giúp con người chinh phục không
gian và tiên đoán đc những việc xảy ra trong tương lai( thời tiết, )
_Ý thức xã hội có sự kế thừa trong quá trình phát triển của nó:
vd: công cụ lao động có đc sự hoàn thiện (hình dáng, tinh năng, hiệu quả sử dụng )
như ngày nay ko phải bỗng dưng mà có. Nó phải trải qua quá trình phát triển lâu dài
từ hàng ngàn năm cùng sự phát triển của loài người.

_Sự tác đọng qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của nó(Cái
này hơi trừu tường mình ko có câu trả lời)
_Ý thức xã hội có khả năng tác động trở lại tồn tại xã hội:sự phát triển của các lĩnh
vực( văn hóa, thẩm mĩ, triết học, chính trị, tư tưởng,,,,,) có nguồn gốc từ sự phát
triển của kinh tế( theo mình hiểu nó là tồn tại xã hội) tuy nhiên chính bản thân các
lĩnh vực đó lại tự chúng tác động lẫn nhau đồng thời tác đọng tới
Chương 14
câu 1 Qhệ giữa quần chúng nhân dân với lãnh tụ
tính thống nhất giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ. Không có phong trào cách
mạng của quần chúng nhân dân, không có các quá trình kinh tế, chính trị, xã
hội của đông đảo quần chúng nhân dân, thì cũng không thể xuất hiện lãnh tụ.
Những cánhân ưu tú, những lãnh tụ kiệt xuất là sản phẩm của thời đại, vì vậy, họ sẽ
là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của phong trào quần chúng. quần
chúng nhân dân và lãnh tụ thống nhất trong mục đích và lợi ích của mình. Sự thống
nhất về các mục tiêu của cách mạng, của hành động cách mạng giữa quần chúng
nhân dân và lãnh tụ do chính quan hệ lợi ích quy định. Lợi ích biểu hiện
trên nhiều khía cạnh khác nhau: lợi ích kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích văn hóa
Quan hệ lợi ích là cầu nối liền, là nội lực để liên kết các cá nhân cũng như quần
chúng nhân dân và lãnh tụ với nhau thành một khối thống nhất về ý chí và hành
động. Lợi ích đó vận động phát triển tùy thuộc vào thời đại, vào địa vị lịch sử của
giai cấp cầm quyền mà lãnh tụ là đại biểu, phụ thuộc vào khả năng nhận thức và
vận dụng để giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân, các giai cấp và tầng lớp xã
hội. Từ đó, có thể thấy rằng, mức độ thống nhất về lợi ích là cơ sở quy định sự
thống nhất về nhận thức và hành động giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ trong
lịch sử.
sự khác biệt giữa quần chúng nhân dân và lãnh tụ biểu hiện trong vai trò khác nhau
của sự tác động đến lịch sử. Tuy cùng đóng vai trò quan trọng đối với tiếntrình phát
triển của lịch sử xã hội, nhưng quần chúng nhân dân là lực lượng quyết định sựphát
triển, còn lãnh tụ là người định hướng, dẫn dắt phong trào, thúc đẩy sự phát triển
của lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định vai trò quyết định của quần chúng

nhân dân,đồng thời đánh giá cao vai trò của lãnh tụ.
a) Vai trò của quần chúng nhân dân Về căn bản, tất cả các nhà triết học trong lịch
sử triết học trước Mác đều khôngnhận thức đúng vai trò của quần chúng nhân dân
trong trong tiến trình phát triển của lịch sử. Về nguồn gốc lý luận, điều đó có
nguyên nhân từ quan điểm duy tâm hoặc siêu
hình về xã hội. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần chúng nhân dân là chủ
thể sáng tạo chân chính ra lịch sử. Bởi vì, mọi lý tưởng giải phóng xã hội, giải phóng
con người chỉ được chứng minh thông qua sự tiếp thu và hoạt động của quần chúng
nhân dân. Hơn nữa, tư tưởng tự nó không làm biến đổi xã hội mà phải thông qua
hành động cách mạng, hoạt động thực tiễn của quần chúng nhân dân, để biến lý
tưởng, ước mơ thành hiện thựctrong đời sống xã hội. Vai trò quyết định lịch sử của
quần chúng nhân dân được biểu hiện ở ba nội dung. quần chúng nhân dân là lực
lượng sản xuất cơ bản của xã hội, trực tiếpsản xuất ra của cải vật chất, là cơ sở của
sự tồn tại và phát triển của xã hội. Con ngườimuốn tồn tại phải có các điều kiện vật
chất cần thiết, mà những nhu cầu đó chỉ có thể đáp ứng được thông qua sản xuất.
Lực lượng sản xuất cơ bản là đông đảo quần chúng nhân dân lao động bao gồm cả
lao động chân tay và lao động trí óc. Cách mạng khoahọc kỹ thuật hiện nay có vai
trò đặc biệt đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất.Song, vai trò của khoa học
chỉ có thể phát huy thông qua thực tiễn sản xuất của quần\chúng nhân dân lao
động, nhất là đội ngũ công nhân hiện đại và trí thức trong nền sảnxuất xã hội, của
thời đại kinh tế tri thức. Điều đó khẳng định rằng, hoạt động sản xuấtcủa quần
chúng nhân dân là điều kiện cơ bản để quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội. quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội. Lịch
sử đã chứng minh rằng, không có cuộc chuyển biến cách mạng nào mà không là
hoạt động đông đảo của quần chúng nhân dân. Họ là lực lượng cơ bản của cách mạng, đóng
vai trò quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong các cuộc cách mạng làm chuyển
biến xã hội từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, nhân dân lao
động là lực lượng tham gia đông đảo. Cách mạng là ngày hội của quần chúng, là sự nghiệp
của quần chúng. Tất nhiên, suy đến cùng, nguyên nhân của mọi cuộc cách mạng là bắt đầu
từ sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến mâu thuẫn nhân dân. Bởi vậy, nhân dân lao

động là chủ thể của các quá trình kinh tế, chính trị, xãhội, đóng vai trò là động lực cơ bản
của mọi cuộc cách mạng xã hội. quần chúng nhân dân là người sáng tạo ra những giá trị văn
hóa tinh thần.Quần chúng nhân dân đóng vai trò to lớn trong sự phát triển của khoa học,
nghệ thuật, văn học, đồng thời, áp dụng những thành tựu đó vào hoạt động thực tiễn.
Những sáng tạo về văn học, nghệ thuật, khoa học, y học, quân sự, kinh tế, chính trị, đạo
đức của nhân dân vừa là cội nguồn, vừa là điều kiện để thúc đẩy sự phát triển nền văn hóa
tinh thần của các dân tộc trong mọi thời đại. Hoạt động của quần chúng nhân dân từ trong
thực tiễn là nguồn cảm hứng vô tận cho mọi sáng tạo tinh thần trong đời sống xã hội.Mặt
khác, các giá trị văn hóa tinh thần chỉ có thể trường tồn khi được đông đảo quần chúng nhân
dân chấp nhận và truyền bá sâu rộng, trở thành giá trị phổ biến.
b) Vai trò của lãnh tụTrong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có nhiệm vụ
chủ yếu sau:Thứ nhất, nắm bắt xu thế của dân tộc, quốc tế và thời đại trên cơ sở hiểu biết
những quy luật khách quan của các quá trình kinh tế, chính trị, xã hội. Thứ hai, định hướng
chiếnlược và hoạch định chương trình hành động cách mạng. Thứ ba, tổ chức lực lượng, giáo
dục thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động của quần chúng nhằm hướng
vào giải quyết những mục tiêu cách mạng đề ra.
Từ nhiệm vụ trên ta thấy lãnh tụ có vai trò to lớn đối với phong trào quần chúng Lênin viết:
"Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị, nếu
nó không đào tạo được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểutiền
phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào"1. Đồng thời, chủ nghĩa Mác- Lênin
đòi hỏi phải bài trừ tệ sùng bái cá nhân. Tệ sùng bái cá nhân, thần thánh hóa cá nhân người
lãnh đạo, sẽ dẫn đến tuyệt đốihóa cá nhân kiệt xuất, vai trò người lãnh đạo mà xem nhẹ vai
trò của tập thể lãnh đạo và của quần chúng nhân dân. Căn bệnh trên dẫn đến hạn chế hoặc
tước bỏ quyền làm chủcủa nhân dân, làm cho nhân dân thiếu tin tưởng vào chính bản thân
họ, dẫn đến thái độphục tùng tiêu cực, mù quáng, không phát huy được tính năng động sáng
tạo chủ quan của mình. Người mắc căn bệnh sùng bái cá nhân thường đặt mình cao hơn tập
thể, đứngngoài đường lối chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Họ không thực hiện
đúngchính sách cán bộ của Đảng, vi phạm nguyên tắc sinh hoạt Đảng, chia rẽ, bè phái,
mấtđoàn kết, tạo ra nhiều hiện tượng tiêu cực, đánh mất lòng tin trong cán bộ và nhân
dân,phá hoại sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Vì thế, các nhà kinh điển của

chủ nghĩa Mác - Lênin luôn luôn coi sùng bái cá nhân là một hiện tượng hoàn toàn xa lạvới
bản chất, mục đích, lý tưởng của giai cấp vô sản. Những lãnh tụ vĩ đại của giai cấpvô sản như
C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đều hết sức khiêm tốn, gần gũivới nhân dân, đề
cao vai trò và sức mạnh của quần chúng nhân dân, xứng đáng là những vĩ nhân kiệt xuất mà
toàn thể loài người tôn kính và ngưỡng mộ.
Câu 2: Quan điểm của triết học Mác-lênin về bản chất con người 1. Quan
điểm của triết học Mác về bản chất con người: Tiếp thu những hạt nhân hợp lý
trong quan niệm của Hê-ghen và Phơ-bách và các nhà triết học tiền bối trước Mác
về bản chất của con người. Dựa vào những nguyên tắc thế giới quan của CNDVBC,
Mác khẳng định: " Bản chất con người không phải là một cái trìu tượng cố hữu cá
nhân con người riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bQuan niệm hoàn chỉnh về
con người và bản chất con người, phân biệt hai mặt trong bản chất con người là:
mặt sinh học và mặt xã hội. Triết học Mác xem xét bản chất con người một cách
toàn diện, cụ thể, không phải chung chung, trừu tượng mà trong tính hiện thực cụ
thể của nó trong quá trình phát triển của nó. Con người hoà hợp với giới tự nhiên, là
một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả phát triển lâu dài của thế giới vật
chất.Con người có tính xã hội: trước hết bản thân hoạt động sản xuất của con người
mang tính xã hội. Hoạt động con người gắn liền với xã hội và phục vụ cho cả xã hội.
Xã hội cùng với tự nhiên là điều kiện tồn tại của con người. Tính xã hội của con
người thể hiện ở hoạt động và giao tiếp xã hội. + Bản chất con người được hình
thành và phát triể cùng với quá tình lao động, giao tiếp trong đời sống xã hội.
chương 13
câu 1. Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a) Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội. Công lao to
lớn của C.Mác và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa duy vật đến đỉnh cao,
xây dựng quan điểm duy vật về lịch sử và lần đầu tiên giải quyết một cách khoa học
vấn đề sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội. Các ông đã chứng minh rằng,
đời sống tinh thần của xã hội hình thành và phát triển trên cơ sở của đời sống vật
chất, rằng không thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm lý xã hội trong bản thân nó,
nghĩa là không thể tìm trong đầu óc con người mà phải tìm trong hiện thực vật chất.

Sự biến đổi của một thời đại nào đó cũng sẽ không thể giải thích được nếu chỉ căn
cứ vào ý thức của thời đại ấy. C.Mác viết: " không thể nhận định về một thời đại
đảo lộn như thế căn cứ vào ý thức của thời đại ấy. Trái lại, phải giải thích ý thức ấy
bằng những mâu thuẫn của đời sống vật chất, bằng sự xung đột hiện có giữa các
lực lượng sản xuất xã hội và những quan hệ sản xuất xã hội"1. Những luận điểm
trên đây đã bác bỏ quan niệm sai lầm của chủ nghĩa duy tâm muốn đi tìm nguồn
gốc của ý thức tư tưởng trong bản thân ý thức tư tưởng, xem tinh thần, tư tưởng là
nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự phát triển xã hội và trình bày
lịch sử các hình thái ý thức xã hội tách rời cơ sở kinh tế - xã hội. Chủ nghĩa duy vật
lịch sử chỉ rõ rằng tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản
ánh của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Mỗi khi tồn tại xã hội, nhất là
phương thức sản xuất biến đổi thì những tư tưởng và lý luận xã hội, những quan
điểmvề chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, v.v. sớm
muộn sẽ biến đổi theo. Cho nên ở những thời kỳ lịch sử khác nhau nếu chúng ta
thấy có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác nhau thì đó là do những
điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định. Quan điểm duy vật lịch sử về
nguồn gốc của ý thức xã hội không phải dừng lại ở chỗ xác định sự phụ thuộc của ý
thức xã hội vào tồn tại xã hội, mà còn chỉ ra rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức
xã hội không phải một cách giản đơn trực tiếp mà thường thông qua các khâu trung
gian. Không phải bất cứ tư tưởng, quan niệm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào
cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi
nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối quan hệ kinh tế được phản
ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy. Như vậy, triết học Mác -
Lênin đòi hỏi phải có thái độ biện chứng khi xem xét sự phản ánh tồn tại xã hội của
ý thức xã hội. b) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội. Khi khẳng định vai trò
quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội, và ý thức xã hội là sự phản ánh
của tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội, chủ nghĩa duy vật lịch sử không
xem ý thức xã hội như một yếu tố thụ động, trái lại còn nhấn mạnh tác dụng tích
cực của ý thức xã hội đối với đời sống kinh tế - xã hội, nhấn mạnh tính độc lập
tương đối của ý thức xã hội trong mối quan hệ với tồn tại xã hội. Tính độc lập tương

đối đó biểu hiện ở những điểm sau đây: - ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn
tại xã hội Lịch sử xã hội cho thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí đã mất rất
lâu, nhưng ý thức xã hội do xã hội đó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng. Tính độc lập
tương đối này biểu hiện đặc biệt rõ trong lĩnh vực tâm lý xã hội (trong truyền thống,
tập quán, thói quen, v.v.). V.I.Lênin cho rằng, sức mạnh của tập quán được tạo ra
qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm nhất. Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã
hội cũng biểu hiện rõ trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức
có nguồn gốc sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội mới như lối sống ăn
bám, lười lao động, tệ tham nhũng, v.v ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với
tồn tại xã hội là do những nguyên nhân sau đây: Một là, sự biến đổi của tồn tại xã
hội do tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của những hoạt động thực
tiễn của con người, thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội có thể không
phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã
hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã hội. Hai là, do
sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạchậu, bảo thủ
của một số hình thái ý thức xã hội. Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của
những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định các lực lượng xã hội
phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới phải thường xuyên tăng cường công tác tư tưởng, đấu
tranh chống lại những âm mưu và hành động phá hoại của những lực lượng thù
địch về mặt tư tưởng, kiên trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra sức phát
huy những truyền thống tư tưởng tốt đẹp. - ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại
xã hội Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn của ý thức xã hội so với tồn tại xã
hội, triết học mácxít đồng thời thừa nhận rằng, trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng của con người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên tiến có thể vượt trước
sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ chức, chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó vào việc giải quyết
những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật chất của xã hội
đặt ra. Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể đi trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá

trình khách quan của sự phát triển xã hội thì không có nghĩa nói rằng trong trường
hợp này ý thức xã hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa. Tư tưởng khoa
học tiên tiến không thoát ly tồn tại xã hội, mà phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại
xã hội. - ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình Lịch sử phát
triển đời sống tinh thần của xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận của mỗi
thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế
thừa những tài liệu lý luận của các thời đại trước. Do ý thức có tính kế thừa trong
sự phát triển, nên không thể giải thích được một tư tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào
những quan hệ kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn phát triển tư tưởng
trước đó. Lịch sử phát triển của tư tưởng cho thấy những giai đoạn hưng thịnh hoặc
suy tàn của triết học, văn học, nghệ thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn
với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của kinh tế. Tính chất kế thừa trong
sự phát triển của tư tưởng là một trong những nguyên nhân nói rõ vì sao một nước
có trình độ phát triển tương đối kém về kinh tế nhưng tư tưởng lại ở trình độ phát
triển cao. Thí dụ, nước Pháp thế kỷ XVIII có nền kinh tế phát triển kém nước Anh,
nhưng tư tưởng thì lại tiên tiến hơn nước Anh; so với Anh, Pháp thì nước Đức ở nửa
đầu thế kỷ XIX lạc hậu về kinh tế, nhưng đã đứng ở trình độ cao hơn về triết học.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai
cấp của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức khác nhau
của các thời đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những di sản tư tưởng tiến
bộ của xã hội
c) ý nghĩa phương pháp luận TTXH & YTXH là hai phương diện thống nhất biện
chứng của đời sống xã hội. Vì vậy công cuộc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới
phải được tiến hành đồng thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã hội. Cần
thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội;
mặt khác, cũng cần thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất
yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội mà ngược
lại, những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định
cũng có thể tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội. Quán triệt
nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở

nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hoá, phát huy vai trò
tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế
vàcông nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm
chủ quan duy ý chí trong việc xây dựng văn hoá, xây dựng con người mới. Cần thấy
rằng chỉ có thể thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội xã hội chủ
nghĩa trên cơ sở cải tạo triệt để phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền
thống và xác lập, phát triển được một phương thức sản xuất mới trên cơ sở thực
hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Câu 2 : tính độc lập tương đối của ý thức xã hội? Thứ nhất, ý thức xã hội thường
lạc hậu so với tồn tại xã hội. Thứ hai, ytxh có thể vượt trước ttxh. Thứ 3, ytxh có sự
kế thừa trong sự phát triển của nó. Thứ 4, sự tác động qua lại giữa các hình thái ytxh
trong sự phát triển of nó. Thứ 5, ytxh có khả năng tác động trở lại tồn tại xh - Thứ
nhất: Chế độ Phong kiến không còn nhưng tư tưởng phong kiến vẫn còn đến ngày
nay. - Thứ 2: Vũ trụ quan trong tư tưởng Triết học Phật giáo cho đến thời điểm này
vẫn còn nguyên giá trị. Nói như Albert Einstein thì: ''nếu có một Tôn giáo nào tiếp
cận được với sự phát triển của khoa học thì đó là Phật Giáo'' Thứ 3: Chủ nghĩa
Mác đã kế thừa những tinh hoa tư tưởng của loài người mà trực tiếp là nền triết học
Đức, kinh tế học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Thứ 4: Chẳng
hạn ở thời cổ đại Tây Âu thì triết học và nghệ thuật đóng vai trò đặc biệt. Thời
Trung Cổ ở Tây Âu thì tôn giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến triết học, nghệ thuật, pháp
quyền Ngày nay thì hệ tư tưởng chính trị và khoa học đang tác động đến các lĩnh
vực của đời sống tinh thần xã hội.
- Thứ 5: Chẳng hạn hệ tư tưởng tư sản đã tác động mạnh mẽ đến xã hội các nước
Tây Âu thế kỷ XVII, XVIII. Hệ tư tưởng vô sản trở thành vũ khí về mặt tư tưởng
của giai cấp vô sản đấu tranh để xoá bỏ xã hội tư bản.
chương 11 :
câu 1 :
câu 2 :Vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự pt của Xh có đối kháng giai cấp? vấn đề giai cấp ở
nước ta hiện nay? 1. Đấu tranh giai cấp : Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu
tranh giai cấp. V.I.Lênin định nghĩa đấu tranh giai cấp là “cuộc đấu tranh của quần

chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi,
bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về
mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp
thống trị, chống lại bọn đặc quyền, đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc lột.Đấu
tranh giai cấp có nguyên nhân khách quan từ sự phát triển mang tính xã hội
hoá ngày càng sâu rộng của lực lượng sản xuất với quan hệ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất. Biểu hiện của mâu thuẫn này về phương diện xã hội: Mâu
thuẫn giữa một bên là giai cấp cách mạng, tiến bộ, đại diện cho phương thức
sản xuất mới, với một bên là giai cấp thống trị bóc lột đại biểu cho những lợi
ích gắn với quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu.
2. Đấu tranh giai cấp - một trong những động lực phát triển của xã hội có giai cấp
Đỉnh cao của cuộc đấu tranh giai cấp tất yếu sẽ dẫn đến cách mạng xã hội, thay thế
phương thức sản xuất cũ bằng một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Phương
thức sản xuất mới ra đời mở ra địa bàn mới cho sự phát triển của sản xuất xã hội.
Sản xuất phát triển sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ đời sống xã hội.
Dựa vào tiến trình phát triển của lịch sử, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh rằng
đỉnh cao của đấu tranh giai cấp là cách mạng xã hội. Cách mạng xã hội như là đòn
bẩy thay đổi các hình thái kinh tế xã hội vì vậy “đấu tranh giai cấp là động lực trực
tiếp của lịch sử các xã hội có giai cấp”.
Đấu tranh giai cấp góp phần xoá bỏ các thế lực phản động, lạc hậu đồng thời cải tạo
cả bản thân giai cấp cách mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất
mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo cách mạng. Thành tựu mà loài người dạt được trong
tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học và công nghệ, cải
cách về dân chủ và tiến bộ xã hội không tách rời cuộc đấu tranh giai cấp giữa các
giai cấp tiến bộ chống các thế lực thù địch, phản động.
Đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là cuộc đấu tranh sau cùng trong
lịch sử xã hội có giai cấp. Nó là cuộc đấu tranh khác về chất so với so với các cuộc
đấu tranh trước đó trong lịch sử. Bởi vì, mục tiêu của nó là thay đổi về căn bản sở

hữu tư nhân bằng sở hữu xã hội.
Trước khi giành được chính quyền, nội dung của đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô
sản và giai cấp tư sản là đấu tranh kinh tế, đấu tranh tư tưởng, đấu tranh chính trị.
Sau khi giành chính quyền, thiết lập nền chuyên chính của giai cấp vô sản, mục tiêu
và hình thức đấu tranh giai cấp cũng thay đổi. V.I.Lênin viết “Trong điều kiện
chuyên chính vô sản, những hình thức đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản không
thể giống như trước được”.
Trong cuộc đấu tranh này, giai cấp vô sản phải biết cách sử dụng mọi nguồn lực, vận
dụng linh hoạt các hình thức đấu tranh. Mục tiêu của cuộc đấu tranh này là giữ vững
thành quả cách mạng, xây dựng và củng cố chính quyền của nhân dân; tổ chức quản
lý sản xuất, quản lý xã hội, bảo đảm tạo ra một năng suất lao động xã hội cao hơn,
trên cơ sở đó thủ tiêu chế độ người bóc lột người, xây dựng một xã hội mới, công
bằng, dân chủ, văn minh. Đó vừa là mục tiêu, đồng thời vừa là nhân tố bảo đảm
thắng lợi cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư bản.
3. Ở Việt Nam, đấu tranh giai cấp trong giai đoạn quá độ hiện nay cũng là một tất
yếu. Do bối cảnh lịch sử của quá trình hình thành giai cấp và điều kiện mới của xu
hướng quốc tế hoá, đấu tranh giai cấp ở Việt Nam có những đặc điểm riêng.Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta tiếp tục khẳng định rằng, hiện nay và cả
trong thời kỳ quá độ của cả nước ta còn tồn tại một cách khách quan các giai cấp và
đấu tranh giai cấp. Nhưng đấu tranh giai cấp ở nước ta hiện nay phải nhận thức cho
đúng, nó diễn ra trong điều kiện mới với những nội dung mới và hình thức mới. Bởi
vì cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của Nhà nước, cơ cấu giai cấp, nội dung, tính chất, vị trí của các giai cấp
trong xã hội ta cũng đã thay đổi nhiều, khác với thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ
trong những năm đầu chúng ta mới giành được chính quyền. Mối quan hệ giữa các
giai cấp, sự phát triển của các giai cấp trong sự nghiệp xây dựng đất nước, bảo vệ Tổ
quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước không còn như trước
đây. Ngày nay, mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp chủ yếu là mối quan hệ
hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân nhằm tăng cường đoàn kết trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp

công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là độc l (Các)
nguồn độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dân, giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa hai con
đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ độc
lập dân tộc, chống áp bức bất công, chống bóc lột chống nghèo nàn lạc hậu đấu tranh
chống tình trạng đói nghèo, kém phát triển. Vì vậy, nội dung chủ yếu của đấu tranh
giai cấp trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng
nước nghèo kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu
tranh ngăn chặn, khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh
làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ
độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân
dân hạnh phúc. Đồng thời Đảng ta cũng khẳng định: Động lực chủ yếu để phát triển
đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân
và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội .
Chương 12
câu 1 : Nguồn gốc, bản chất, của nhà nước? I. Nguồn gốc Nhà nước. Lịch sử cho thấy không phải
khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân
hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng do nhân dân
bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung. Trong tay họ không có và không cần một công cụ
cưỡng bức đặc biệt nào.
Lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến sự ra đời chế độ tư hữu và từ đó xã hội phân chia thành các
giai cấp đối kháng và cuộc đấu tranh giai cấp không thể điều hoà được xuất hiện. Điều đó dẫn đến nguy
cơ các giai cấp chẳng những tiêu diệt lẫn nhau mà còn tiêu diệt luôn cả xã hội. Để thảm hoạ đó không
diễn ra, một cơ quan quyền lực đặc biệt đã ra đời. Đó là nhà nước. Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là
nhà nước chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai
cấp nô lệ. Tiếp đó là nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản. Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện
nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể

điều hoà được. Đúng như V.I.Lênin nhận định: "Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu
thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan,
những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của
nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được"1. Nhà nước chỉ ra đời,
tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của
nó không còn nữa.
II. Bản chất nhà nước.
Khái niệm Nhà nước: Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, có bộ máy chuyên
trách để cưỡng chế và quản lý xã hội nhằm thực hiện và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị
trong xã hội có giai cấp đối kháng, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản trong xã hội xã hội chủ nghĩa.
Bản chất của Nhà nước: Theo quan điểm lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước xét về bản chất,
là một hiện tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế nhất định; là công cụ
để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác, là một tổ chức quyền lực đặc biệt, có bộ
máy chuyên trách để cưỡng chế và thực hiện các chức năng quản lý nhằm thực hiện và bảo vệ lợi ích
của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp đối kháng.
Bản chất của nhà nước thể hiện dưới hai đặc tính cơ bản: Thứ nhất, là tính giai cấp của Nhà nước: thể
hiện ở chỗ nhà nước là công cụ thống trị trong xã hội để thực hiện ý chí của giai cấp cầm quyền, củng
cố và bảo vệ trước hết lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Bản chất của nhà nước chỉ rõ nhà nước
đó là của ai, do giai cấp nào tổ chức và lãnh đạo, phục vụ lợi ích của giai cấp nào?
Trong xã hội bóc lột (xã hội chiếm hữu nô lê, xã hội phong kiến, xã hội tư sản) nhà nước đều có bản
chất chung là thiết chế bộ máy để thực hiện nền chuyên chính của giai cấp bóc lột trên 3 mặt: Kinh tế,
chính trị và tư tưởng.
Vì vậy, nhà nước tồn tại với hai tư cách: Một là bộ máy duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác.
Hai là tổ chức quyền lực công – tức là nhà nước vừa là người bảo vệ pháp luật vừa là người bảo đảm
các quyền của công dân được thực thi. Thứ hai là tính xã hội hay còn gọi là vai trò kinh tế - xã hội của
Nhà nước.
Trong nhà nước, giai cấp thống trị chỉ tồn tại trong mối quan hệ với các tầng lớp giai cấp khác, do vậy
ngoài tư cách là công cụ duy trì sự thống trị, nhà nước còn là công cụ để bảo vệ lợi ích chung của toàn

xã hội.Ví dụ: Nhà nước giải quyểt các vấn đề nảy sinh từ đời sống xã hội như: đói nghèo, bệnh tật,
chiến tranh, các vấn đề về môi trường, phòng chống thiên tai, địch hoạ, về dân tộc, tôn giáo và các
chính sách xã hội khác.v.v…
Bảo đảm trật tự chung- bảo đảm các giá trị chung của xã hội để tồn tại và phát triển Như vậy, vai trò
kinh tế - xã hội là thuộc tính khách quan, phổ biến của Nhà nước. Tuy nhiên, mức độ biểu hiện cụ thể
và thực hiện vai trò đó không giống nhau giữa các nhà nước khác nhau. Vai trò và phạm vi hoạt động
của nhà nước phụ thuộc vào từng giai đoạn phát triển cũng như đặc điểm của mỗi nhà nước, song phải
luôn tính đến hiệu quả hoạt động của nhà nước.
Để hoạt động có hiệu quả, nhà nước phải chọn lĩnh vực hoạt động nào là cơ bản, cần thiết để tác động.
Bởi nếu không có sự quản lý của nhà nước sẽ mang lại hậu quả xấu cho xã hội. Vì vậy, vai trò của nhà
nước chỉ nên hoạt động và quản lý trên năm lĩnh vực sau:- Ban hành pháp luật và có các biện pháp bảo
đảm thi hành pháp luật. - Ban hành các chính sách kinh tế vĩ mô,điều tiết, điều phối các chính sách kinh
tế - xã hội, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường Đầu tư, cung cấp hàng hoá dịch vụ xã hội cơ bản (cấp
phép, kiểm dịch, kiểm định, giám sát, kiểm tra các lĩnh vực.v.v…) - Giữ vai trò là người bảo vệ (Các)
nguồn những nhóm người yếu thế và dễ bị tổn thương trong xã hội (người già, trẻ em, người tàn
tật.v.v…) - Hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, giao thông; phòng chống thiên tai, bão
lụt.v.v… - Ngày nay các nước trên thế giới đều chú ý quan tâm nhiều đến vai trò xã hội của nhà nước
vì sự tồn vong của cộng đồng xã hội.
C©u 2. B ả n ch ấ t v à nguyªn nh©n vai trò c ủ a cáh m ạ ng xã h ộ i
a,. Khái ni ệ m cách m ạ ng xã h ộ i:
Nghĩa rộng: CMXH là sự biến đổi có tính chất bước ngoặt và căn bản về chất
trong mọi lĩnh vực đời sống XH, là phương thức thay thế hình thái kinh tế - xã
hội lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội cao hơn.
Nghĩa hẹp: CMXH là việc lật đổ một chế độ chính trị đã lỗi thời thiết lập một
chế độ chính trị tiến bộ hơn.
Phân biệt CMXH với tiến hoá, cải cách, đảo chính
Khác với CMXH, tiến hoá là quá trình phát triển diễn ra một cách tuần tự, dần
dần với những biến đổi cục bộ trong một hình thái KT-XH nhất định.
Cải cách XH cũng tạo nên sự thay đổi về chất nhất định trong đời sống xã hội
nhưng nó chỉ tạo nên những biến đổi riêng lẻ, bộ phận trong khuôn khổ chế độ xã

hội đang tồn tại.
Đảo chính là thủ đoạn giành quyền lực nhà nuớc bởi một cá nhân hoặc một
nhóm nguời nhằm xác lập một chế độ xã hội có cùng bản chất.
*. Vai trò c ủ a CMXH :
Cách mạng xã hội là phương thức tất yếu của sự thay thế các hình thái kinh tế xã
hội trong lịch sử.
Chỉ có cách mạng xã hội mới thay thế được quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ
sản xuất mới thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Cách mạng xã hội là bước chuyển biến vĩ đại trong đời sống xã hội về kinh tế,
chính trị, văn hoá. Cách mạng xã hội là đầu tầu của lịch sử.
Lịch sử phát triển loài người đã trải qua 4 cuộc cách mạng xã hội, trong đó cách
mạng vô sản là kiểu cách mạng XH mới về chất.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×